Header Ads

  • Breaking News

    TS. Đinh Hoàng Thắng - Có những “bên thua cuộc” khác


    Thế giới là cuộc cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những tay “chơi cờ độn nước”. Kẻ thức thời nên biết chọn loại cờ nào. “Ai cho kén chọn vàng thau tại mình”. Cờ Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Nhưng cờ Tây thì phải đi với nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết gắn mình vào thế trận chung với các quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.


    TS. Đinh Hoàng Thắng - Có những “bên thua cuộc” khác

    Hệ tư tưởng trong chiến tranh Việt Nam nhiều khi chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Ta – Tây – Tàu, giữa đồng chí cùng “phe” vẫn thấu thị được bản chất các sáo ngữ. Sau chiến tranh, những tưởng ý thức hệ hết chỗ đứng. Nhưng không! Cứ mỗi thập kỷ qua đi, dưới lá bài “cùng chung vận mệnh”, một dạng hệ tư tưởng trá hình, Bắc Kinh lại đạt được những bước tiến mới trên con đường độc chiếm Biển Đông và bành trướng xuống Đông Nam Á. Cái “vỏ” bốn tốt và mười sáu chữ vàng liệu có cứu được Việt Nam thoát khỏi cuộc xung đột mới trên đất liền hoặc ở tận mãi ngoài các đảo xa?

    “Ông Liên Xô bà Trung Quốc…”

    45 năm về trước, ngày 15/5/1975, tại một cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn khẳng định, thắng lợi từ cuộc kháng chiến của Việt Nam “cũng là thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa”. Mặc dầu tuyên bố thế, nhưng vốn “đi guốc trong bụng” Trung Quốc và Liên Xô nên ông Lê Duẩn biết rất rõ, 30/4/1975 chính là ngày mà ý chí độc lập của người Việt đã cho “đo ván” những kẻ muốn lợi dụng ý thức hệ để chia cắt đất nước, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc phân tranh dai dẳng.

    Chỉ cần “soi” các mục tiêu sâu xa của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc suốt thời kỳ chiến tranh, có thể thấy anh Cả lẫn anh Hai hẫng hụt như thế nào trước các hiệu ứng ngày 30/4/1975. Bắc Kinh từ 1954 bằng mọi cách đã thao túng Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, với mục tiêu kéo dài, nếu có thể thì vĩnh viễn, chia cắt giải đất hình chữ S, biến nó thành khu đệm để Trung Quốc làm quân bài ngã giá với Mỹ hay cạnh tranh với Liên Xô. Mục tiêu xa hơn nữa là trong quá trình “chống lưng” cho Việt Nam và các lực lượng cộng sản châu Á, Trung Quốc luôn luôn rắp tâm dọn đường để đưa hàng triệu nông dân từ đại lục tràn ngập lãnh thổ Đông Nam Á.

    Liên Xô, khiêm tốn hơn, chẳng có tham vọng lãnh thổ hay di dân. Tuy nhiên, khi đấu tranh võ trang ở miền Nam có dấu hiệu mạnh lên, lo sợ ảnh hưởng đến đường lối “chung sống hoà bình”, Mátxcơva đã đe Hà Nội chớ giải phóng nửa nước bằng con đường bạo lực! “Đốm lửa” ấy có thể thiêu rụi cả “cánh đồng” cách mạng. Đấy cũng là căn nguyên của cuộc sát phạt “xét đi… xét lại” gây báo tang thương cho một bộ phận tinh hoa trong nội bộ cộng sản Việt Nam. Nhưng với diễn tiến các sự kiện, về sau Mátxcơva đã lần lượt cho hàng loạt đoàn tàu chở đầy ắp các thiết bị và khí tài quân sự sang Hà Nội để viện trợ cho chiến trường.




    Một mặt, Liên Xô dùng Việt Nam kềm chân Mỹ, để bản thân được rảnh tay ở trời Âu, đối phó với cả Tây lẫn Đông Âu. Mặt khác, muốn “làm le” với thế giới về sức mạnh của ba dòng thác, dùng cuộc kháng chiến của Việt Nam để khuếch trương thanh thế với tư cách là “thành trì của cách mạng thế giới”. Bên tung bên hứng! Về phần mình, Việt Nam cũng tự nhận đất nước là nơi tập trung các mâu thuẫn thời đại, cho nên “nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ vui gì hơn làm người lính đi đầu/ trong đêm tối, tim ta thành ngọn lửa!” (Tố Hữu).

    Tuy nhiên, “soi” từ cấp độ đại chiến lược, các đế chế như Trung Hoa hay Xô Viết ít khi chịu làm tù binh cho bất cứ một phương án duy nhất nào. Họ bao giờ cũng chuẩn bị nhiều con bài trong tay cùng một lúc. Nếu cho rằng cả Bắc Kinh lẫn Mátxcơva cũng đều lãnh đủ như các “bên thua cuộc” khác với hệ quả không đảo ngược thì quả là không đúng. Ngay cả trước năm 1975, khi chủ trương ép Việt Nam đánh Mỹ theo tiến độ riêng của mỗi nước thất bại, Trung Quốc và Liên Xô vẫn gây cho Việt Nam một số khó khăn.

    Lịch sử ghi lại hai sự kiện ngoại giao chấn động: chuyến thăm Bắc Kinh (tháng 2/1972) và Mátxcơva (tháng 5/1972) của tổng thống Richard Nixon. Nixon đến Trung Quốc, dù lúc bấy giờ giữa hai nước chưa có quan hệ ngoại giao, nhằm ép Hà Nội ký một hiệp ước hòa bình có lợi cho Mỹ. Nixon hy vọng, sự xích lại gần nhau giữa Mỹ với hai đồng minh hàng đầu của Hà Nội sẽ khiến cho Bắc Việt Nam nhượng bộ trong các cuộc hoà đàm Paris. Nhất là về cuối, lãnh đạo Liên Xô bắn thông điệp muốn Việt Nam kết thúc cuộc chiến tranh tỏ ra tốn kém đối với đất nước này.

    Tự nhận là “NATO phương Đông”

    Ngày 15/5/1975, trong khi Bí thư thứ nhất Lê Duẩn từ Hà Nội đang nhiệt liệt gửi đến nhân dân Camphuchia anh em – bạn chiến đấu cùng chiến hào – “lòng biết ơn vô hạn và tình đoàn kết sắt son”, thì một số đơn vị bộ đội Việt Nam, với súng AK và ba lô con cóc, chỉ sau có một bữa trưa duy nhất liên hoan mừng thắng lợi (đúng trưa 15/5), đã lại lên đường ra tiền tuyến, giáp chiến với Khmer Đỏ đang say máu “cáp Duồn” (chặt đầu người Việt) ngay tại các tỉnh trên biên giới Tây Nam.

    Nhưng cũng gần 4 năm sau thời điểm ấy, chiều 11/4/1979, đại sứ Trung Quốc bên cạnh “Khmer Dân chủ” quần áo nhếch nhác bẩn thỉu, nước mắt đầm đìa, đã cùng với bảy đồng nghiệp, nuốt hận đào tẩu qua đất Thái Lan. Lần đầu tiên, đại diện của một vương triều trung tâm (Trung Quốc) buộc phải rút khỏi vùng đất chư hầu (Campuchia). Bỉnh bút Naya Chanda trong tác phẩm “Vietnam’s Invasion of Cambodia, Revisited” đã mô tả khoảnh khắc 41 năm về trước, khi các cố vấn Trung Quốc buộc phải lang thang trong rừng già Campuchia suốt 61 ngày, ngủ trong các lều lợp cỏ tranh, ăn đồ hộp trên đường tháo chạy.

    Tuy nhiên, mẻ lưới lớn trước đó Trung Quốc đã “cất” được vào tháng 10/1971 là thay thế Trung Hoa Dân quốc nắm giữ chiếc ghế hội viên thường trực tại HĐBA/LHQ. Trung Quốc trở thành một trong những trung tâm quyền lực có tiếng nói và ảnh hưởng trên vũ đài thế giới. Bắc Kinh còn tự xưng là “NATO phương Đông”, khi Đặng Tiểu Bình sang tận Mỹ để tìm kiếm nguồn đầu tư cho nền kinh tế đang yếu kém của mình. Sau thời điểm đó, Trung Quốc trắng trợn cưỡng chiếm biển đảo của Việt Nam, mở các gọng kìm trên mặt trận Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm chảy máu Việt Nam suốt hơn 10 năm ở Campuchia…

    Nếu giải ảo sâu hơn các động lực chiến lược, trước khi cuộc chiến kết thúc, Trung Quốc đã chuyển chính sách trên đại cục cũng như trong quan hệ với Việt Nam. Tiên liệu được kết quả của chiến tranh, Trung Quốc nhanh chóng triển khai ngay những quân bài mới. Trước lúc Dương Văn Minh gặp đại diện “bên thắng cuộc”, Trung Quốc đã cho người bắt liên lạc, động viên “Big Minh” cầm cự, hứa sẽ đổ quân tiếp viện, giúp Sài Gòn dựng chính quyền mới ở miền Tây Nam bộ.

    Sự thật hắc ám nói trên không chỉ được biết đến qua tiết lộ của Dương Văn Minh, mà còn qua nhiều phản ứng cấp thời, cả công khai lẫn bí mật, của ban lãnh đạo Ba Đình. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng nhận xét, trong quá trình điều chính sách, Trung Quốc đổi đồng minh như thay đồ lót. Một trong những thay đổi lớn hồi bấy giờ chính là “cái bẫy” mang tên Khmer Đỏ mà Trung Quốc đã dựng ra trước đấy để hiện thực hoá mưu đồ, không chia cắt được thì tiếp tục làm cho Việt Nam “chảy máu”.

    Vậy là thời kỳ khoác áo ý thức hệ như những anh em đồng chí giữa Hà Nội và Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Bắc Kinh chấm dứt. Chiến lược lợi dụng hệ tư tưởng lúc bấy giờ không còn tác dụng. Cùng khi ấy, chính sách dùng Việt Nam tiêu hao “đế quốc Mỹ”, để Liên Xô tạo thế cân bằng vũ khí chiến lược trên toàn cầu cũng “cuốn theo chiều gió”. Nghiêm trọng hơn, giai đoạn liền kề, Liên Xô ngày càng mắc phải mưu sâu kế hiểm, rơi vào vòng xoáy của chiến tranh lạnh và bị kiệt sức trong cuộc chiến tranh giữa các vì sao.

    Tuy nhiên, do bất an trước các mối hiểm hoạ thường trực của Trung Quốc, chỉ sau cột mốc 30/4/1975 ba năm, vào ngày 3/11/1978, Hà Nội đã ký với Mátxcơva “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác”. Hiệp ước là một văn kiện “có ý nghĩa chính trị xuất sắc” (lời Tổng Bí thư Brejnev). Nhưng chính văn kiện xuất sắc ấy đã cung cấp như một cái cớ để Trung Quốc “dạy cho Việt Nam bài học”. Điều này cho thấy “lá nho” ý thức hệ không chỉ bị xung đột Xô – Trung chôn vùi dưới lòng sông Ussuri năm 1969, mà tình đoàn kết Việt Nam – Campuchia, Việt Nam – Trung Quốc cũng bị tan thành mây khói trong các trận đánh đẫm máu trên chiến trường biên giới Tây Nam (1979) và chiến tranh biên giới phía Bắc (từ 1979 đến 1989).

    Liên Xô – Bên thua cuộc kép

    Trên thực tế, Liên Xô đã phải gánh chịu một tình huống “thua cuộc kép”. Chiến tranh kết thúc đã tước mất “cái bẫy để kìm chân Mỹ”, đồng thời Mátxcơva không đủ lực để bảo vệ Hà Nội khỏi sự trừng phạt của Bắc Kinh. Trong khi ấy, khủng hoảng về kinh tế – xã hội trên đất nước Xô viết ngày càng bộc lộ rõ. Việt Nam và Liên Xô không thể tiếp tục thực thi bản Hiệp ước như cũ. Trên một số lĩnh vực, hợp tác song phương bắt đầu có nhiều dấu hiệu suy giảm. Mátxcơva cắt dần viện trợ cho Hà Nội.

    Thậm chí, đế chế Xô Viết lại dấn bước trên “con đường đau khổ” mới. Liên Xô tiếp tục bị “toang” ở Đông Âu. Để tranh thủ Trung Quốc, Mátxcơva đành phải gây sức ép buộc Hà Nội sớm đưa ra một thời gian biểu rút quân triệt để và dứt khoát khỏi Campuchia. Tình trạng “thua cuộc kép” này của CCCP và sự tụt giảm trong các mối quan hệ Việt – Xô kéo dài cho đến khi Liên Xô và cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991. Và cái kết cục bi thảm của “tấn trò đời” ý thức hệ lần này cũng chính là sự tiếp nối các tình tiết “sông Ussuri 1969” và “Mekong 1979” mà thôi.

    Như vậy, ý thức hệ thực ra đã chết trong các cuộc đánh nhau giữa Liên Xô với Trung Quốc, Việt Nam với Campuchia, Trung Quốc với Việt Nam. Nhưng chủ nghĩa dân tộc – câu chuyện ngàn năm ấy – bao giờ cũng mới và có sức sống mãnh liệt. Vấn đề được thua trong mọi cuộc xung đột chỉ mang ý nghĩa tương đối. “Trong mọi cuộc chiến tranh bất kể bên nào thắng thì nhân dân đều bại”. Nguyễn Duy đã đúng! Chỉ có người Việt, từ cả hai chiến tuyến, chịu mất mát và khổ đau. Còn các ông lớn – Mỹ, Liên Xô hay Trung Quốc – họ đều tính lỗ lãi theo hệ giá trị riêng của mỗi bên liên quan đến cuộc chiến. Các cuộc chiến tranh Đông Dương không phải là ngoại lệ.

    Điều lạ lẫm là ngay cả khi Trung Quốc và Liên Xô đã sớm gạt bỏ vai trò bung xung của hệ tư tưởng để đi vào “bốn hiện đại hoá” (1976) và “перестройка” (cải tổ, 1986), thì lãnh đạo Việt Nam, tuy đã giương ngọn cờ “đổi mới” (1986) nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa quốc tế vô sản, vẫn gắn “độc lập dân tộc” với “chủ nghĩa xã hội”. Bắc Kinh hẳn nhiên đã lợi dụng và gây sức ép tối đa qua các chủ trương nửa vời này (appeasement), buộc Hà Nội đi vào hội nghị Thành Đô (9/1990), để lại những hệ luỵ về sự can dự của Trung Quốc đối với hậu trường chính trị Việt Nam cho mãi tới tận hôm nay.

    Theo “Địa-chính trị trong chiến tranh Việt Nam” của James Burnham, chuyên gia phân tích từ Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của Cục Tình báo Mỹ CIA, lịch sử dường như lặp lại một vòng tròn định mệnh. Trong một báo cáo đề ngày 20/11/1964, Burnham nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề địa phương, vấn đề cục bộ. Đó là một chiến trường quan trọng trong cuộc tranh giành châu Á, Tây Thái Bình Dương và Biển Đông”.

    Hơn nửa thế kỷ, Biển Đông giờ đây lại dậy sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn” thay đổi và lời tiên đoán năm xưa của Kissinger (Việt Nam sẽ phải nhờ Mỹ để xử lý mối bang giao với Trung Quốc) dường như được chứng nghiệm. Covid-19 đảo lộn nhiều thứ, nhưng có một thứ bất biến. Đó là mâu thuẫn Trung – Mỹ sau đại dịch sẽ không thuyên giảm, thậm chí nhiều chuyên gia đánh giá một cuộc chiến tranh thế giới mới, mang tính tổng lực đã/đang diễn ra trên thực tế. Tình trạng Washington và Bắc Kinh nặng lời công kích và tiến hành trả đũa lẫn nhau trên mọi phương diện đang truyền đi những tín hiệu báo động đến hầu hết các chuyên gia về an ninh quốc tế.

    Nói bang giao Việt – Mỹ quan trọng, nhưng nó luôn quan trọng vì nhân tố thứ ba là nhìn nhận từ cái lăng kính địa-chính trị nghiệt ngã nói trên. Hiện nay, cuộc cờ khu vực/thế giới ngả theo hướng: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và châu Âu đều đang trải qua những biến động dữ dội, khôn lường qua đại dịch Vũ Hán. Mỹ và Trung Quốc đều đang cố gắng khai thác tối đa thất bại của phía bên kia để phục vụ cho lợi ích đối nội, đối ngoại. Các nước đều đang khai triển những bước khác nhau nhưng cùng chuẩn bị cho một cuộc thư hùng mới trong tương lai.

    Mỹ Trung giành nhau “chiếu trên” để tái định hình trật tự thế giới, Liên bang Nga (tuy GDP chưa bằng Italy, chỉ ngang một tỉnh lớn của Trung Quốc) vẫn mơ “giấc mơ” của Liên Xô cũ về tầm ảnh hưởng ở Á – Âu. Nói lại câu chuyện “ông Liên Xô bà Trung Quốc/ ông đi guốc bà đi giầy…” trên bối cảnh này là để làm nổi bật cái minh triết của người dân Việt, cái hằng số bất di bất dịch trong bang giao quốc tế. Mọi quốc gia trên đời, lúc nào và bao giờ cũng hành động xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc. Mọi mỹ từ vàng son hay có cánh đều chỉ để che đậy cái thực tế nghiệt ngã bên trong.

    “Vỏ” ý thức hệ, “ruột” Đại Hán

    Thật ra từ năm 1968, nhà tình báo vĩ đại Phạm Xuân Ẩn, trong một báo cáo mật gửi về Trung tâm, đã thể hiện tầm nhìn sáng suốt của mình khi ông phân tích: “Cuộc đấu tranh chống Mỹ là trước mắt và có thời gian, nhưng kẻ thù nguy hiểm và lâu dài nhất sau này của Việt Nam chính là Trung Quốc, chứ không phải là Mỹ”. Xin được nhắc lại là từ 1968, con người có tên như cuộc đời ấy đã khẳng định như thế. Không rõ, văn phòng giúp việc các Tổng bí thư ĐCSVN sau này, có sao lưu bức điện với nội dung chiến lược quan trọng ấy cho các thế hệ lãnh đạo sau 1990?

    Nhiều nhà nghiên cứu khác trong và ngoài nước cũng đều nhấn mạnh đến cái gọng kìm địa-chính trị của Trung Quốc đối với Việt Nam là vấn nạn thiên thu, dù dưới màu sắc ý thức hệ như thời chiến tranh hay là tham vọng Đại Hán như ngày nay. Và vị thế địa chính-trị ấy cũng lại là con dao hai lưỡi, nó có thể giúp đất nước vươn lên, nhưng cũng có thể đẩy lùi một Việt Nam loay hoay giữa ngã ba đường vào thời kỳ Bắc thuộc mới và kéo dài như sinh thời ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã cảnh báo.

    Trong công hàm gần đây nhất ngày 17/4/2020 gửi Tổng thư ký LHQ, Trung Quốc đã “cương quyết yêu cầu Việt Nam rút tất cả người và vật dụng trên các đảo và đá ở Trường Sa”. Rõ ràng, giải pháp đối với Việt Nam lúc này là phải sớm hội nhập vào không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở (FOIP) để huy động bằng được sức mạnh toàn diện của dân tộc và của quốc tế. Khó có thể tin rằng sự giàn xếp sau hậu trường giữa hai đảng cộng sản về “kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội” hay “vận mệnh tương thông, văn hoá tương đồng” có thể làm thay đổi chính sách “sát ván” của Bắc Kinh đối với Hà Nội.

    Càng để lâu tình hình bất định như hiện nay, Việt Nam càng tiếp tục bị Trung Quốc lợi dụng, thế giới hiểu nhầm. Trung Quốc đang gấp rút biến các đảo cưỡng chiếm thành chuỗi căn cứ giúp họ có đủ sức mạnh để cấm đoán tàu bè qua lại. Bắc Kinh hoàn toàn phớt lờ các phản kháng của Hà Nội, khiến cho sự chia rẽ trong nội bộ Việt Nam ngày càng sâu sắc.

    Thế giới là bàn cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những tay “chơi cờ độn nước”. Việt Nam muốn hay không cũng đang trong bàn cờ chung ấy. Vấn đề là phải thức thời, biết chọn chơi loại cờ nào? “Còn như vào trước ra sau/ Ai cho kén chọn vàng thau tại mình” (Nguyễn Du). Cờ Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Việt Nam có cơ để trở thành một cường quốc tầm trung. Nhưng cờ Tây thì phải đi với nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết gắn mình vào thế trận chung với các quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.

    Có thể chia sẻ với TS. Đỗ Kim Thêm từ “Diễn đàn Thương mại và Phát triển LHQ” (UNCTAD): Tỉnh thức về thân phận của dân tộc là vấn đề kiến thức, xác định ý muốn để thay đổi là vấn đề của quyết tâm chính trị, vấn đề của sự chọn lựa! Chúng ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong tình tự dân tộc. Đất nước đang đứng trước nguy cơ! Hy vọng, hồn thiêng sông núi vẫn phù hộ cho con dân nước Việt. Đất nước mỗi khi lâm nguy chắc chắn sẽ xuất hiện một Trần Nhân Tông hay một Lê Thánh Tông, kể cả nếu gốc gác là nông dân thì chí ít cũng phải có một khát vọng lớn như anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

    *

    Sự hung hăng của Trung Quốc trong cuộc trường chinh “Nam tiến” ngày càng đặt Việt Nam trước tình thế không thể kéo dài mãi chính sách “lửng lơ con cá vàng”. Việt Nam không thể chần chừ giữa ngã ba đường. Người dân sau đại dịch đang kỳ vọng lãnh đạo sẽ chớp được thời cơ có một không hai hậu Covid-19 để hành động. Phải khắc phục ngay tình trạng không bình thường trong nội trị và ngoại giao. Bời những ai quan tâm đến thời cuộc đều lấy làm tiếc, vì niềm tin của quần chúng vừa mới le lói sau đại dịch nay lại đang mất dần qua phiên giám đốc thẩm về tử tù Hồ Duy Hải, hay xử sơ thẩm vụ người mẹ đơn thân đánh BOT Huệ Như.

    Liệu cái khung khổ “cùng chung vận mệnh” có cứu Việt Nam thoát khỏi một cuộc xung đột mới do Trung Quốc gây ra trên đất liền hoặc ở tận mãi ngoài các đảo xa? Liệu lời kêu gọi phải bám chặt lấy thị trường Trung Quốc để phát triển có khả thi, khi cả về trình độ marketing lẫn tiền bạc doanh nhân Việt vẫn còn dưới cơ các nhà buôn Tàu. Nhưng xử lý các vấn đề làm ăn với Trung Quốc như thế nào khi như chính các chuyên gia phải thừa nhận, chúng ta chưa có chủ nghĩa dân tộc về kinh tế? Các chuyên gia cảnh báo rằng, bối cảnh cả chính trị lẫn kinh tế hiện nay khác xa với năm 2000, nhất là giờ đây Trung Quốc đã chế ngự được Lào và Campuchia, khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của Việt Nam./.


    TS. Đinh Hoàng Thắng

    Không có nhận xét nào