Công hàm mà Việt Nam vừa gửi tới Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc phản đối Trung Quốc trên Biển Đông có điểm mới
chưa từng có từ trước, động thái này không chỉ rõ ràng mà còn rất mạnh
mẽ, theo bình luận của một số nhà quan sát.
Cuộc họp quốc phòng Mỹ - Việt tại Hà Nội ngày 20/11/2019 |
Hôm
13/04/2020, từ góc độ quan sát chính trị và an ninh, Tiến sỹ Hà Hoàng
Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas,
Singapore) nói với BBC News Tiếng Việt:
“Công
hàm ngày 30.3 của Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hợp Quốc
(New York) nhằm bác bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp từ Trung Quốc ở biển
Đông, khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt
Nam, thể hiện sự ủng hộ chính trị và pháp lý của Việt Nam đối với
Malaysia và Philippines, tái khẳng định đường lối chính trị của Việt Nam
dựa trên nền pháp lý quốc tế trong các vấn đề Biển Đông.
“Công
hàm này một lần nữa bác bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp của Trung Quốc
khi Trung Quốc lấy tuyên bố phí pháp đó để phản bác công hàm của
Malaysia và công hàm của Philippines gửi Liên Hợp Quốc trước đó, trong
bối cảnh Trung Quốc đang lợi dụng tình hình cả thế chống đại dịch
COVID-19 để đẩy mạnh các hoạt động phi pháp ở Biển Đông và Hoa Đông,
hòng làm thay đổi cấu trúc an ninh, trạng thái địa chính trị, địa chiến
lược, tiếp tục khẳng định chủ quyền phi pháp tai biển Đông, đe dọa các
nước trong khu vực.”
Về mặt phản ứng quốc tế, khu vực, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp bình luận tiếp:
“Sau
sự kiện Trung Quốc cho tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt
Nam, bộ ngoại giao, bộ quốc phòng Mỹ, nhiều nghị sỹ Mỹ đã lên án hành
động của Trung Quốc, tái khẳng định sự ủng hộ đối với Việt Nam trong
việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở
Biển Đông. Philipines và Malaysia đã lên tiếng phản đối Bắc Kinh để tàu
hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt Nam.
“Quad
là nhóm bốn nước đang nỗ lực hành động để góp phần đảm bảo hòa bình và
an ninh ở Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhóm này có sự đóng góp lớn từ Mỹ,
Nhật. Quad, cùng với các nỗ lực khác của Mỹ ở Ấn Độ - Thái Bình dương,
coi Trung Quốc là nguồn cơn của những nguy cơ an ninh lớn nhất ở khu
vực. Các hành động cụ thể của Quad, đã và sẽ được phối hợp với hành động
của Mỹ ở Thái Bình Dương, trong đó có biển Đông. Mỹ không bỏ qua bất kỳ
kế hoạch hay cơ hội nào để giúp duy trì an ninh khu vực, quản trị các
nguy cơ do Bắc Kinh mang lại.”
“Mỹ
vẫn tiếp tục tuần tra tự do hàng hải, trong đó có tuần tra trong eo
biển Đài Loan. Trung Quốc đã tiến hành tập trận ở Biển Đông, với máy bay
săn ngầm và tầu ngầm. Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa các đảo nhân tạo ở
biển Đông, để máy bay săn ngầm Y-8 hạ cánh xuống một đảo nhân tạo ở
Trường Sa, đẩy mạnh tập trận trên biển.”
‘Đấu tranh pháp lý cao hơn’
Về
mặt pháp lý, công pháp quốc tế và luật biển, Tiến sỹ Trần Công Trục,
nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam cuối tuần qua nói thêm
với BBC:
“Đánh
giá về công hàm Việt Nam vừa gửi LHQ ngày 30/3, tôi xin lưu ý rằng
trong công hàm này có một nội dung rất là mới, quan trọng mà nếu lưu ý,
cần phải biết rằng là đặc biệt phần thứ hai, nội dung thứ hai nói về
Công ước Luật biển năm 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất để xác định phạm
vi các vùng biển thuộc các quyền một quốc gia ven biển.
“Trong
đó có nhấn mạnh đến các thực thể đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, thì phải được xác định hiệu lực của nó theo Điều 121, Khoản 3, tức
là những đảo nào không thích hợp cho con người ở và không có đời sống
kinh tế riêng, như các thực thể trong hai quần đào này, thì không có
vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa 200 hải lý như Công ước Luật
biển quy định, mà chỉ có tối đa 12 hải lý thôi.
“Còn
một điều nữa nói rằng là những bãi cạn lúc chìm, lúc nổi hoặc hoàn toàn
chìm, thì không phải là đối tượng của quyền thủ đắc lãnh thổ. Tôi nghĩ
đấy là nội dung rất là cốt lõi, nó liên quan đến việc mà chúng ta (Việt
Nam) có thể khởi kiện Trung Quốc về việc gọi là cố tình giải thích, áp
dụng sai Công ước bằng việc họ áp dụng những điều khoản mà sai, không
đúng là như chúng ta đã biết, như là họ đã vạch đường cơ sở của quần đảo
Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa, vào năm 1996, rồi họ tiếp tục làm điều đó
đối với ‘Nam Sa’ (tức Trường Sa) hay đang chuẩn bị làm, thì đó là hoàn
toàn sai.
“Thêm
nữa họ nói những bãi cạn nằm trên thực địa của Việt Nam, cũng như của
Philippines, cũng như của Malaysia là phần lãnh thổ của Trung Quốc, đấy
hoàn toàn là việc giải thích, áp dụng sai, nữa là cái chuyện họ nói chủ
quyền lịch sử của Trung Quốc nằm trong trong đường Lưỡi bò (hay bản đồ
đường 9 đoạn) cũng là hoàn toàn sai, đấy là những nội dung mà chúng ta
nêu rõ quan điểm và chính nội dung này mới là nội dung chuẩn bị cho quá
trình mà chúng ta có thể đưa ra các cơ quan tài phán quốc tế.
“Và
nếu chỉ đơn phương, thì các cơ quan này có thẩm quyền để mà xem xét và
ra phán quyết. Đấy là nội dung trước nhất chúng tôi nghĩ phải làm rõ. Và
như vậy nên nhớ rằng việc mà Việt Nam tại sao không kiện, lâu nay không
kiện để đòi lại chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa v.v…, thì có thể
nói đây là một tính toán của phía Việt Nam, nghĩa là về nguyên tắc Việt
Nam sẵn sàng chuẩn bị cho quá trình đó, nhưng vào lúc nào, làm vào thời
điểm nào, phải tính hết tất cả các yếu tố để có lợi nhất, có hiệu quả
nhất, chính là một trong những nội dung tôi muốn trình bày.
“Cho
nên chúng tôi nghĩ rằng sau công hàm này, như mọi người đã nghiên cứu,
Việt Nam sẽ có những bước tiến mới để mà đấu tranh pháp lý cao hơn.”
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ và Việt Nam tại Hà Nội ngày 20/11/2019 |
‘Diễn biến tích cực’
Trên
trang mạng Công pháp Quốc tế từ Việt Nam, một số nhà nghiên cứu luật
quốc tế bình luận về công hàm của Việt Nam và động thái xuất hiện công
hàm này.
Cho rằng đây là một ‘diễn biến tích cực’, nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Minh Trang hôm 09/4 viết:
“Chuỗi
sự kiện này đã cho thấy một diễn biến tích cực trong các tranh chấp tại
Biển Đông. Thứ nhất, nó chỉ ra rằng gần như có một sự phối hợp giữa ba
quốc gia ASEAN (là Malaysia, Philippines và Việt Nam) trong việc sử dụng
Công ước Luật biển 1982 chống lại các yêu sách phi pháp của Trung Quốc
tại Biển Đông. Khi Kuala Lumpur mở đầu “cuộc tranh biện”, Bắc Kinh đã
liên tục phản đối, Malnila và Hà Nội lần lượt vào cuộc và trực tiếp bác
bỏ các lập luận này. Điều này cũng cho thấy sự đơn độc của Trung Quốc
trong cuộc chiến pháp lý với các quốc gia ASEAN.
“Thứ
hai, việc Philippines bắt đầu sử dụng Phán quyết của Toà trọng tài quốc
tế để phản bác lại Trung Quốc ở một diễn đàn quốc tế quan trọng là Liên
hiệp quốc cho thấy điểm sáng ở trong cuộc tranh chấp dai dẳng và phức
tạp trong khu vực. Phán quyết này không những đã loại bỏ sự tồn tại pháp
lý của đường chín đoạn, còn giúp thu hẹp các các vùng biển chồng lấn
tại khu vực Trường Sa; từ đó, mở ra cơ hội hợp tác tích cực cho các quốc
gia trong khu vực. Ngoài ra, Phán quyết còn là đưa ra cơ sở pháp lý
chính thống để căn cứ vào đó mà giải quyết các tranh chấp còn lại ở trên
biển,” và
“Thứ
ba, đây là lần đầu tiên Việt Nam đưa ra các quan điểm chi tiết, trực
tiếp và rõ ràng về các thực thể tại Biển Đông. Đây là một chỉ dấu quan
trọng trong chuỗi các thủ tục khi tiến hành sử dụng các cơ quan tài phán
quốc tế, trong đó có Toà trọng tài tương tự như Toà trọng tài trong vụ
kiện giữa Philippines và Trung Quốc…”
Lần đầu tiên ‘rõ ràng’
Cũng trên trang này, nhà nghiên cứu Trần H.D. Minh, giảng viên Khoa Luật quốc tế, Học viện Ngoại giao, bình luận:
“Việt Nam lần đầu tiên thể hiện rõ ràng quan điểm của mình về một số vấn đề pháp lý quan trọng tại Biển Đông.
“Mặc
dù không dẫn rõ Phán quyết ngày 12.07.2016 của Toà trọng tài trong Vụ
kiện Biển Đông, các quan điểm này trùng hợp với quan điểm của Toà trọng
tài.
“Đây là lần đầu tiên Việt Nam thể hiện quan điểm rất rõ ràng và cụ thể về các vấn đề pháp lý thực chất trên Biển Đông…
“Với
việc đưa ra quan điểm pháp lý rất rõ ràng và cụ thể, Việt Nam đang dần
thể hiện cho cộng đồng quốc tế thấy cam kết nghiêm túc của Việt Nam đối
với luật pháp quốc tế và với một trật tự dựa trên luật lệ (a rule-based
order) trong quan hệ quốc tế nói chung.
“Nói
riêng, với tranh chấp Biển Đông, Việt Nam thể hiện rõ vai trò nền tảng
của luật pháp quốc tế, như là xuất phát điểm cho tiến trình giải quyết
tranh chấp và là cơ sở pháp lý duy nhất cho mọi giải pháp mà Việt Nam
khả dĩ chấp nhận.”
‘Không để bị động, bất ngờ’
Trở lại với tình hình, diễn biến trên Biển Đông tại thời điểm này, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp hôm 13/4 đưa ra bình luận và dự phóng :
“Có thể nói Việt Nam đang theo dõi tình hình rất sâu sát, chắc chắn không để bị động, bất ngờ.
“Trong
khi cả thế giới đang chống dịch COVID-19, việc Trung Quốc đẩy mạnh các
hoạt động ở biển Đông cho thấy Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch để tạo
các lợi thế chiến lược.
“Việc
Trung Quốc điều tàu chiến, tàu sân bay... cùng với các tàu thăm dò địa
chất hướng vào Biển Đông lúc này, cho thấy một phần các kế hoạch của
Trung Quốc.
“Tình hình sẽ sớm trở nên rõ ràng,” nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas, Singapore) nói với BBC.
(BBC)
Không có nhận xét nào