Việc Việt Nam hồi cuối tháng 3 gửi
tới Liên Hiệp Quốc công hàm bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về Biển Đông
tạo sự phấn chấn trong công chúng Việt Nam những ngày gần đây, theo quan
sát của VOA.
Cảnh sát biển Việt Nam tuần tra, bảo vệ chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông. (Ảnh Cảnh sát biển Việt Nam chụp từ màn hình Dân Việt) |
Đồng
thời, trong các diễn đàn trên mạng, dư luận và một số nhà quan sát đưa
ra phỏng đoán rằng động thái mới cho thấy trong nội bộ giới lãnh đạo
Việt Nam, khuynh hướng kiện Trung Quốc về ranh giới trên biển đang thắng
thế, còn phe phái bị xem là “thân Tàu” đang yếu thế.
Tuy
nhiên, hai chuyên gia am hiểu Việt Nam và Biển Đông nói trong các cuộc
phỏng vấn riêng rẽ của VOA rằng họ không đồng ý về phỏng đoán kể trên.
“Trong
nội bộ chính quyền Việt Nam sẽ có những người có quan điểm muốn cứng
rắn hơn với Trung Quốc, nhưng cũng có những người muốn mềm mỏng hơn, ứng
xử khéo léo hơn với Trung Quốc. Tôi nghĩ điều đó không nhất thiết dẫn
đến việc chúng ta phải gắn nhãn họ là thân Trung Quốc hay chống Trung
Quốc”, tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEA
-Yusof Ishak đặt tại Singapore, nói với VOA.
Theo
nhà nghiên cứu này, liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông, “hầu như
tất cả” các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam
đều có quan điểm thận trọng và muốn bảo vệ lợi ích của Việt Nam trước sự
lấn tới của Trung Quốc, nhưng các quan chức Việt Nam “chưa thống nhất”
được biện pháp ứng xử với Trung Quốc.
Tiến
sĩ Hiệp nói thêm: “Có người muốn khéo léo hơn với Trung Quốc để làm sao
Việt Nam vừa bảo vệ được lợi ích của mình trên Biển Đông vừa không tổn
hại các lợi ích chính trị và kinh tế trong quan hệ với Trung Quốc. Vì
vậy, tôi nghĩ điều này gây ra cảm nhận không hoàn toàn chính xác từ bên
ngoài là trong nội bộ Việt Nam có những nhóm thân Trung Quốc hay chống
Trung Quốc. Điều này không hoàn toàn chính xác. Đa phần [trong chính
quyền Việt Nam] đều đồng thuận là phải chống lại áp lực của Trung Quốc
trên Biển Đông, nhưng điểm khác biệt [giữa họ] là làm thế nào để đạt
được mục tiêu đó”.
Thạc
sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện làm việc ở thành phố
Hồ Chí Minh, chia sẻ quan điểm trên. Ông Việt nói với VOA: “Cấu trúc
chính trị của Việt Nam là mọi việc phải có sự đồng thuận của tập thể.
Tuy cũng có những nhóm có vẻ thân Trung Quốc hơn hay có vẻ hướng về phía
Mỹ hơn. Có vẻ thôi, chứ còn phân thành các nhóm rõ rệt ở Việt Nam thì
chắc chắn là khó, không có. Việt Nam thống nhất từ trên xuống dưới, và
không phải bây giờ mà đường hướng ngoại giao đã có từ trước”.
Lãnh đạo VN chuyển hướng tư duy
Mặc
dù vậy, theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, đang có chuyển động đáng chú ý
trong tầng lớp có quyền ra quyết sách ở Việt Nam. Ông nói: “Qua một loạt
những sự kiện, đang có những tín hiệu cho thấy ngay cả các lãnh đạo cao
nhất của Việt Nam đang có sự chuyển hướng tư duy, tức là hướng từ Trung
Quốc trước đây dần sang phía Mỹ và đồng minh”.
Đưa
ra dẫn chứng về quan điểm này, ông Việt đề cập đến sự kiện tàu hải cảnh
Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam hôm 2/4 ở gần quần đảo
Hoàng Sa trong vòng tranh chấp và ngay ngày hôm sau, 3/4, báo Nhân Dân,
cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, đăng toàn văn
tuyên bố phản đối của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Để
so sánh, nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại rằng hồi hè-thu
năm 2019, khi Trung Quốc đưa tàu khảo sát hải dương vào hoạt động trong
hơn 3 tháng ở Bãi Tư Chính gây ra căng thẳng vô cùng lớn giữa Việt Nam
với Trung Quốc, báo Nhân Dân “không đăng một dòng nào” về vấn đề đó.
Vẫn
nhà nghiên cứu này nói với VOA rằng vụ đâm chìm tàu hôm 2/4 không hề
“ngẫu nhiên”, mà có liên quan đến việc Việt Nam gửi công hàm tới LHQ hôm
30/3, trong đó bác bỏ các “yếu tố lịch sử” để xác lập yêu sách về chủ
quyền biển của Trung Quốc: “Ngày 30/3, phía Việt Nam nộp công hàm, có
thể là Trung Quốc phản ứng lại về hai điều. Một là thái độ của Việt Nam
đối với Hoa Kỳ gần đây, và thứ hai là đối với công hàm ngày 30/3 thì
Trung Quốc phản ứng bằng cách cho đâm chìm tàu cá”.
Như
tin đã đưa, trong công hàm gửi LHQ vào cuối tháng 3, Việt Nam phản đối
các yêu sách về biển nêu trong một số công hàm của Trung Quốc cũng gửi
đến LHQ trước đó.
“Những
yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
tài phán của Việt Nam tại biển Đông”, công hàm của Việt Nam có đoạn
viết.
Công hàm xác lập thêm cơ sở pháp lý
Qua
công hàm, Việt Nam khẳng định Công ước của LHQ về luật Biển 1982
(UNCLOS) là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về
phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đồng
thời, Việt Nam đưa ra quan điểm về các thực thể ở cả hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa rằng “vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121
(3) của Công ước; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền
các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm, hoặc cấu
trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không
có vùng biển riêng”.
Theo
thạc sĩ luật Hoàng Việt, cũng là chuyên gia về Biển Đông, quan điểm mới
nhất của Việt Nam phù hợp với phán quyết của một tòa trọng tài quốc tế
hồi năm 2016 về tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc, mặc dù
trong công hàm mới đây Việt Nam không trực tiếp nhắc đến phán quyết.
Chuyên
gia Hoàng Việt cho rằng những lập trường rõ ràng hơn, cụ thể hơn của
Việt Nam về các vấn đề tranh chấp biển giúp xác lập cơ sở vững chắc hơn
để Việt Nam có thể sử dụng các công cụ pháp lý trong tương lai. Còn hiện
nay “chưa xuất hiện tình thế căng thẳng đến mức Việt Nam phải khởi kiện
Trung Quốc”, vẫn theo lời ông Việt.
Khi
nào Việt Nam sẽ sử dụng các công cụ pháp lý là “một câu hỏi mở” và là
“quyết định chính trị”, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp thuộc Viện
ISEA-Yusof Ishak đưa ra nhận định.
Có
nhiều yếu tố có thể tác động đến việc Việt Nam sẽ chọn thời điểm nào để
kiện, trong đó quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc là “yếu tố
quyết định”, tiến sĩ Hiệp nói.
(VOA)
Không có nhận xét nào