Header Ads

  • Breaking News

    Vũ Tường - Cuộc cách mạng Cộng sản của Việt Nam: Quyền lực và những giới hạn của ý thức hệ (phần 2)

    Vũ Tường là giảng viên tại Khoa Khoa học chính trị của Đại học Oregon (Hoa Kỳ) từ năm 2008. Ông cũng thỉnh giảng tại Đại học Princeton và Đại học Quốc gia Singapore. Nghiên cứu của ông tập trung vào các đề tài: chính trị học so sánh về sự hình thành nhà nước, các vấn đề về phát triển, chủ nghĩa dân tộc, và các cuộc cách mạng, đặc biệt là tại vùng Đông Á. Ông cũng là tác giả của cuốn ‘Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia’ [Các con đường phát triển ở châu Á: Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia] (Cambridge University Press, 2010),
    Vũ Tường - Cuộc cách mạng Cộng sản của Việt Nam: Quyền lực và những giới hạn của ý thức hệ (phần 2)

    Về chính trị, các nhà cộng sản Việt Nam coi những người Việt Nam thuộc “giai cấp bóc lột” là một nhóm thiểu số trong cộng đồng quốc gia Việt Nam. Những giai cấp này không đại diện cho quốc gia và cần phải bị loại bỏ, mặc dù họ là người thuộc dân tộc Việt. Đồng thời, mặc dù các công nhân Pháp mang quốc tịch Pháp nhưng họ có chung quyền lợi với quần chúng Việt Nam vì cả hai đều bị thực dân và đế quốc Pháp bóc lột, áp bức. Đối với các nhà cộng sản Việt Nam, những người chỉ nhìn thấy sự chia rẽ dân tộc Pháp-Việt và mà không nhận thấy sự đoàn kết liên quốc gia giữa các giai cấp công nhân Pháp và Việt Nam là nạn nhân của một hình thức chủ nghĩa dân tộc “tư sản” và “hẹp hòi ”.

    Khi trở thành những người cộng sản, các nhà cách mạng Việt Nam không phải từ bỏ dân tộc tính của mình mà vẫn có được tư cách thành viên trong tình đồng chí với các nhà cộng sản, các đảng cộng sản và các phong trào cộng sản quốc tế. Theo quan điểm của họ, tình đồng chí không chỉ là một liên minh an ninh hay kinh tế, mặc dù đó là một phần quan trọng.[50] Về mặt khái niệm, tình đồng chí được hiểu là một hình thái vật chất của một hiện tượng lịch sử được gọi là “Thời đại của Cách mạng Tháng Mười [Nga] ”. Nền tảng đạo đức của nó là tinh thần quốc tế vô sản được định nghĩa như là sự đoàn kết giữa các đảng chính trị của giai cấp công nhân trên nhiều cộng đồng quốc gia. Trong điều kiện lý tưởng, các thành viên của tình đồng chí có chung tinh thần vô sản và quyền lợi của giai cấp công nhân không bị rào cản địa lý cản trở và không bị tình cảm dân tộc hẹp hòi làm cho ô uế.

    Mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác là nền tảng của chính sách đối ngoại của Việt Nam xuyên suốt và sau cuộc cách mạng. Cho đến cuối thập niên 1950, các nhà cộng sản Việt Nam đã tưởng tượng ra tình đồng chí trong điều kiện lý tưởng của nó và bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc và hoàn toàn tin tưởng vào Liên Xô. Họ coi sự lãnh đạo của Liên Xô đối với cách mạng thế giới là điều kiện lịch sử tất định, không phải là một sự mâu thuẫn với các nguyên tắc bình đẳng thể hiện trong tình đồng chí. Giới lãnh đạo Liên Xô không bắt buộc các quốc gia nhỏ hơn phải phục tùng Moscow, cũng như không coi các quốc gia nhỏ hơn này ở vị trí thấp kém hơn. Tuy nhiên, thái độ của các nhà lãnh đạo cộng sản chủ chốt của Việt Nam đối với Mátxcơva đã thay đổi sau cuộc xung đột Trung-Xô vào đầu thập niên 1960. Họ liên minh với Mao và lên án chính sách chung sống hòa bình của Khrushchev là đi chệch khỏi sứ mệnh của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, họ cũng không tán thành những nỗ lực của Mao trong việc thành lập Quốc tế Cộng sản mới vốn có thể báo hiệu sự chia rẽ chính thức trong khối Xô-viết. Vượt lên quan điểm lý tưởng hóa, họ trở nên thực tế hơn trong thái độ của mình trong khi vẫn trung thành với chủ nghĩa quốc tế.

    Mặc dù quan hệ giữa quốc gia Việt Nam cộng sản và những người anh em của nó không phải lúc nào cũng tốt đẹp, nhưng điều đáng chú ý là lòng trung thành kiên định với chủ nghĩa quốc tế. Cho dù mang tính hoang tưởng, thực tế, hoặc tự lấy mình làm trung tâm, trong toàn bộ quá trình này, những các nhà cộng sản cách mạng Việt Nam không bao giờ tưởng tượng đến việc phá bỏ tình anh em. Mặc dù họ mong được các nước anh em giúp đỡ, nhưng nói rằng họ liên minh với các nước anh em chỉ để mong được giúp đỡ về vật chất sẽ là một sự sỉ nhục đối với họ.

    Mức độ sâu sắc của cam kết của họ đối với tình anh em là rất rõ ràng bởi sự đối lập với thái độ dành cho các nước đang phát triển không phải là quốc gia cộng sản. Một mặt, các nhà cách mạng Việt Nam thể hiện tình đoàn kết và duy trì các mối quan hệ với các dân tộc và phong trào ở các nước bị đô hộ và lệ thuộc. Trong tư tưởng của họ, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân châu Âu và chủ nghĩa đế quốc Mỹ ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh đã tạo thành một mặt trận lớn của cách mạng thế giới. Họ kiên quyết ủng hộ tiến trình phi thực dân hóa và xây dựng các mối quan hệ thân thiện và hỗ trợ lẫn nhau với các thuộc địa cũ, bao gồm cả những nước như Ấn Độ, nơi phong trào dân tộc chủ nghĩa “tư sản” dẫn đầu quá trình phi thực dân hóa. Đổi lại, sự ủng hộ cách mạng từ các dân tộc bị áp bức khác trên khắp thế giới đã tạo động lực rất lớn cho người Việt Nam.https://www.youtube.com/channel/UCITtis6-2E91zer7IRZghCw

    Mặt khác, các mối quan hệ của nước Việt Nam cách mạng với các nước được gọi là thuộc “Thế giới thứ Ba” không sâu rộng như với các nước anh em trong khối cộng sản. Người Việt thấy ít có lợi ích khi học hỏi từ các nước kém tinh thần cách mạng hơn họ. Trung Quốc và các nước trong khối Xô-viết, chứ không phải các quốc gia thuộc Thế giới thứ Ba khác, là nơi họ cử hàng nghìn sinh viên và cán bộ đến học tập. Trong thập kỷ đầu tiên sau khi lên nắm quyền, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã sao chép khá trung thực các thể chế chính trị và mô hình phát triển kinh tế của Liên Xô và Trung Quốc - từ Hiến pháp năm 1936 của Stalin đến sự sùng bái cá nhân của ông ta, từ cải cách ruộng đất đến tập thể hóa, và từ kế hoạch hóa tập trung đến mối bận tâm xây dựng công nghiệp nặng - dưới tên gọi của các tổ chức cụ thể như báo ‘Sự thật’ [‘Pravda’ trong tiếng Nga], báo ‘Nhân dân’ [‘Nhân dân nhật báo’ của Trung Quốc ], Đoàn Thanh Niên Công Sản [Komsomol hay Liên đoàn Cộng sản Thanh niên của Liên Xô], và hộ khẩu [từ Trung Quốc]. Những sự vay mượn này không nên được hiểu là cho thấy tiếng Việt không có khả năng tư duy độc lập và nguyên gốc. Thay vào đó, họ truyền tải sự nhiệt tình của mình về những ý tưởng cách mạng tiên tiến nhất vào thời điểm đó và tham vọng hiện thực hóa những ý tưởng đó trong bối cảnh lịch sử ít có lợi cho những ý tưởng đó hơn nhiều so với Liên Xô hay Trung Quốc.

    Nếu không ghi nhận đầy đủ nhân tố Việt Nam, sẽ khó đánh giá được sự phong phú trong tư tưởng và trí tưởng tượng của họ bao hàm ý nghĩa cuộc sống, lịch sử xã hội loài người, những quan niệm mới về dân tộc và thế giới, và vị trí của Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng toàn cầu. Thế giới quan của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam không hoàn thiện ngay từ đầu mà phát triển theo thời gian khi lý tưởng của họ phải đối mặt với thực tế khắc nghiệt. Về mặt cá nhân, họ không thông thạo lý thuyết Marx-Lenin một cách đồng nhất, và họ cũng không luôn đạt được sự đồng thuận về cách giải thích các khái niệm cách mạng cụ thể. Là một nhóm cách mạng, thế giới quan có hệ thống và cấp tiến của họ đã phân biệt sâu sắc họ với những người khác trong phong trào chống thực dân, cũng như định hình một cách mạnh mẽ quỹ đạo của cách mạng Việt Nam.

    VAI TRÒ CỦA Ý THỨC HỆ TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

    Ý thức hệ đóng ba vai trò lớn trong cách mạng Việt Nam. Vai trò đầu tiên của ý thức hệ là nó được sử dụng như một tài liệu hướng dẫn hoặc như một chiếc la bàn. Ý thức hệ xác định nhiệm vụ của cách mạng không chỉ là độc lập dân tộc mà còn là những sự biến đổi xã hội và những đóng góp cho cách mạng thế giới. Ý thức hệ đã cung cấp cho các nhà cách mạng Việt Nam một tầm nhìn rõ ràng về tương lai dưới dạng một xã hội theo mô hình của hệ thống Xô-viết. Tầm nhìn đó đã giúp họ kiên định với viễn cảnh dài hạn và vượt qua những thử thách ngắn hạn. Ý thức hệ cung cấp cho họ chiếc ống nhòm để giải thích và diễn giải các sự kiện thế giới cách xa hàng ngàn dặm và ít tác động trực tiếp đến Việt Nam. Trong suốt cuộc cách mạng của họ, ý thức hệ đã giúp các nhà cộng sản Việt Nam nhận định về bản chất và xu hướng của chính trị thế giới và về hành vi của các quốc gia nước ngoài như Liên Xô, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Ngoài ra, ý thức hệ Lênin-nít coi chiến tranh như là sự bành trướng của cách mạng. Trong một số tình huống, điều này gợi ý các chiến lược chiến tranh đặc biệt chú trọng đến việc huy động quần chúng trong việc triển khai các đơn vị chủ lực. Nếu không có khái niệm Lênin-nít về tương quan lực lượng, Hà Nội có thể đã bị tấn công bởi hỏa lực khổng lồ của Hoa Kỳ.

    Không phải lúc nào ý thức hệ cũng giúp các nhà cách mạng Việt Nam đi đúng hướng, và thậm chí người ta có thể cho rằng nó thường xuyên khiến họ hiểu sai về các sự kiện thế giới. Ví dụ, cách giải thích của họ về hành vi của Hoa Kỳ thường quá giáo điều và tiêu cực. Việc họ sử dụng các khái niệm Lênin-nít trong việc vạch ra các chiến lược chiến tranh đã gây ra những tính toán sai lầm và tổn thất nghiêm trọng cho các lực lượng cách mạng trong Tết Mậu Thân (1968). Trong giai đoạn sau 1975, họ hoàn toàn hiểu sai về tình hình thế giới. Sự trung thành về ý thức hệ đã tạo ra kẻ thù ở khắp nơi một cách không cần thiết. Niềm tin của họ vào mô hình Stalin-nít đã gây ra những hậu quả tai hại cho nền kinh tế Việt Nam. Chế độ ngày nay đã mất tính chính danh vì Đảng Cộng sản vẫn bám vào một học thuyết lỗi thời. Vấn đề là: Ý thức hệ đã gây ảnh hưởng và giúp các nhà cách mạng Việt Nam giải thích nhiều quyết định của mình, nhưng không giúp xác định thành công hay thất bại của chúng trong bất kỳ nỗ lực cụ thể nào. Niềm tin ý thức hệ mãnh liệt rằng lịch sử và công lý đứng về phía họ chỉ đơn giản là mang lại cho các nhà cách mạng sự can đảm (hoặc sự liều lĩnh vô ích, từ một góc độ khác) để chống lại những kẻ thù trong và ngoài nước đầy hùng mạnh – dù là kẻ thù thực sự hay kẻ thù tưởng tượng - trong khi các khái niệm do ý thức hệ hình thành tạo cho họ một số công cụ để hoạt động nhưng kết quả lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác.

    Vai trò thứ hai của ý thức hệ là đóng vai trò như một sợi dây liên kết các thành viên trong phong trào cộng sản trong nước và quốc tế. Ở trong nước, đó là chất keo ràng buộc các Đảng viên với nhau, rõ ràng nhất là trong giai đoạn trước khi nắm quyền. Chỉ cần họ thực sự tin tưởng vào ý thức hệ, công tác truyền bá ý thức hệ đã làm say mê các Đảng viên và giúp họ kiên trì đối mặt với khó khăn, gian khổ. Các nguyên lý ý thức hệ bộc lộ rõ ràng về tổ chức của Đảng, chính sách về đảng viên, các quy trình hoạt động tiêu chuẩn của Đảng và cách truyền đạt của Đảng tới quần chúng (tuyên truyền). Về đối ngoại, ý thức hệ đã liên kết các nhà cách mạng Việt Nam với một mạng lưới xuyên quốc gia gồm các nhà nước và phong trào có chung niềm tin vào cùng một ý thức hệ. Trong giai đoạn trước khi nắm quyền lực, mạng lưới này đã cung cấp thông tin, đào tạo, hỗ trợ và sự bảo vệ khỏi các mật thám Pháp. Mạng lưới này đã giải cứu phong trào Việt Nam sau khi nó gần như bị tiêu diệt bởi sự đàn áp của thực dân vào năm 1931 và năm 1940. Mạng lưới này tạo động lực cho các nhà cách mạng phối hợp chiến lược của họ với phong trào cộng sản và công nhân thế giới để tận dụng các nguồn lực sẵn có.

    Một lần nữa, ý thức hệ không phải lúc nào cũng hữu ích, và tạo ra nhiều vấn đề cho cách mạng Việt Nam cũng nhiều như những lần nó giúp ích. Trong suốt thập niên 1940, các nhà cộng sản Việt Nam nhận được ít hoặc không nhận được sự hỗ trợ từ mạng lưới xuyên quốc gia của các phong trào công nhân và cộng sản. Mạng lưới này chỉ đơn giản là phớt lờ Đông Dương và để mặc nó cho chủ nghĩa đế quốc. Nếu Liên Xô thua Đức thì cách mạng Việt Nam sẽ thất bại. Tương tự như vậy, nó sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn nếu những người cộng sản Trung Quốc thua trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc đại lục. Sự sụp đổ của hệ thống mạng vào cuối thập niên 1980 đã góp phần kết thúc hiệu quả cách mạng Việt Nam.

    Suốt thập niên 1960, ý thức hệ là nguồn gốc của xung đột phe phái gay gắt tại Hà Nội và giữa Bắc Việt Nam và các đồng minh của nó. Ý thức hệ đã cổ vũ cho chủ nghĩa bè phái bởi vì chủ nghĩa Marx-Lenin đủ rộng lớn để được giải thích theo nhiều cách. Sự bất đồng ý thức hệ với Matxcơva và Bắc Kinh đã tạo ra một khó khăn đáng kể cho Hà Nội, bởi cuộc cách mạng cần sự ủng hộ của cả hai đảng anh em này. Sự bất đồng ý thức hệ khủng khiếp trong giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam suốt thập niên 1960 có thể đã phá hủy cuộc cách mạng. Một lần nữa, điểm đáng chú hơn là: ý thức hệ được gắn trong sự tổ chức của Đảng Cộng sản và trong mạng lưới xuyên quốc gia đã có ích cho các nhà cách mạng Việt Nam ở một số khía cạnh, nhưng cuối cùng đã không giúp họ thành công.

    Vai trò thứ ba của ý thức hệ trong cách mạng Việt Nam là trở thành công cụ cốt yếu để xây dựng một nhà nước liên kết chặt chẽ. ”Chuyên chính vô sản” đã biện minh cho việc tập trung quyền lực trong các cơ quan nhà nước, đồng thời bạo lực không ngừng và có hệ thống đã được thực hiện để chống lại những kẻ phản cách mạng. Các nguyên lý ý thức hệ được triển khai nhằm tái cấu trúc xã hội theo tầm nhìn Stalin-nít mà các nhà cách mạng Việt Nam ấp ủ. Chẳng hạn, cải cách ruộng đất đã sử dụng các nguyên lý ý thức hệ để phân loại dân cư nông thôn và khiến người dân trong cùng một làng chống lại nhau; trong quá trình này, Đảng có thể mở rộng quyền kiểm soát của mình xuống cấp thôn làng. Ý thức hệ đã tạo ra những biện minh để nhà nước kiểm soát hoàn toàn nền kinh tế. Các luận điểm ý thức hệ mạnh mẽ hoặc có tính sáng tạo, dù được hình thành tại địa phương hay vay mượn từ mạng lưới xuyên quốc gia của các phong trào cộng sản và công nhân, đều cung cấp nội dung cho việc tuyên truyền hiệu quả của nhà nước. Sự truyền bá ý thức hệ là một công cụ có hệ thống để tạo ra sự tuân phục nhà nước trong dài hạn.

    Tuy nhiên, ý thức hệ đã hỗ trợ xây dựng nhà nước với sự tốn kém về mặt kinh tế, xã hội và văn hóa. Khi nhà nước mở rộng sự kiểm soát quan liêu, nền kinh tế đã bị ảnh hưởng. Mỗi làn sóng cải cách nông nghiệp và cải cách nền kinh tế theo hướng xóa bỏ tư bản chủ nghĩa diễn ra triệt để (1953-1956, 1958-1960, 1976-1978) đều dẫn tới các cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Những nỗ lực có hệ thống và kiên trì của các cấp chính quyền cách mạng nhằm thúc đẩy và thực thi niềm tin giáo điều vào chủ nghĩa Marx-Lenin đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển của khoa học, tư tưởng và văn hóa. Khi giới lãnh đạo miễn cưỡng từ bỏ kế hoạch hóa tập trung và hợp tác xã nông thôn vào cuối thập niên 1980, Việt Nam là nước nghèo thứ ba và là một trong những nước bị áp bức nhất ở Đông Nam Á.

    Xét về đường lối cụ thể và định hướng chung về đối ngoại của Việt Nam, ý thức hệ đóng vai trò trung tâm trong quyết định gia nhập khối Xô-viết năm 1948 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH). Nếu các nhà cách mạng Việt Nam không phải là những người cộng sản, thì họ đã không đưa ra quyết định đó. Những cân nhắc về mặt ý thức hệ sau đó đã góp phần vào quyết định của VNDCCH về việc chấp nhận các Hiệp định Geneva. Hơn nữa, các nguyên nhân ý thức hệ giải thích tại sao VNDCCH đứng về phía Trung Quốc trong xung đột Trung-Xô, nhưng lại không ủng hộ đề xuất của Bắc Kinh hình thành Quốc tế Cộng sản mới trong những năm 1963-1964, bất chấp lời đề nghị viện trợ đáng kể của Bắc Kinh. Niềm tin mang tính ý thức hệ vào sự thống nhất của phe xã hội chủ nghĩa đã khiến Hà Nội lên án những nỗ lực của Nam Tư, Ba Lan, Hungary và Tiệp Khắc vào nhiều thời điểm khác nhau trong việc theo đuổi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của riêng họ. Chính niềm tin này đã thúc đẩy Hà Nội nỗ lực cứu khối Xô-viết khi nó đang hấp hối. Ý thức hệ là nhân tố chính trong việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1990 và sự tôn trọng của Việt Nam đối với Trung Quốc kể từ đó. Do đó, những bằng chứng có nguồn gốc rõ ràng và mang tính quy nạp cho thấy ý thức hệ là rất quan trọng trong suốt cuộc cách mạng Việt Nam và là không thể thiếu cho việc giải thích chính sách đối ngoại quan trọng và định hướng chung của quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Những chính sách này có thể mang tính nhìn xa trông rộng hoặc bị nhầm lẫn, và các mối quan hệ đối ngoại có thể có lợi hoặc bị bất lợi đối với lợi ích quốc gia của Việt Nam, nhưng sự ảnh hưởng của ý thức hệ là không thể phủ nhận.

    Tất nhiên, ảnh hưởng đó tăng giảm theo thời gian. Trong toàn bộ tiến trình cách mạng, các thập niên 1940 và thập niên 1980 là hai giai đoạn khi mà ảnh hưởng này đã đã giảm xuống. Trong cả hai thời kỳ này, cuộc cách mạng đều mong manh ở trong nước và bị cô lập trên trường quốc tế. Trong thập niên 1940, Đảng đã tan rã sau cuộc nổi dậy thất bại vào năm 1940. Trong thập kỷ đó, Đảng đã bị cô lập phần lớn khỏi cuộc cách mạng thế giới. Trong thập niên 1980, Việt Nam trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài và nghiêm trọng, bị phương Tây cấm vận kinh tế và bị hầu hết các nước trong Liên Hợp Quốc cô lập về mặt ngoại giao. Nếu các sự kiện quốc tế và trong nước tạo động lực cho chủ nghĩa thực dụng, thì những thay đổi trong sự lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tiết ý thức hệ trong cả hai thời kỳ. Một sự lãnh đạo mới từ ương của Đảng đã được thành lập ở Bắc Việt Nam vào năm 1941, với sự trở lại của Hồ Chí Minh. Tương tự, thập niên 1980 chứng kiến sự chuyển đổi dần dần từ Lê Duẩn và Lê Đức Thọ sang Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh. Cần lưu ý rằng, trong cả hai thời kỳ, cách mạng Việt Nam hoàn toàn không tách rời khỏi chủ nghĩa chính thống giáo điều do Moscow chỉ đạo. Trong thập niên 1940, Hồ và Trường Chinh đã tuân theo chính sách của Quốc tế Cộng sản rằng những người cộng sản phải hợp tác với các nhà dân tộc chủ nghĩa để đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát-xít. Trong thập niên 1980, những nhà cải cách Việt Nam như Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh đã đi theo Gorbachev cho đến năm 1988. Tuy nhiên, khi họ nhận ra rằng Gorbachev đã đi chệch khỏi đường lối chính thống, họ cho rằng ông là kẻ phản bội và ủng hộ cuộc đảo chính (thất bại) chống lại ông.

    ĐỀ CƯƠNG CỦA CUỐN SÁCH

    Trong Chương 1, tôi trình bày cách chủ nghĩa cộng sản đến Việt Nam và các nhà cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu đã phát triển hiểu biết của họ về khái niệm cách mạng như thế nào. Chương 2 lần theo những bước phát triển của phong trào cộng sản Việt Nam qua thập niên 1930, chặng cuối của sự kết tinh một tầm nhìn cách mạng. Việc đạt được sự thống nhất về tầm nhìn cấp tiến trong giới lãnh đạo phong trào cho thấy mâu thuẫn ý thức hệ, đặc biệt là giữa Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của ông, đã bị phóng đại nhiều trong các nghiên cứu hiện có.

    Thập niên 1940 là một thời kỳ quan trọng khi các nhà cộng sản Việt Nam giành chính quyền, tổ chức nhà nước và trở thành một thành viên của khối Xô-viết. Chương 3 sẽ cho thấy rằng, ngay cả khi đang theo đuổi sự nhìn nhận về ngoại giao từ Hoa Kỳ và đàm phán hòa bình với Pháp, họ vẫn cố gắng thu hút sự chú ý và ủng hộ của các đồng chí Liên Xô và Trung Quốc vốn không quan tâm đến họ. Bằng chứng được trình bày trong chương này bác bỏ rõ ràng giả thuyết “cơ hội bị bỏ lỡ” vốn phổ biến trong các tài liệu về Chiến tranh Việt Nam.

    Trong Chương 4, tôi chuyển sang thập niên 1950 và thảo luận về việc lòng trung thành đối với ý thức hệ có thể đã định hình các quyết định quan trọng của Đảng như thế nào. Chương 5 tập trung vào cuộc tranh luận ý thức hệ giữa các lãnh tụ Việt Nam vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 để đối phó với sự chia rẽ Trung-Xô. Các sự kiện từ cuối thập niên 1960 đến cuối Chiến tranh Việt Nam được phân tích trong Chương 6. Trong giai đoạn này, các tư tưởng và chính sách của Việt Nam bắt đầu phản ánh cái mà tôi gọi là “chủ nghĩa quốc tế tiên phong”. Các nhà lãnh đạo Hà Nội vẫn cam kết sâu sắc đối với chủ nghĩa quốc tế trong khi ngày càng trở nên tự mãn và thể hiện một niềm tự hào quốc gia đầy tự tin rằng Việt Nam là đội tiên phong của cách mạng thế giới.

    Trong suốt thời kỳ hậu chiến, các chiến thắng tàn lụi và những bi kịch được tích tụ. Trong Chương 7, tôi lập luận rằng chủ nghĩa quốc tế tiên phong là nguyên nhân dẫn đến việc Việt Nam không tận dụng được trật tự thế giới thuận lợi sau chiến thắng của những người cộng sản năm 1975. Chương 8 nghiên cứu thập niên 1980, thập niên đã chứng kiến sự phát triển của quan hệ Xô-Việt. Việc Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô vào giữa thập niên 1980 đã giúp phe do Trường Chinh đứng đầu kích động sự ủng hộ đối với cải cách kinh tế. Tuy nhiên, các cuộc biểu tình tại Thiên An Môn và sự sụp đổ sắp xảy ra của các chế độ cộng sản Đông Âu vào năm 1989 đã làm cho các lãnh tụ Việt Nam hoảng sợ. Họ tố cáo Gorbachev và tìm cách liên minh với Trung Quốc để cứu chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

    Cách mạng Việt Nam đã kết thúc một cách hiệu quả vào cuối thập niên 1980 khi mô hình chủ nghĩa Stalin bị từ bỏ ở trong nước, khối Liên Xô tan rã và một số lãnh đạo cao nhất của Đảng qua đời trong vòng vài năm. Tuy nhiên, các di sản của ý thức hệ đã tỏ ra khá lâu bền. Như thảo luận trong Chương 9, quan điểm về ‘sự đấu tranh giữa hai khối’ đối với nền chính trị thế giới vẫn còn mạnh mẽ trong nền chính trị Việt Nam ngày nay bất chấp sự xuất hiện của các thế giới quan khác. Vai trò trung tâm của ý thức hệ xuyên suốt cuộc cách mạng Việt Nam mang lại nhiều ý nghĩa cho các cuộc tranh luận học thuật sẽ được thảo luận trong phần kết. Những cuộc tranh luận này liên quan đến Chiến tranh Việt Nam, và chính trị thời kỳ cách mạng và hậu cách mạng.

    LƯU Ý VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁC NGUỒN TÀI LIỆU

    Trong cuốn sách này, tôi sử dụng phương pháp quy nạp và phân tích diễn ngôn để luận giải thế giới quan của các nhà cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ chính mà tôi đặt ra là theo dõi các tư tưởng của họ theo thời gian thông qua nhiều nguồn tài liệu khác nhau, đặc biệt chú ý đến cách sử dụng các khái niệm chính để giải thích thực tế và khẳng định lập trường chính sách đối ngoại. Trong suốt nghiên cứu này, tôi liên kết ý thức hệ với các chính sách cụ thể, nhưng trọng tâm thực sự là quan hệ đối ngoại rộng lớn. Không phải tất cả các chính sách đối ngoại đều có thể được giải thích trực tiếp bằng lòng trung thành với ý thức hệ, cũng như không thể liên kết chúng với các cuộc tranh luận về ý thức hệ.[53] Khi có thể, tôi tìm cách chứng minh những vấn đề ý thức hệ nào đang bị đe dọa và chúng đã được tranh luận như thế nào trước khi đưa ra các chính sách. Theo thời gian, có thể nhận thấy một khuôn mẫu rõ ràng cho thấy các nhà cộng sản Việt Nam không chỉ trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin mà còn hành động dưới sự hướng dẫn của chủ nghĩa này, bất chấp và bên cạnh đó họ còn quan tâm đến các yếu tố khác.

    Tôi sống tại nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong những năm 1975-1990 và được tiếp xúc với rất nhiều tuyên truyền của nhà nước suốt thời kỳ từ trung học đến đại học. Tuyên truyền đã thâm nhập vào đời sống của giới trẻ và người già tại Việt Nam không chỉ ở trường học, tại nơi làm việc mà còn thông qua hệ thống truyền thông công cộng phổ biến khắp nơi, tin tức và bài hát cách mạng phát hàng ngày từ sớm đến khuya. Mặc dù hồi đó tôi không có lựa chọn nào khác, nhưng sự tiếp xúc này đã khiến tôi đắm chìm trong diễn ngôn chính trị rằng Việt Nam đang ở đỉnh cao của cuộc cách mạng, dạy tôi những quy tắc và cấu trúc của nó, đồng thời rèn luyện đôi tai của tôi để nhạy cảm với những thay đổi tinh vi trong đó. Kinh nghiệm cũng có giá trị ở chỗ tôi đã trực tiếp trải nghiệm diễn ngôn đó khi nó được sử dụng trực tiếp cùng với hàng triệu người Việt Nam khác, thay vì chỉ tiếp cận nó thông qua các văn bản lưu trữ. Nếu diễn ngôn đó nghe có vẻ cổ hủ đối với hầu hết những người nói tiếng Việt ngày nay, thì vào thời điểm đó, diễn ngôn này vẫn còn sống động, vẫn còn sôi sục những đam mê đầy thô sơ và uy quyền đầy mạnh mẽ. Sống, hay thậm chí người ta có thể nói là thở trong diễn ngôn cách mạng hàng ngày một cách liên tục và ngày càng mạnh mẽ trong suốt mười lăm năm đã giúp tôi tự tin về khả năng đánh giá đúng sức mạnh của nó cũng như những giới hạn của nó trong nền chính trị Việt Nam.

    Tất nhiên, kinh nghiệm không thể thay thế cho bằng chứng dựa trên văn bản. Khi mối quan tâm của tôi đối với chủ đề này tăng lên trong thập kỷ qua, tôi đã đến Việt Nam nhiều lần, mỗi lần vài tuần, để thực hiện các cuộc phỏng vấn và thu thập tài liệu cho dự án này. Cụ thể, tôi đã tiến hành nghiên cứu tại Cục Lưu trữ Quốc gia III ở Hà Nội trong vòng một năm từ năm 2002 đến năm 2003 và một lần nữa vào năm 2013. Tôi cũng đã đọc nhiều loại báo được xuất bản từ thập niên 1920 đến 2000 tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và Thư viện Quốc gia tại Hà Nội.

    Nếu không có các nguồn tài liệu mới xuất hiện từ Việt Nam kể từ thập niên 1990, nghiên cứu này sẽ không thể thực hiện được. Nguồn tài liệu quan trọng nhất của cuốn sách này là năm mươi tư tập ‘Văn Kiện Đảng Toàn tập’ do Đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản trong thời kỳ 1998-2007. Nguồn này bao gồm khoảng 40.000 trang tài liệu do các Đảng bộ trung ương và địa phương biên soạn và bao trùm bảy mươi năm lịch sử Đảng, từ năm 1924 đến nm 1995. Mặc dù một số tài liệu trong các tập này đã được phát hành trước đó dưới dạng ít hoàn chỉnh hơn, nhưng hầu hết các tài liệu lần đầu tiên được cung cấp cho các nhà nghiên cứu. Điểm mạnh chính của nguồn tài liệu này là phạm vi rộng và sự đa dạng của các loại văn bản, không chỉ bao gồm các phân tích và chính sách của Đảng ở trung ương mà còn cả việc thực hiện ở địa phương, không chỉ về chính trị mà còn cả kinh tế, tuyên truyền và văn hóa. Một điểm mạnh khác của bộ sưu tập này là độ rộng của phạm vi mà nó đề cập đến; các bộ tuyển tập trước đó thường bao gồm một giai đoạn cụ thể của cuộc cách mạng. Các nghị quyết và báo cáo chính trị của hầu hết các cuộc họp của Ủy ban Trung ương trước thập niên 1980 đều được đưa vào, cho phép tôi theo dõi tư tưởng của các nhà lãnh đạo Đảng xuyên thời gian mà không bị ngắt quãng. Đối với thời kỳ thuộc địa khi Đảng hoạt động bí mật, bộ sưu tập bao gồm nhiều tài liệu có được từ các kho lưu trữ của Nga và Pháp.

    Không nghi ngờ gì nữa, bộ sưu tập này chỉ đại diện cho một phần nhỏ của kho lưu trữ của Đảng, vốn vẫn bị hạn chế đối với hầu hết các nhà nghiên cứu. Một giới hạn khác của nguồn tài liệu này là thuộc tính được ban hành chính thức của các tài liệu mà nó công bố. Nói chung, đây không phải là nơi để tìm kiếm thông tin về sự tương tác không chính thức trong nội bộ lãnh đạo cao nhất, cũng như không nói nhiều về sự khác biệt trong quan điểm của từng cá nhân lãnh đạo về các chính sách cụ thể. Tuy nhiên, ý định của tôi không phải là viết một lịch sử theo sự kiện về cách mạng Việt Nam. Chúng tôi quan tâm chủ yếu đến những suy nghĩ chính thức và tập thể của các nhà lãnh đạo Đảng về thế giới, bao gồm hình ảnh về bản thân họ và hình ảnh của họ về các quốc gia khác, giới hạn của mối quan tâm đó không bị hạn chế bởi nguồn tài liệu này.

    Chắc hẳn các tài liệu trong bộ sưu tập này đã được chỉnh sửa trước khi xuất bản. Mức độ chỉnh sửa rất đa dạng: các tài liệu trước 1975 dường như chỉ được chỉnh sửa nhẹ; những vấn đề trước năm 1945 hầu như không bị chỉnh sửa. Như tôi đã giải thích ở những chỗ khác, việc xuất bản những tập sách này là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam cộng sản.[54] Quyết định xuất bản chúng phản ánh nỗi sợ hãi và lo lắng của thế hệ lãnh đạo thứ hai của Việt Nam, những người không tham gia nhiều vào cuộc cách mạng và những người cần mượn tính chính danh của những người tiền nhiệm bằng cách tiết lộ, càng nhiều càng tốt, bảy thập kỷ hồ sơ của Đảng để công chúng xem. Việc xuất bản các tập sách, như Bộ Chính trị đã giải thích trong quyết định của mình, không chỉ để chứng minh quá khứ cách mạng của Đảng mà còn cả những đóng góp của Đảng đối với dân tộc, không chỉ những thành công của Đảng mà còn cả (một số) thất bại của nó. Ví dụ, khối lượng tài liệu được công bố trong giai đoạn 1940-1945, bao gồm một phần đặc biệt với nhiều tài liệu về việc huy động đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh, chứ không phải để tiến hành đấu tranh giai cấp. Tập năm 1948 có một tài liệu lần đầu tiên cho thấy Bộ Chính trị đã cho phép thực hiện một tỷ lệ quy địa chủ (1 trên 1.000 người) cho chiến dịch giảm tô. [55] Tài liệu này rất có ý nghĩa vì nó nói rõ rằng các vụ giết người hàng loạt đã được tính trước. Các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng biết điều gì đang xảy ra, và nói chung không thể đổ lỗi về sự thái quá cho những người nông dân địa phương nhiệt thành. Những ví dụ này cho thấy rằng, ít nhất ở một mức độ nào đó, những người biên tập các tập sách đã cam kết thực hiện nhiều mục tiêu của dự án và không biên tập chúng chỉ đơn thuần để phóng đại các niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản và tư cách lãnh đạo của Đảng.

    Loại nguồn thứ hai cung cấp thông tin trực tiếp cho nghiên cứu này bao gồm rất nhiều tờ báo, tạp chí, sách, nhật ký cá nhân và hồi ký của Việt Nam được xuất bản trong bảy thập kỷ qua ở Việt Nam.[56] Các ấn phẩm này phong phú về mọi loại thông tin, từ chính trị cao cấp đến đời thường. Những tờ báo được xuất bản vào thập niên 1930 hoặc trước đó rất hữu ích để hiểu được chủ nghĩa cộng sản được miêu tả và tiếp nhận như thế nào ở Đông Dương thuộc Pháp. Từ năm 1945 đến năm 1946, những người cộng sản vẫn chưa kiểm soát các phương tiện truyền thông và tôi đã có thể tiếp cận hàng chục tờ báo được xuất bản bởi các nhóm có mối quan hệ chính trị khác nhau. Các học giả hiếm khi sử dụng một số tờ báo của những cộng sản, chẳng hạn như ‘Việt Nam Độc Lập’ và ‘Sự Thật’, mặc dù đây là những tờ báo chính trong thập kỷ quan trọng 1942-1950. Trong thập kỷ này, khi mục đích trọng tâm trong chính sách của những người cộng sản là để hỗ trợ Đồng minh (1942-1945) và huy động đoàn kết dân tộc và giành độc lập (toàn bộ thời kỳ), sự cổ xúy cho những lý tưởng cộng sản được tìm thấy trong những tờ báo này ở cả hai hình thức tinh vi và công khai, với bằng chứng về các cam kết sâu sắc.

    Nhiều cuốn nhật ký cá nhân của những người đương thời, từ các nhà lãnh đạo cộng sản đến các nhà văn và các chiến sĩ, đã được xuất bản trong vòng một thập kỷ qua và đặc biệt tiết lộ về suy nghĩ của người dân thời đó. Nhật ký của các chiến sĩ cộng sản đã hi sinh ở miền Nam Việt Nam nói lên những cam kết về ý thức hệ của họ, bên cạnh lòng yêu nước.[57] Đáng chú ý, một số tác giả của những cuốn nhật ký này như Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc xuất thân từ những giai cấp bị nghi ngờ ở miền Bắc Việt Nam cộng sản, và niềm tin ý thức hệ và sự hy sinh cá nhân của họ cho một chế độ thường xuyên coi thường sự phục vụ của họ là minh chứng xác thực không thể nghi ngờ về sức mạnh của ý thức hệ trong xã hội.[58] Nhật ký của họ không thảo luận về bất kỳ quyết định chính sách đối ngoại nào, nhưng quan hệ đối ngoại của Việt Nam cộng sản không phải do các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của nó tạo ra. Ở cấp độ rộng hơn, những mối quan hệ liên quan đến các cuộc chiến tranh đẫm máu trong nhiều thập kỷ được hình thành trên mồ hôi và máu của hàng triệu người.

    Hồi ký của những người tham gia các sự kiện lớn là một nguồn quan trọng khác cho nghiên cứu này. Một số hồi ký của các quan chức cao cấp, ví dụ như của Trần Quỳnh và Trần Quang Cơ đã hầu như không được sử dụng bởi các học giả trước đây, mặc dù chúng đã tồn tại trên mạng Internet trong nhiều năm. Những hồi ký này cung cấp thông tin có giá trị về các chính sách cụ thể mặc dù chúng cần được đánh giá cẩn thận để giảm bớt các lý do biện minh có thể có của các tác giả về các chính sách trước đây. Phần lớn các hồi ký cung cấp thông tin về nghiên cứu này thuộc một loại khác: chúng thuộc về các quan chức cấp trung và các nhà cách mạng cũ, những người chưa bao giờ nắm quyền hoặc từ lâu đã không được chế độ ủng hộ. Những ví dụ như Trần Đình Long, Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Nguyễn Kiến Giang, Trần Đĩnh, Nguyễn Văn Trân, Trần Thư, Bùi Tín, Hoàng Hữu Yên, và những người khác. Một lần nữa, mục đích chính không phải để tìm kiếm thông tin về các quyết định chính sách đối ngoại cụ thể mặc dù một số hồi ký có chứa thông tin như vậy. Thay vào đó, các cuốn hồi ký rất hữu ích để hiểu được những người khác ngoài các nhà lãnh đạo cao nhất đã suy nghĩ và nói chuyện một cách thân mật về ý thức hệ và chính trị như thế nào.

    Mặc dù không hữu ích trực tiếp cho cuốn sách này, nhưng một nguồn tài liệu mới có ý nghĩa từ Việt Nam đáng được đề cập đến. Đây là hàng triệu trang tài liệu lưu trữ của các cơ quan chính phủ thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1945-1975 được đặt tại Cục Lưu trữ Quốc gia III ở Hà Nội. Các tài liệu cụ thể về chính sách đối ngoại thường không có trong kho lưu trữ này, mặc dù các tài liệu về quan hệ đối ngoại thì có. Tuy nhiên, bộ sưu tập hiện có cho thấy sự không thể tranh cãi đối với những cam kết của lãnh tụ Việt Nam đối với việc phát triển chủ nghĩa xã hội ở trong nước, mặc dù nhiều lần thất bại.[59] Riêng bộ sưu tập này cho thấy rằng họ là những nhà cách mạng thực sự với cam kết dành cho việc xây dựng xã hội không tưởng không ít hơn so với Stalin và Mao. Toàn bộ tài liệu lưu trữ này đã được xác thực và củng cố những gì tôi tìm thấy trong các nguồn tài liệu khác.

    Hầu hết các lập luận trong nghiên cứu này được tạo ra bằng cách kết hợp các nguồn tài liệu khác nhau. Một ví dụ hữu ích ở đây để cho thấy cách các nguồn kết hợp giúp đánh giá các tuyên bố hoặc vấn đề gây tranh cãi nhất định. Năm 1958, Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng đã gửi một công hàm cho người đồng cấp Trung Quốc Chu Ân Lai, trong đó về cơ bản đồng ý với yêu sách lãnh thổ sâu rộng của Trung Quốc ở Biển Đông. Từ các ghi chép này, không rõ liệu Đồng đã hành động theo ý mình và không chịu áp lực của Trung Quốc hay không.[60] Tuy nhiên, ý định thực sự của Đồng có thể được thăm dò bằng cách kiểm tra chéo ba nguồn khác. Thứ nhất, báo ‘Nhân Dân’, tờ báo của Đảng, dịch và xuất bản thông báo đầy đủ Chu Ân Lai về tuyên bố của Trung Quốc hai ngày sau khi nó đã được thực hiện, trong khi thông báo của Đồng được xuất bản tám ngày sau đó, cùng với tin tức về cuộc biểu tình khổng lồ tại Hà Nội để ủng hộ Trung Quốc.[61] Sẽ khó để lập luận rằng những động thái mang tính xúi giục và công khai đó đã được thực hiện dưới áp lực. Nguồn tài liệu thứ hai cung cấp bối cảnh hữu ích cho ghi chú của Đồng là cuốn nhật ký cá nhân được xuất bản gần đây của Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính và một lãnh đạo cấp cao của Đảng cho đến thập niên 1950. Trong nhật ký của mình, Hiến bày tỏ sự vui mừng khi nghe tin quân cộng sản Trung Quốc chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông từ tay người Pháp vào tháng 5 năm 1950 (Hoàng Sa cũng đã được Trung Quốc tuyên bố chủ quyền). Hiến nghĩ rằng việc Trung Quốc tiếp quản sẽ giúp cách mạng Việt Nam tiến lên ở miền Trung và miền Nam Việt Nam; ông không nêu ra bất kỳ vấn đề chủ quyền nào. [62] Vẫn còn một nguồn khác: sách giáo khoa ‘Địa lý Thế giới’ được sử dụng ở VNDCCH trong thập niên 1950 được dịch nguyên văn từ sách giáo khoa của Trung Quốc bao gồm các bản đồ thể hiện đầy đủ đường chín đoạn về yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hầu hết Biển Đông. [63] Ba nguồn tài liệu không loại trừ hoàn toàn khả năng Đồng hành động đơn thuần vì tình đoàn kết hoặc một áp lực ngoại giao tinh vi nào đó đã được tạo ra. Tuy nhiên, chúng cùng chỉ ra khả năng lớn hơn là Đồng và các đồng chí của ông tin tưởng coi Trung Quốc là anh em và chấp nhận các yêu sách của Trung Quốc mà không có bất kỳ điều kiện hạn chế nào.

    http://phamnguyentruong

    Không có nhận xét nào