Header Ads

  • Breaking News

    Hoàng Xuân Hãn và tâm thư của phong trào Việt kiều


    Nhân dịp anh chị Nguyễn Ngọc Giao – Phạm Tư Thanh Thiện về thăm Việt Nam đầu năm 2020, xin được kể một câu chuyện ba mươi năm xưa…
    Hoàng Xuân Hãn và tâm thư của phong trào Việt kiều

    Nửa sau thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 là khoảng thời gian rất thú vị và hào hứng của đời tôi. Khoảng thời gian đó cũng trùng hợp với thời gian Hội Người Việt Nam Tại Pháp hoạt động với nhiều hứng khởi. Nhà Việt Nam, một cơ sở sinh hoạt văn hoá của phong trào Việt kiều, tổ chức mời các người nổi tiếng thuộc giới trí thức, văn nghệ sĩ trong nước sang thăm Paris và gặp gỡ Việt kiều. Các vị như nhà sử học Phan Huy Lê, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng… tham gia những chuyến đi này. Những năm 1986-1989 Việt Nam nổi lên như một nước tiến bộ, cải cách hàng đầu trong khối các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Và trong thực tế đã có lúc Việt Nam tiến rất gần tới nền báo chí tư nhân.

    Viện Bảo Tàng Lịch Sử Tự Nhiên Paris cộng tác với các trường đại học, viện nghiên cứu tại Hung, Tiệp, Ba Lan… lúc đó còn trong khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Trong các chuyến đi làm việc tại các nước đó, các người tôi tiếp xúc đều tỏ ý tán thưởng tốc độ cải cách của Việt Nam. Tuy nhiên cùng với sự sụp đổ hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu với cái chết vi bị xử tử của tổng thống Ru-ma-ni Ceaucescu, giới cầm quyền Việt Nam siết dần lại các quyền tự do căn bản của người dân vốn trước đó được ban phát một cách tương đối hào phóng so với một chính thể chuyên chính. Việc siết lại này khép dần lại các hy vọng về một tương lai Việt Nam phát triển thông qua những cải cách dứt khoát về hướng thiết lập chế độ dân chủ tự do thực sự. Trong hoàn cảnh đó các phong trào người Việt trong nước và ngoài nước viết thơ góp ý, lập kiến nghị gởi nhà cầm quyền Việt Nam yêu cầu cải tổ xã hội, mở rộng dân chủ. Những tên tuổi đáng chú ý từ trong nước có nhà văn Lữ Phương, giáo sư Phan Đình Diệu, nhà văn Dương Thu Hương… Phong trào trong nước có ảnh hưởng mạnh và được sự ủng hộ của ông Trần Xuân Bách, một thành viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam bị mất chức sau đó. Bên ngoài nước thì có Hội Người Việt Nam Tại Pháp - ủng hộ Hà Nội, với tờ báo Đoàn Kết (do các ông Nguyễn Ngọc Giao, Hà Dương Tường, Trần Hải Hạc… điều hành), một tờ báo ôn hòa xây dựng và phê bình những thiếu sót trong việc quản trị đất nước, thảo luận đường hướng canh tân.

    Những ngày tháng này, đầu năm 1990, một số thành viên chủ chốt của tờ Đoàn kết và một số bạn bè cùng ý hướng ở hải ngoại cũng soạn một bức TÂM THƯ (*) Gửi Các Vị Lãnh Đạo Việt Nam Cùng Đồng Bào Trong Và Ngoài Nước Về Việc Cải Tổ Hệ Thống Chính Trị. Chú ý rằng chủ trương Tâm Thư là các anh báo Đoàn Kết chứ không phải là Hội Người Việt Nam Tại Pháp, điều này về sau tôi mới biết. Bác Hoàng Xuân Hãn không ký tên vào Tâm Thư.

    Bác Hoàng Xuân Hãn là một Việt kiều tại Pháp được nhiều người Việt trong và ngoài nước kính trọng, yêu mến vì kiến thức rộng, cuộc đời tận tụy với công việc, tấm lòng với Tổ Quốc. Tới giờ nhiều người còn nhắc bác đã lãnh đạo việc chuyển đổi thành công nền giáo dục Việt Nam từ dùng tiếng Pháp sang dùng tiếng Việt trong thời gian ngắn ngủi làm bộ trưởng bộ Giáo Dục trong chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Căn nhà đường Theophile Gautier, nơi bác ở, là chốn nhiều người Việt yêu thích văn học, sử học, và cả một số nhà chính trị, ghé thăm mỗi khi tới Paris.

    Ngày hôm ấy tôi đang đọc sách trong phòng làm việc với bác Hoàng Xuân Hãn. Có người báo có khách. Bác Hãn đi ra khoảng 40-50 phút sau trở lại, nói các anh trong hội tới thăm bác. “Các anh Đoàn Kết nói bác ký Tâm Thư, nhưng bác không ký”. Các anh Đoàn Kết là các anh chủ trương báo Đoàn Kết.

    Bác giải thích lý do:

    “Các anh ấy có nhiệt huyết, có kiến thức, tính khí đang hăng hái, nghĩ rằng mình đúng, việc mình làm có lợi cho đất nước thì mình gây phong trào làm áp lực lên chính phủ Việt Nam. Các anh ấy không tính rằng chính phủ trong nước đang nới lỏng kiểm soát, cho dân chúng hưởng một số quyền tự do, nếu mình làm quá chính quyền vì e sợ sẽ siết lại, lúc đó quốc dân bên trong phải gánh chịu hậu quả. Mình ở ngoài nước có chịu gì đâu!”

    Lúc đó tôi không hỏi các anh gồm những ai. Vài năm sau đó, khi muốn viết lại mới hối hận. Năm 2017 gặp anh Trần Hải Hạc, anh nói anh không tham gia buổi làm việc tại nhà bác Hãn. “Có lẽ có các anh Nguyễn Ngọc Giao, Bùi Mộng Hùng”, anh Hạc nhớ lại. Mồng 6 tháng giêng Tết Canh Tý năm nay (30/1/2020), tôi có dịp dùng cơm chiều thân mật với anh chị Nguyễn Ngọc Giao - Phạm Tư Thanh Thiện, những Việt Kiều tại Pháp rất xông xáo nhiệt thành với đất nước từ hơn nửa thế kỷ trước, được nghe anh Nguyễn Ngọc Giao xác định anh cùng hai anh nữa là những người làm việc với bác Hãn năm ấy.

    Anh Giao cũng cho biết thêm: “Sau cuộc gặp ở nhà bác Hãn, còn có nhiều cuộc điện thoại bác gọi cho tôi. Bác không ký Tâm Thư (trong khi hai người bạn vong niên của bác là ông Nguyễn Mạnh Hà và Phạm Ngọc Thuần đêu ký) nhưng nói với tôi : Bác sẽ viết thư riêng cho các anh trong nước để giải thích ý nguyện của các cháu và anh em khi ký tâm thư, và mong rằng các anh ấy sẽ có thái độ thích đáng. “Các anh” ấy là hai ông Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng. Khi nhận được hồi âm của hai vị ấy, bác Hãn có điện cho tôi và đọc toàn văn hai lá thư ngắn của họ, đại ý nói hiểu “ý đồ” của tâm thư, và sẽ xử sự một cách “hiểu biết””. Tuy nhiên, trong một thời gian khá lâu sau đó, anh Giao không được cấp visa trở về Việt Nam.

    Hơn ba mươi năm trôi vèo. Nhớ ngày gặp các anh ở Paris, dù làm việc cho trường đại học, viện nghiên cứu Pháp, nhiều anh vẫn chỉ ở một căn hộ nhỏ, một cái tủ, một cái giường, một chiếc bản làm việc. “Để tiện, khi đất nước cần mình thu xếp trở về nhẹ nhàng!”. Nhớ bác Hãn cặm cụi bên chồng sách tài liệu về Việt Nam, bàn tay chậm chạp dò từng trang với chiếc kính phóng đại… Và nhớ cả căn biệt thự của bác tại Trouville bên bờ biển Manche, được bác đặt tên Pháp là Manoir d’Aubonne, tên Việt là Cam Tuyền Dã Thự. Khi dạo bước trên con đường trải đá mi xanh từ cổng vào, lá vàng chớm thu 1989 lượn bay, tôi hỏi bác có tính về Việt Nam không.

    “Tôi không về đâu. Tôi không còn có ích lợi nữa. Nhiều bạn tôi mất rồi. Nhiều người trong dòng họ cũng vậy!”

    Lê Học Lãnh Vân

    (ngày 10 tháng 02 năm 2020)




    TÂM THƯ

    Gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị

    Cách đây 20 năm, bản TÂM THƯ gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị (sau này vẫn được biết dưới tên gọi ngắn là TÂM THƯ) đã được công bố, với hơn 700 chữ ký của những người đã tham gia phong trào ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất, chống chính sách xâm lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam.

    Ở thời điểm mùa xuân năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, phong trào dân chủ ở Trung Quốc đã bị đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn. Ở Việt Nam, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hoảng sợ, kìm hãm cuộc đổi mới và đàn áp những tiếng nói dân chủ, phần lớn xuất phát từ trong nội bộ Đảng.

    Ở nước ngoài, các tổ chức chống đối phấn khởi hi vọng vào sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Việt Nam và Đảng cộng sản. Những tổ chức trước đó chủ trương vũ trang lật đổ nay tuyên bố chọn con đường hòa bình dân chủ.

    Nhiều tuyên ngôn, tuyên cáo, hiệu triệu được phổ biến, kêu gọi "chuyển lửa về quê hương".

    Ngay trong nội bộ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có ít nhất 4 bản tâm thư kêu gọi dân chủ hóa đời sống chính trị Việt Nam, song bản tâm thư mà chúng tôi công bố dưới đây có tiếng vang hơn cả, có lẽ vì nó tập hợp rộng rãi những thành viên tiêu biểu ở các nước, nội dung thể hiện một lập trường chân thành và trách nhiệm, kiên quyết mà ôn hòa.

    Trong bối cảnh diễn biến tình hình trong phe các nước xã hội chủ nghĩa và sự hoảng sợ co cụm của lãnh đạo ĐCS VN, bản tâm thư đã gặp phản ứng tiêu cực của nhà cầm quyền -- sự tiêu cực dường như tỉ lệ với tiếng vang của nó trong dư luận, đặc biệt trong nội bộ ĐCS. Những người ký tâm thư hoặc không được cấp visa về nước, hoặc bị cật vấn, hù dọa. Những người được coi là chủ xướng bị theo dõi, cô lập, cấm cửa, có người được nêu tên trong suốt 14 năm trời ở "Viện bảo tàng tội ác Mỹ-ngụy" (đường Võ Văn Tần, TP HCM), danh sách 34 người ký tên đầu tiên (xem ở dưới) được niêm yết ở trụ sở các tỉnh đội và cơ quan công an, nhân viên sứ quán ở nhiều nước (kể cả đại sứ) được chỉ thị ngăn chận đồng bào ký tên hay thúc ép rút tên khỏi tâm thư...

    Tuy nhiên, chủ trương mù quáng và thô bạo này không gặp sự đồng tình của cán bộ và đảng viên. Trong chừng mực an toàn cá nhân cho phép, nhiều người (kể cả ở cấp cao nhất) cũng đã kín đáo tỏ thái độ thông cảm, tôn trọng.

    Nhân dịp kỷ niệm 20 năm bản Tâm Thư, chúng tôi công bố tài liệu này. Vì nhiều lí do. Trước hết, vì yêu cầu của một số bạn đọc ở trong nước và nước ngoài, bởi một lẽ khá đơn giản (và đáng ngạc nhiên) là nó chưa bao giờ được công bố trên tờ báo nào (Diễn Đàn, hay Đoàn Kết năm 1990, khi ban biên tập Diễn Đàn còn chịu trách nhiệm biên tập báo Đoàn Kết). Thứ nữa, để bản đọc có dịp nhìn lại, đánh giá quan điểm của Tâm Thư, xét xem những ý kiến nêu ra đã lỗi thời, hay vẫn còn là nhu cầu bức thiết của xã hội Việt Nam năm 2010.

    Nguyễn Ngọc Giao

    Trong vòng không đầy bảy tháng, cuộc đàn áp đẫm máu phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ ở Trung Quốc và sự sụp đổ của chế độ độc tài Ceausescu trước sự vùng dậy của nhân dân Rumani, bất chấp tàn sát, khủng bố, đã chứng minh sự phá sản toàn diện của mô hình xã hội chủ nghĩa do Stalin thiết lập ở Liên Xô từ những năm 1930, trong đó, nhân danh giai cấp vô sản, một cá nhân, một nhóm người hay một đảng phái tự cho mình quyền được đứng trên nhân dân, trên Nhà nước và pháp luật. Hoặc do ý thức rõ được sự phá sản đó hoặc do áp lực của quần chúng, từ mấy năm qua và đặc biết từ mấy tháng nay, hầu hết các đảng cộng sản Đông Âu, bắt đầu là Liên Xô, chính thức hay trong thực tiễn, đã từng bước đoạn tuyệt với chủ nghĩa Stalin và quan niệm chuyên chính vô sản, chấp nhận đối thoại hay hợp tác với những tổ chức khác, kể cả đối lập, cùng nhau xây dựng một nền dân chủ thực sư đa nguyên, nhằm huy động mọi sức lực, mọi tài năng đưa đất nước của họ ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.

    Do những đường lối, chính sách không phù hợp với tình hình thế giới cũng như với thực tế của Việt Nam, nước ta đã bị cô lập về mặt kinh tế cũng như ngoại giao và vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh nghèo khó. Đau lòng hơn nữa, cuộc đổi mới khởi động năm 1986 đã bị trì hoãn, bỏ lỡ một cơ may lớn, làm tổn thương lòng tin của nhân dân mới phần nào được phục hồi. Những biến cố vừa xảy ra ở Đông Đức, Tiệp Khắc và nhất là Rumani cho thấy là trong một tình hình chính trị, kinh tế, xã hội bế tắc kéo dài quá lâu, sự thụ động bề ngoài của quần chúng mà sức kiên nhẫn chịu đựng dẫu sao cũng có giới hạn, nhiều khi chỉ là sự bình lặng trước cơn bão lớn. Để tránh cho đất nước khỏi rơi vào thảm kịch Thiên An Môn hay Rumani, trước tiên cần nhận thức rằng không thề dùng đàn áp hay bạo động để giải quyết những vấn đề trầm trọng hiện nay của đất nước mà phải tìm được những phương pháp chính trị thích nghi. Chủ động đổi mới nhanh chóng và cơ bản hệ thống chính trị -- song song với đổi mới kinh tế -- chính là chìa khoá để thoát ra khỏi khủng hoảng, tránh những đổ vỡ cho xã hội ; đó vừa là yêu cầu khách quan cấp bách, vừa là bằng chứng của quyết tâm và thực tâm đổi mới đất nước.

    Từ những nhận định nói trên và nghĩ rằng Tổ quốc Việt Nam là của toàn thể nhân dân Việt Nam chứ không phải của riêng ai và nhất là không thể nào đổi mới và xây dựng đất nước nếu không có hoà bình ổn định, chúng tôi, những người ký tên dưới đây, không nhân danh gì khác ngoài lương tâm, lý trí và tình cảm dân tộc của chính mình, kêu gọi các nhà lãnh đạo hiện nay của Việt Nam, vốn đã có công lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bằng cách :

    1. thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước.

    2. thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng... nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo, tham gia luận bàn và, đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước.

    3. ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thực sự lấy dân làm gốc.

    Chúng tôi xin gửi tới đồng bào trong nước những tình cảm thiết tha nhất và tin tưởng rằng rằng đồng bào sẽ vượt qua mọi khó khăn, đoàn kết thực hiện công cuộc dân chủ hoá đất nước.

    Chúng tôi kêu gọi mọi kiều bào từng băn khoăn, thao thức về tình hình và tương lai của quê hương hãy ký tên ủng hộ bức tâm thư và cùng chúng tôi, trong tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc đich thực, tìm những phương thức hoạt động thích ứng nhằm hỗ trợ đồng bào trong nước xây dựng một xã hội dân chủ, tự do, nhân ái, công bằng và ấm no.



    Ngày 22 tháng 1 năm 1990



    DANH SÁCH

    những người ký tên đầu tiên (tháng 1.1990) :

    1. Vĩnh Anh (Canada)
    2. Lê Văn Cát (Tây Đức)
    3. Huỳnh Trí Chánh (Nhật)
    4. Nguyễn Văn Chuyển (Nhật) (*)
    5. Lê Văn Cường (Pháp)
    6. Nguyễn Văn Danh (Ý)
    7. Nguyễn Phạm Điền (Úc)
    8. Lê Văn Đồng (Berlin)
    9. Nguyễn Ngọc Giao (Pháp)
    10. Nguyễn Tuệ Hải (Úc)
    11. Thái Thị Khánh Hạnh (Canada)
    12. Nguyễn Văn Hiền (Bỉ)
    13. Nguyễn Đức Hiệp (Úc)
    14. Huỳnh Hơn (Berlin)
    15. Nguyễn Đăng Hưng (Bỉ)
    16. Lê Thành Khôi (Pháp)
    17. Đinh Cao Minh (Pháp)
    18. Lê Minh (Úc)
    19. Lâm Thành Mỹ (Pháp)
    20. Lương Châu Phước (Canada)
    21. Trần Tử Quán (Ý)
    22. Bùi Văn Nam Sơn (Tây Đức)
    23. Nguyễn Văn Tạo (Berlin)
    24. Lê Văn Tâm (Nhật)
    25. Tôn Thất Nguyễn Khắc Thiêm (Bỉ)
    26. Phạm Duy Thoại (Berlin)
    27. Phạm Ngọc Thuần (Pháp) (*)
    28. Đào Văn Thụy (Pháp)
    29. Văn Thự (Pháp) (*)
    30. Nguyễn Kỳ Toàn (Canada)
    31. Trương Phước Trường (Úc)
    32. Phan Quốc Tuyên (Thụy Sĩ)
    33. Đỗ Khắc Uy (Nhật)
    34. Vinh, tức Vĩnh Khoa (B

    Không có nhận xét nào