![]() |
Hàm ý chiến lược từ chuyến thăm của tàu USS Theodore Roosevelt |
Sự
trỗi dậy của Trung Quốc là sự kiện có tác động mạnh mẽ nhất đến địa
chính trị toàn cầu trong ba thập niên qua, mang lại cả những niềm hy
vọng và nỗi sợ hãi. Là một nước láng giềng trực tiếp của Trung Quốc,
Việt Nam là một trong những nơi đầu tiên được hưởng lợi từ sự thịnh
vượng ngày càng tăng của Trung Quốc, đồng thời cũng là nước đầu tiên cảm
nhận được tác động từ sức nặng ngày càng tăng của nước này. Do đó, dù
cố gắng duy trì một mối quan hệ ổn định và hòa bình với Trung Quốc để
tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế, Hà Nội cũng tăng cường quan hệ quốc
phòng với Mỹ và các cường quốc khác để đối phó với mối đe dọa Trung
Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông.
Trung
Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất, đồng thời là thị trường nhập
khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch thương mại
song phương năm 2018 đạt 106,94 tỷ USD, chiếm 22,2% tổng kim ngạch
thương mại của Việt Nam trong năm. Đồng thời, Trung Quốc đang trở thành
nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan trọng. Tới cuối năm 2018, Trung
Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam với 2.168
dự án và 13,4 tỷ USD tổng vốn đăng ký. Nếu tính cả Hồng Kông, Trung
Quốc sẽ xếp thứ tư, chỉ sau Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore. Trung Quốc
cũng là nguồn khách du lịch quan trọng nhất đối với Việt Nam. Ví dụ, năm
2018, 4,966 triệu lượt khách du lịch Trung Quốc đã chiếm tới 32% tổng
lượng khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam năm đó.
Các
mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ đồng nghĩa với việc Việt Nam có lợi ích
trong việc duy trì một mối quan hệ lành mạnh và ổn định với Trung Quốc.
Tuy nhiên, tranh chấp Biển Đông đã đặt ra những thách thức không ngừng
đối với quan hệ song phương, buộc Việt Nam phải chấp nhận một lập trường
mang tính đối đầu với Trung Quốc về các vấn đề chủ quyền và lợi ích
trên biển. Đối mặt với cách biệt quyền lực lớn giữa hai nước, trong khi
tìm cách phát triển sức mạnh kinh tế và hiện đại hóa lực lượng vũ trang,
Việt Nam cũng cảm thấy cần phải tăng cường quan hệ chiến lược với các
cường quốc để tạo đối trọng với Trung Quốc. Trong nỗ lực này, Việt Nam
không tìm thấy cường quốc nào tương thích hơn để làm việc đó ngoài Hoa
Kỳ.
Từ
góc nhìn của các chiến lược gia Việt Nam, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất
có cả sức mạnh lẫn ý chí chính trị cần thiết để kiềm chế tham vọng chiến
lược của Trung Quốc, bao gồm ở cả Biển Đông. Sự cạnh tranh chiến lược
ngày càng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc trong vài năm qua tạo điều kiện
thuận lợi cho mối quan hệ chiến lược của Hà Nội với Washington khi lợi
ích chiến lược của hai nước trở nên song trùng hơn do nhận thức chung
của họ về mối đe dọa Trung Quốc.
Những
nỗ lực của Việt Nam dường như được Mỹ đáp lại, khi Mỹ coi Việt Nam là
đối tác an ninh mới nổi ngày càng quan trọng. Ví dụ, Báo cáo Chiến lược
Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ công bố vào tháng
6 năm 2019 đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ “đang ưu tiên các mối quan hệ mới
với Việt Nam, Indonesia và Malaysia – những nhân tố chủ chốt trong ASEAN
vốn đóng vai trò trung tâm trong nỗ lực của chúng tôi nhằm đảm bảo hòa
bình và bảo vệ sự thịnh vượng tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Đối
với Mỹ, Việt Nam không chỉ là một cơ hội kinh tế. Với những nâng cấp
quân sự đáng kể trong thập niên qua, Việt Nam hiện có trong tay một
trong những lực lượng quân sự mạnh nhất Đông Nam Á. Hơn nữa, với tư cách
là một quốc gia chủ chốt trong tranh chấp Biển Đông với lịch sử phản
kháng lâu dài chống lại sự thống trị và bành trướng của Trung Quốc, Việt
Nam có thể là một nhân tố quan trọng trong khu vực giúp Mỹ kiềm chế
tham vọng địa chính trị của Trung Quốc.
Với
suy nghĩ đó, trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5 năm 2016, Tổng thống
Obama đã tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho
Việt Nam. Đầu tháng 8 năm 2018, Đài Phát thanh Hoa Kỳ đã đưa tin rằng
Việt Nam có các hợp đồng mua trang thiết bị quân sự trị giá 94,7 triệu
đô la với Mỹ theo các chương trình Bán hàng quân sự nước ngoài (FMS) và
Bán hàng thương mại trực tiếp (DCS). Những chương trình này đã giúp Việt
Nam cải thiện hơn nữa năng lực hàng hải để đối phó với các thách thức
an ninh ở Biển Đông. Chẳng hạn, vào tháng 5 năm 2017, Hà Nội đã nhận
được sáu tàu tuần tra nhanh Metal Shark trị giá 18 triệu đô la do Hoa Kỳ
viện trợ cho lực lượng Cảnh sát Biển. Cũng trong tháng đó, một tàu lớp
Hamilton của Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã loại biên cũng được chuyển
giao cho Việt Nam. Vào tháng 2 năm 2019, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương –
Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Đô đốc Phil Davidson, nói rằng Việt Nam đang
chuẩn bị mua các thiết bị từ Hoa Kỳ, bao gồm máy bay không người lái
Boeing Insitu ScanEagle, máy bay huấn luyện Beechcraft T-6 Texan II và
nhận chuyển giao một tàu Tuần duyên thứ hai từ Hoa Kỳ.
Tuy
nhiên, dù có những cải thiện liên tục trong quan hệ song phương nói
chung và quan hệ chiến lược Việt Nam – Hoa Kỳ nói riêng, các quan chức
Việt Nam vẫn lo ngại rằng nếu Việt Nam tiến quá nhanh và quá xa trong
quan hệ chiến lược với Mỹ, họ sẽ làm Trung Quốc phật lòng và khiêu khích
Bắc Kinh trả đũa.
Từ
quan điểm của Hà Nội, sự gần gũi về địa lý với Trung Quốc cũng như tầm
quan trọng của Trung Quốc đối với sự thịnh vượng kinh tế và an ninh của
Việt Nam có nghĩa là một mối quan hệ căng thẳng với Trung Quốc có thể
đặt Việt Nam vào một vị thế chiến lược bấp bênh đến mức ngay cả một mối
quan hệ mạnh mẽ với Hoa Kỳ cũng không thể bù đắp được.
Chính
vì vậy, trong khi cố gắng tăng cường quan hệ với Washington, Hà Nội có
xu hướng để mắt đến các phản ứng của Bắc Kinh và điều chỉnh quan hệ với
Washington cho phù hợp. Chẳng hạn, giữa tháng 10 năm 2018, Việt Nam đã
lặng lẽ hủy 15 hoạt động hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ dự kiến cho năm
2019 liên quan đến trao đổi lục quân, hải quân và không quân. Quyết định
này dường như là một trong những phản ứng của Hà Nội đối với cuộc cạnh
tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Washington và Bắc Kinh, điều
khiến Việt Nam gần như không thể củng cố quan hệ quốc phòng chặt chẽ với
một cường quốc này mà không làm phật lòng cường quốc kia.
Do
đó, Hà Nội đã cố gắng thúc đẩy quan hệ với Hoa Kỳ với một tốc độ vừa
phải và giữ cho hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ ít khoa trương ồn ào nhất
có thể. Đây cũng có thể là lý do khiến Việt Nam do dự trong việc thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ mặc dù Hoa Kỳ đã có các động
thái mời mọc về cả ngoại giao lẫn chiến lược liên tục kể từ năm 2013.
Tuy
nhiên, quyết định của Việt Nam thúc đẩy quan hệ với Mỹ ở một tốc độ vừa
phải không phải là xu hướng bất biến. Trên thực tế, đó cũng không phải
là quyết định của riêng Việt Nam. Do quyết định đó được hình thành phần
lớn dựa vào nhận thức của Việt Nam về mối đe dọa Trung Quốc, cách Trung
Quốc hành xử ở Biển Đông cũng sẽ gây tác động lên quỹ đạo tương lai của
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Nếu Trung Quốc tiếp tục hành động hung hăng ở
Biển Đông, như được minh chứng bởi sự xâm phạm liên tục của Trung Quốc
vào các vùng biển Việt Nam bằng tàu khảo sát và các tàu đi kèm từ tháng 7
đến tháng 10 năm ngoái, Việt Nam sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài
việc thúc đẩy quan hệ quốc phòng với Mỹ nhằm chống lại những sự xâm phạm
như vậy từ phía Trung Quốc.
Cuối
tuần này, USS Theodore Roosevelt sẽ trở thành tàu sân bay thứ hai của
Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam sau chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên của tàu
USS Carl Vinson hai năm trước. Nếu chuyến thăm nói lên điều gì, thì đó
chính là việc quyết định của Việt Nam đón tiếp tàu sân bay trong bối
cảnh cạnh tranh Mỹ – Trung không ngừng gia tăng cho thấy sự tự chủ chiến
lược cũng như tư thế chiến lược ngày càng trưởng thành của Việt Nam.
Chuyến
thăm cũng giúp Việt Nam gửi những tín hiệu nhất quán tới cả hai cường
quốc: Đối với Mỹ, Hà Nội tiếp tục coi trọng quan hệ chiến lược song
phương và Việt Nam sẵn sàng tiếp tục hợp tác với Mỹ ở Biển Đông nếu các
can dự đó phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Đối với Trung Quốc, thông
điệp là nếu Trung Quốc tiếp tục duy trì lập trường xác quyết, không tôn
trọng các lợi ích chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông thì điều đó có thể
gây tác dụng ngược, đẩy Việt Nam xa hơn về phía Mỹ cho dù Việt Nam có
coi trọng mối quan hệ lâu dài với Trung Quốc đến mức nào đi chăng nữa.
Lê Hồng Hiệp
* Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên ThinkChina.
(Nghiên cứu Quốc tế)
Không có nhận xét nào