Header Ads

  • Breaking News

    TS. Phạm Quý Thọ - Đại hội 13: COVID-19 và cơ hội cho Việt Nam thay đổi để phát triển?

    Ngày 22/5/2020 ‘Tổ công tác đặc biệt’ và đề án thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), được quyết định thành lập với mục đích vừa nêu. Chính phủ Hà Nội đã nhận thức tầm quan trọng của vấn đề. Tuy nhiên, nếu chỉ quan niệm đó là cơ hội để thu hút FDI, thì có lẽ chưa xứng tầm với cơ hội thay đổi để phát triển hiện nay.

    Hình minh hoạ. Người dân đi qua tấm biển kỷ niệm 130 năm ngày sinh Hồ Chí Minh trên đường phố Hà Nội hôm 19/5/2020
    Đại dịch COVID-19 đang gây ra cuộc khủng khoảng kép nghiêm trọng về y tế và kinh tế cho thế giới. Đây là ‘một biến cố lớn’ chưa từng có từ trăm năm nay, sẽ định hình lại ‘trật tự thế giới’, trong đó sự đối đầu của các chế độ khác biệt về hệ tư tưởng là một đặc trưng quan trọng. Hiệu ứng lan toả của nó đến mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, cộng hưởng với các yếu tố trong nước trước thềm Đại hội 13 của Đảng Cộng sản mở ra cơ hội phát triển.

    Trong giai đoạn gần đây nước ta cũng từng có những cơ hội lớn bị bỏ lỡ, bởi vì thiếu những chính sách cải cách cần thiết vượt qua ý thức hệ XHCN giáo điều.

    Bối cảnh thay đổi

    Đặc điểm bao trùm xu hướng phát triển thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay là sự đối đầu liên tục giữa hai ý thức hệ: chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga năm 1917 là ‘biến cố’ đã sản sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, mô hình Xô – Viết, mở đầu xu hướng này. Chiến tranh thế giới II (1939 -1945) đã kết thúc sự tồn vong của chủ nghĩa phát xít, nhưng cũng là lúc khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần 50 năm giữa hai hệ thống đối nghịch về hệ tư tưởng.

    Sau khi mô hình Xô-Viết sụp đổ ở Đông Âu năm 1991, mặc dù còn có những biến thể kiểu như mô hình Trung Quốc, nhưng thế giới đã chứng kiến giai đoạn toàn cầu hoá mạnh mẽ, tưởng như, làm mờ dần và có thể xoá đi sự khác biệt ý thức hệ để cùng nhau phát triển. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra xu hướng này vẫn tiếp diễn. Sự khác biệt chế độ chính trị không những không mất đi mà âm ỉ, và dần bùng lên thành đám cháy ngày càng dữ dội.

    Điều kỳ diệu tăng trưởng nhanh của mô hình Trung Quốc dần tan biến. Chính quyền Bắc Kinh bị cáo buộc cạnh tranh kinh tế không công bằng, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã phát động cuộc thương chiến từ năm 2018, và nhanh chóng leo thang sang các lĩnh vực khác, từ sở hữu trí tuệ, công nghệ cao đến các vấn đề nhân quyền, tôn giáo và tham vọng địa chính trị… Sự đối đầu ý thức hệ dường như trong mọi vấn đề quan hệ song phương Mỹ - Trung.

    Đại dịch COVID-19 bộc lộ bản chất chuyên quyền chế độ toàn trị ở Trung Quốc, như ‘giọt nước tràn ly, làm căng thẳng mâu thuẫn giữa hai cường quốc kinh tế, làm thay đổi bối cảnh phát triển cho các quốc gia trên thế giới.

    Quá trình phát triển của Việt Nam, quốc gia có chế độ với ý thức hệ tương đồng với Trung Quốc, bị chi phối mạnh mẽ trong bối cảnh nêu trên, trong đó đã từng có các cơ hội bị bỏ lỡ.

    Hai cơ hội bỏ lỡ

    Hai cơ hội quan trọng mà Việt Nam đã bỏ lỡ được các nhà nghiên cứu chỉ ra là thời cơ sau năm 1975 ngay sau khi đất nước không còn chia cắt về mặt địa lý và sau chính sách ‘đổi mới’ đất nước, lấy mốc từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 năm 1986.

    Trước hết, sau năm 1975 đất nước không còn chia cắt về mặt địa lý và hoà bình là cơ hội to lớn để phát triển. Dân tộc Việt Nam có một khát vọng mạnh mẽ hướng tới tương lai thịnh vượng. Mặc dù, sau chiến tranh đất nước còn nghèo và lạc hậu, nhưng có niềm tin lớn về tiềm năng con người, ý chí vượt khó của người dân, năng lực lãnh đạo của những người cầm quyền, được thử thách trong chiến tranh …

    Tuy nhiên, như hệ quả của xu hướng phát triển chung, ‘Bên thắng cuộc’ đã áp đặt luật chơi. Đồng thời với việc khắc phục hậu quả của chiến tranh, ‘thể chế XHCN’ đã thiết lập trên cả nước, từ hành chính đến nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đối với miền Nam các chính sách đổi tiền, cải tạo công thương, quốc hữu hoá ruộng đất… đã xoá đi các nền tảng và các quan hệ thị trường, tuy giới hạn trong điều kiện thời chiến, nhưng đã kết nối rộng rãi với các nước tư bản tiên tiến. Hậu quả nặng nề để lại là tình trạng kiệt quệ về kinh tế trong suốt hơn hơn một thập kỷ sau.

    Cơ hội quan trọng thứ hai xuất hiện vào thập niên 1990 trong bối cảnh hệ thống XHCN ở Đông Âu sụp đổ hoàn toàn và quá trình toàn cầu hoá. Các nước tiên tiến và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) nối lại viện trợ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Nhiều yếu tố hội tụ tạo cơ hội cho Việt Nam hội nhập với kinh tế thị trường khu vực và thế giới.

    Đây là ‘cơ hội thị trường’. Nó được khởi đầu bằng việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, nới rộng quyền tự do kinh tế cho người dân và doanh nghiệp. Cơ hội này đã giúp Việt Nam đạt tốc độ tăng GDP cao trên 7% trong khoảng một thập kỷ, tạo nên hình ảnh ‘con hổ mới’ ở Đông Nam Á.

    Tuy nhiên, ‘sự bứt phá’ bị cản lại bởi chính sách sai lầm, duy ý chí. Với mục tiêu tăng trưởng nhanh các nguồn lực đã tập trung cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, coi đó là trụ cột của nền kinh tế, kiểu cheabol của Hàn Quốc. Sự khác biệt về tính chất sở hữu, tư nhân và nhà nước, cộng với quản lý yếu kém khiến mô hình này sụp đổ.

    Việc vận dụng giáo điều ý thức hệ XHCN trong chính sách kinh tế hướng thị trường là căn nguyên sai lầm. Hậu quả là tốc độ tăng trưởng giảm sút và bất ổn thể chế, khoảng cách tụt hậu kinh tế đã nới rộng so với các nước trong khu vực.

    Cơ hội thay đổi

    Cơ hội phát triển và cơ hội thay đổi trong bối cảnh COVID-19 là chủ đề nóng hiện nay. Do tính chất đối đầu ý thức hệ có thể gọi đây là ‘cơ hội thoát Trung’ đối với nhiều nước trên thế giới và Việt Nam.

    Đại dịch này chính là lúc Việt Nam cần đánh giá lại việc áp dụng mô hình Trung Quốc trong thời gian qua. Trước hết, cần làm rõ sự phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc, tình trạng thâm hụt thương mại nghiệm trọng và kéo dài, các dự án đầu tư kém chất lượng, nhất là trong các lĩnh vực trọng yếu như năng lượng và giao thông… Truyền thông nhà nước dường như công khai hơn với loại tin tức này, thậm chí đưa tin trong kỳ họp đang diễn ra của Quốc Hội khoá XIV về việc doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng dưới nhiều hình thức để kiểm soát các dự án bất động sản có vị trí ‘nhạy cảm’ đối với an ninh quốc gia…

    Việc đánh giá toàn diện hiệu quả và tác động của các chính sách cũng trở nên cần thiết. Chính sách với ‘sáng kiến’ Chính phủ kiến tạo, liệu có khác biệt với chính sách thực dụng do Đặng Tiểu Bình khởi xướng từ đầu những năm 1990. Nó đang thúc đẩy tăng trưởng, nhưng liệu đích đến có thể là chủ nghĩa tư bản thân hữu, như thực tế hiện nay ở Trung Quốc. Dự luật ‘Đặc khu hành chính – kinh tế’ như biện pháp đột phá, đã không được Quốc hội thông qua trước sự phản đối của dân chúng… Dư luận đang cho rằng, việc thành lập Khu kinh tế Vân Đồn, biến tướng của đặc khu, là lách luật...

    Cơ hội thay đổi này đặt cơ sở cho một chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ sự di chuyển của chuỗi cung từ Trung Quốc. GS Trần Văn Thọ, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đã đề xuất một ‘Chiến lược phát triển Việt Nam sau đại dịch’, khái quát về tái cấu trúc nền kinh tế và chuẩn bị các điều kiện cơ sở hạ tầng, cải cách hành chính…

    Cuối cùng, làn sóng thoát Trung hiện nay của các quốc gia khiến Việt Nam cân nhắc những đề xuất nâng cấp quan hệ với Mỹ trong chính sách đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và tham gia ‘Tứ giác kim cương mở rộng’ bao gồm bốn nước Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ với Hàn Quốc, New Zeland và Việt Nam. Nên coi đây cơ hội để tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự đe doạ của chính quyền Bắc Kinh.

    Thách thức chủ yếu

    Cải cách thể chế chính trị trên nền tảng ý thức hệ lạc hậu là thách thức chủ yếu đối với cơ hội phát triển. Liệu một lần nữa Việt Nam sẽ lại bỏ lỡ cơ hội thay đổi để phát triển?

    Những kết quả ‘về cơ bản khống chế’ COVID-19 được nhấn mạnh là nhờ ưu thế của chế độ, vốn được thể hiện trong trạng thái ‘thời chiến’, nhưng đó cũng chính là lực cản phát triển cho kinh tế thị trường trong điều kiện bình thường.

    Chế độ đảng cộng sản toàn trị luôn đặt sự tồn vong là ưu tiên trong mọi tình huống. Từ bản chất của nó phương châm cải cách ‘tiệm tiến’ được xác định như sự đề phòng rủi ro. Thực tế cho thấy những chính sách đột phá thường chỉ xảy ra khi chế độ ‘bị dồn vào chân tường’, và hy vọng ‘mong manh’ đặt ở những ‘vị vua anh minh’. Liệu Đại hội 13 có lựa chọn được những lãnh đạo đủ tầm để nắm bắt cơ hội thay đổi để phát triển?

    TS. Phạm Quý Thọ

    (RFA) 

    Không có nhận xét nào