Header Ads

  • Breaking News

    Ai mà khóc Tố Như!

    Lấy ngữ pháp để giải thích Truyện Kiều [1] (Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê)

    Bất tri tam bách dư niên hậu,

    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

    Không biết ba trăm năm nữa, còn ai khóc Tố Như không?

    Ai hỏi câu đó?

    Xin thưa: cách đây 200 năm, một người đã chết vì ôn dịch đã hỏi thế. Lúc đó, Việt Nam bị dịch hoành hành. Nhiều người chết lắm. Trong số người mắc dịch có một ông 54 tuổi. Hơi tàn sức cạn, người ấy nằm sòng soãi trên giường. Con cháu tất bật tìm thầy chạy thuốc. Nhưng con bệnh không chịu uống chén thuốc nào cả. Rồi một ngày, con bệnh ấy nhờ người thân sờ vào tay chân rồi hỏi ‘Nóng hay lạnh?’ Người thân trả lời ‘Đã lạnh cả rồi!’ Kẻ hấp hối đáp lại chỉ một tiếng: ‘Được’. Rồi từ đó, gian nhà im tịch tịch. Con bệnh lặng lẽ giã từ cõi đời.

    Người ra đi ấy là Nguyễn Du, hiệu là Tố Như, tác giả truyện Kiều.

    Hôm nay, Việt Luận mạn phép khóc Tố Như và hỏi ‘Bất tri nhất bách dư niên hậu…?’ Một trăm năm nữa còn ai nhớ người để lại cho Việt Ngữ 3,254 câu thơ lục bát mà chúng ta gọi là truyện Kiều. Hôm nay, dám có người Việt Nam không biết Tố Như là ai, nhưng ít nhất cũng nghe qua Nguyễn Du. Dám có người Việt Nam không còn nghe Nguyễn Du, nhưng ít nhất cũng thấy người ta nhắc tới truyện Kiều. Thảng hoặc không còn người Việt Nam nào nhắc tới truyện Kiều nữa, thì bao lâu còn người nói tiếng Việt bấy lâu chữ của truyện Kiều còn văng vẳng trong lời ăn tiếng nói của người ấy.

    Văng vẳng vì ngòi bút của kẻ đa tài này vừa gom góp tiếng dân dã vào truyện Kiều vừa khởi đầu cho lối nói thật Việt Nam. Những ‘đầu trâu mặt ngựa, ăn xổi ở thì, vật đổi sao dời, muôn binh nghìn tướng, máu chảy ruột mềm, nước chảy hoa trôi, …’ ở của miệng của chúng ta hôm nay – đã thấy trong Kiều cách đây hơn 200 năm. Nguyễn Du đã gom góp lời quê để ‘mua vui được vài trống canh’. Khi làm thế, ông cũng khởi đầu cho những lối nói thật Việt Nam. Việt Nam đến độ người mình nói mà không biết đấy là ‘văn chương’ của Kiều.

    Như các tác phẩm văn chương cổ điển trên thế giới, truyện Kiều của Nguyễn Du cho chào đời những nhân vật trở thành cá tính của người đời. Thần thoại Hy Lạp để lại những Hercules dũng mãnh, Venus diễm lệ, Eros nóng bỏng…. thì đã là người Việt Nam những Sở Khanh, Tú Bà, Hoạn Thư, Từ Hải… không cần phải viết hoa nữa. Thật vậy, làm thân con gái thì ai mà chả sợ thằng sở khanh. Ngược lại nam nhi chi khí thì phải mơ thành từ hải với ‘vai năm thước rộng, thân mười thước cao!’. Nhân vật trong truyện Kiều đã thành cá tính của ai đó trong đời thường. Khen ai thì khen ‘mười phân vẹn mười’. Kiều đó. Mỉa mai ai thì ‘mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao’. Lại Kiều.

    Có những lúc, người ngày nay dùng lại thủ pháp của Nguyễn Du mà không hay. Nói đến tình đã bén mà còn e ấp thì ‘tình trong như đã, mặt ngoài còn e’. Để tránh so đo hơn thua giữa hai người đẹp, không gì bằng tung cả hai lên tận mây xanh. Ấy là thuật nịnh đầm đã có dưới ngòi bút Nôm na cha mách qué của Nguyễn Du: ‘Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười’. Vậy là được cả hoa, lẫn huê. Thấy cảnh đời có khúc dài khúc ngắn thì nghĩ bụng:

    Lạ gì bỉ sắc thư phong

    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen

    Thương ai, có ‘dư nước mắt khóc người đời xua’ thì cũng dành tí tấm lòng cho:

    Phận hồng nhan có mong manh,

    Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương

    à nghe!

    Ba chữ ‘Nửa chừng xuân’ được Nhất Linh dùng đặt tên cho cuốn tiểu thuyết một thời chấn động ở Việt Nam.

    Rằng xưa, người ta coi những vần thơ trong truyện Kiều như một kinh điển. Nói thì đúc khuôn theo Kiều. Diễn xuất trên sân khấu thì làm trò Kiều. Hát xướng thì lẩy Kiểu. Vẽ vời thì tranh Kiều. Đến ngay bói toán thì cũng có bói Kiều. Ở chốn hàn lâm thì Kiều thành đề tài tranh luận dữ dội trên văn đàn Việt Nam. Vào những năm 1920, Phạm Quỳnh tâng truyện Kiều lên mây xanh ‘truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…’ Ngược lại, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng chê bai Kiều chỉ là cuốn dâm thư ba xu không hơn không kém. Ngô Đức Kế chê Kiều là ‘ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi’. Vì nặng luân lý Nho, không ít nhà đạo đức khuyên:

    Đàn ông chớ kể Phan Trần

    Đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều…

    Nhưng từ đời vua Minh Mạng đến nay, Kiều vẫn thành món ăn chơi của người sành điệu Việt Nam:

    Làm trai mê đánh Tổ tôm

    Mê ngựa hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều

    Có những chữ, những câu người nói đang ‘lẩy Kiều’ mà không hay. Thấy núi đồi lồ lộ ở đâu đó, chỉ cần phán ‘Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên’, rồi cười mỉm bí hiểm. Vậy là ai cũng biết núi đồi ở đâu rồi.

    Không phải người Việt lẩy Kiểu mà Tây Tàu cũng học thói này. Trong những năm gần đây, khi đến Việt Nam tổng thống Mỹ thường bỏ túi vài câu Kiều để… lẩy. Tổng thống Bill Clinton:

    Sen tàn cúc lại nở hoa,

    Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân

    Tổng thống Barack Obama thì:

    Rằng trăm năm cũng từ đây,

    Của tin gọi một chút này làm ghi.

    Ngay đến ông Joe Biden, khi làm phó tổng thống, cũng đã lẩy Kiều mà chơi:

    Trời còn để có hôm nay

    Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.

    Việt Luận

    https://vietluan.com.au/36137/ai-ma-khoc-to-nhu

    Lấy ngữ pháp để giải thích Truyện Kiều [1] (Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê)

    Người Việt Nam, hễ biết đọc, thì ai cũng đọc qua Truyện Kiều của Nguyễn Du, không biết đọc, cũng học truyền khẩu một vài đoạn để mà ngâm nga tiêu khiển. Nhưng hiểu nổi Truyện Kiều, hiểu từng câu từng chữ, dễ có mấy người! Truyện Kiều khó hiểu, không phải chỉ vì tác giả dùng nhiều điển cố, dịch nhiều từ ngữ Hán không thông dụng trong Việt ngữ [2] ; Truyện Kiều khó hiểu còn vì cách cấu tạo câu khác hẳn cú pháp thông thường [3] .

    Vẫn biết rằng thi gia không bắt buộc phải theo cú pháp thông thường như khi ta nói hay viết văn xuôi. Thi ca cần có nhạc điệu, phải theo âm luật; số tiếng mỗi câu lại có hạn nhất định, nên thi gia tha hồ dùng phép đảo ngữ và phép lược ngữ. Tuy nhiên, ít ai dùng hai phép ấy nhiều như Nguyễn Du trong Truyện Kiều.

    Đọc Truyện Kiều, đại đa số chỉ hiểu được đại ý, ít người hiểu được chính xác để có thể theo ngữ pháp mà phân tích từng câu từng đoạn trong truyện. Tất nhiên là muốn phân tích thì phải đặt lại những tiếng đảo trí theo thứ tự thông thường, và phải thêm vào những ý bị lược đi. Cái khó là ở đấy, cái khó là biết những tiếng nào đảo trí, những ý nào bị lược. Các sách có chú thích Truyện Kiều, chỉ chú thích về điển cố và từ ngữ, chứ chưa có sách nào chú thích về cú pháp.

    Chúng ta hãy lấy mấy câu mở đầu trong Truyện Kiều:

    Trăm năm trong cõi người ta,
    Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
    Trải qua một cuộc bể dâu,
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
    Lạ gì bỉ sắc tư phong,
    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

    Mấy câu ấy, ai cũng cho là dễ, ai cũng tưởng là mình hiểu. Thế mà sự thực thì lại khác, rất nhiều người chỉ hiểu được đại ý, chứ không hiểu được chính xác. Ấy cũng là vì không nhận định ra những tiếng đảo trí và những ý bị lược.

    Trong sáu câu thơ trên, đáng chú ý nhất là câu thứ nhất và câu thứ tư.

    Câu thứ nhất, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim đã chú giải rõ ràng là lấy ở câu “Bách niên cảnh nhi ngã do vi nhân”, có nghĩa là “trong một cõi trăm năm mà ta vẫn là người”, tức là “trong cuộc đời người” (Sách đã dẫn, trang 55). Như vậy thì trong câu thơ “Trăm năm trong cõi người ta”, tác giả đảo trí từ kết trăm năm. Đặt lại theo thứ tự thông thường thì câu thơ ấy đổi ra: “Trong cõi trăm năm (của) người ta”, nghĩa là “trong đời người” hay gọn hơn nữa là “ở đời”.

    Từ kết trăm năm đặt lên đầu câu, không phải là chủ đề để nhấn mạnh vào ý ấy [4] , mà chỉ vì luật bằng trắc trong phép làm thơ lục bát. Theo thi luật này thì trong câu lục tiếng thứ ta bấy giờ cũng là tiếng trắc, tiếng thứ nhì phần nhiều là tiếng bằng [5] . Vì thế mà viết “Trong cõi trăm năm người ta” tiếng thứ tư là bằng, tiếng thứ nhì là trắc, như vậy là sai luật. Vả lại, đọc lên, cũng thấy nhạc điệu không bằng “Trăm năm trong cõi người ta”. Tóm lại, tác giả phải đặt trăm năm lên đầu câu trước trong cõi, chỉ vì âm luật, chứ không phải có ý nhấn mạnh vào ý “trăm năm”.

    Nay ta đọc những bản dịch ra Pháp văn, đều thấy dịch giả đặt ý “trăm năm” lên đầu câu, dường như có ý nhấn mạnh:

    Nguyễn Văn Vĩnh [6] : “Cent années, dans cette limite de notre vie humaine”.

    Réne Crayssac [7] : “Cent ans – le maximum d’une humaine existence!”.

    M. R. [8] : “Cent ans, à peine, bornent notre eistance”.

    Xuân Phúc và Xuân Việt [9] : “En cent ans, dans ces limites de l’humaine carrière”.

    Câu thơ “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” rất nhiều người hiểu là “những điều trông thấy làm ta đau đớn lòng”, kể cả những dịch giả trên kia, nên đã dịch ra:

    Nguyễn Văn Vĩnh: “Les choses que j’ai vues m’ont fait souffrir (ont endolori mon coeur)”.

    Réne Crayssac: “Ce que l’observateur peut bien voir ne saurait qu’endolorir son coeur”.

    M.R.: “Que de spectacles à briser mon coeur”.

    Xuân Phúc và Xuân Việt: “Que de spectacles à frapper douloureusement le coeur!”.

    Hiểu và dịch như trên thì từ kết những điều trông thấy là chủ từ của trạng từ đau đớn, trạng từ này là trạng từ trỏ tác động (verbe d’action), chứ không còn là trạng từ trỏ trạng thái tĩnh (verbe d’état) nữa, và phải coi là trong câu thơ lược có tiếng làm [10] .

    Giá trong câu thơ không có tiếng mà thì ta có thể hiểu như trên được. Chính vì có tiếng mà, nên ta phải hiểu khác đi, nghĩa là không thể coi như lược tiếng làm, vì Việt ngữ không nói: “Những điều trông thấy mà làm đau đớn lòng”.

    Theo chúng tôi, căn cứ vào cách dùng tiếng mà trong Việt ngữ [11] , ta có thể hiểu câu thơ theo hai lối sau:
    Hoặc “Vì những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
    Hoặc “Trông thấy những điều xảy ra mà đau đớn lòng”.
    Tiếng mà là trợ từ có công dụng phân cách hai ý có quan hệ nhân quả, bất luận là quan hệ về ý tứ hay quan hệ về cú pháp [12] , khi nào ý nguyên nhân đặt trước ý kết quả. Trong câu thơ “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, ý “những điều trông thấy” là nguyên nhân, ý “đau đớn lòng” là kết quả.

    Hiểu theo lối thứ nhất (a), thì trong câu thơ lược tiếng vì (vì… mà): hai ý nhân quả có quan hệ chính thuộc về cú pháp, và tiếng vì là quan hệ từ nguyên nhân.

    Hiểu theo lối thứ hai (b), thì hai ý nhân quả chỉ có quan hệ về ý tứ. Về phương diện cú pháp, hai ý “những điều trông thấy” và “đau đớn lòng”, không ý nào phụ thuộc ý nào; hai ý đẳng lập với nhau. Hiểu theo lối thứ nhất, chỉ lược có tiếng vì; nhưng hiểu theo lối thứ nhì, thì không những đảo trí từ kết những điều, mà còn lược ý “xảy ra”. Tại sao lại phải coi là có lược ý “xảy ra”? Theo ngữ pháp Việt Nam, tiếng những dùng làm lượng từ trỏ phức số (pluriel), chỉ đi với thể từ [13] có thêm bổ từ, chứ không thể đi với thể từ không có bổ từ [14] . Vì thế mà nói “những điều trông thấy” thì được (trông thấy là bổ từ của điều); nhưng không thể nói “trông thấy những điều”, (điều không có bổ từ), mà phải nói “trông thấy những điều xảy ra”, “trông thấy những điều ấy”, “trông thấy những điều vui”, “trông thấy những điều buồn” v.v… (xảy ra hay ấy, hay vui, buồn đều dùng làm bổ từ cho điều).

    Tuy rằng có thể nói “những điều trông thấy”, mà theo lối (a) phải thêm tiếng vì, là tại “vì những điều trông thấy mà ta đau đớn lòng” là một câu đơn “phrase simple”; trong câu đơn ấy tổ hợp những điều trông thấy là từ kết dùng làm bổ từ nguyên nhân. Và bắt buộc phải có quan hệ từ nguyên nhân vì. Còn theo lối (b), không có quan hệ từ nguyên nhân, câu “(Ta) trông thấy những điều (xảy ra) // mà (ta) đau đớn lòng” là câu phức (phrase composée) có hai cú đẳng lập (proposition indépendantens) về cú pháp, mặc dầu về ý tứ hai cú [15] có quan hệ nhân quả.

    Trong sáu câu thơ đầu Truyện Kiều ta đã kể trên, câu thơ thứ hai “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” không có gì phải chú ý. Câu thơ thứ ba “Trải qua một cuộc bể dâu” là một cú lược chủ từ, nhưng phép lược này rất phổ thông trong lời nói thông thường [16] . Trong câu thứ tư, “đau đớn lòng” cũng lược ý chủ từ.

    Câu thơ thứ sáu “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” có đảo trí từ kết má hồng: “Trời xanh quen thói đánh ghen (với) má hồng”.

    Câu thơ thứ năm “Lạ gì bỉ sắc tư phong” là một cú lược chủ từ, nhưng đáng chú ý hơn là tứ kết lạ gì diễn tả ý phủ định mà không dùng phó từ phủ định: lạ gì = không lạ gì.

    Lối nói, diễn tả ý phủ định mà không dùng tiếng phủ định, là do một tư thức (figure de pensée), môn tu từ học gọi là hư vấn (interrogation apparente), mà ra. Hư vấn là phép nói, đặt ra câu hỏi, mà thực ra không phải là để đợi trả lời. Tỉ dụ, ca dao có câu “Trong đầm gì đẹp bằng sen?”, hình thức là câu hỏi đấy, mà thực ra diễn tả bằng hư vấn mạnh hơn lối diễn tả thường, có dùng tiếng phủ định. Do đấy mà câu phủ định hàm thêm ý bất định (trong câu có cùng tiếng bất định như ai, gì, chi, nào, đâu, sao, bao…) hay ý bất khả năng, rất hay lược tiếng phủ định [17] . Phép hư vấn hay dùng nhiều trong Truyện Kiều, ta hãy dẫn ra vài tỉ dụ:

    Một dây một buộc, ai giằng cho ra. 1288 [18]
    (ai = không ai)

    Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình. 1542
    (tốt chi = không tốt chi)

    Mặt nào trông thấy nhau đây. 2531
    (mặt nào = không còn mặt nào)

    Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. 1783
    (biết đâu = không biết đâu)

    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. 750
    (kể làm sao xiết = không kể làm sao xiết)

    Biết bao công mướn của thuê. 2827
    (biết bao = không biết bao)

    Dẫu thay mái tóc, dám dời lòng tơ. 552
    (dám = không dám)

    *

    Dùng phép đảo ngữ, Nguyễn Du rất hay đặt thuật từ trước chủ từ [19] . Dưới đây là một số tỉ dụ trích ở mấy trang đầu trong Truyện Kiều:

    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. 42
    Gần xa nô nức yến anh. 45
    Dập dìu tài tử giai nhân. 47
    Sè sè nấm đất bên đường. 57
    Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. 58
    Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh. 64
    Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. 66
    Say chân theo một vài thằng con con. 138
    Ngổn ngang trăm mối bên lòng. 183
    Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng. 239
    Vắng nhà, được buổi hôm nay. 387

    Câu đầu, đặt theo dùng vị trí từ tiếng, đổi ra: “Một vài bông hoa điểm trắng cành lê…”. Câu cuối thông thường nói: “Được buổi hôm nay nhà vắng”.

    Trong câu thơ dưới đây:

    Mai cốt cách, tuyết tinh thần. 17

    Không những đảo trí thuật từ, mà còn lược trạng từ là tiếng chính trong thuật từ. Ta hiểu câu thơ trên là “Cốt cách như mai, tinh thần như tuyết”, cũng như Nguyễn Du đã viết trong một câu thơ khác:

    Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. 638

    Nói đến lược ý trạng từ chính trong thuật từ, chúng tôi muốn dẫn thêm hai tỉ dụ:

    Ngày xuân con én đưa thoi. 39
    Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. 72

    Câu trên, ta hiểu là “Ngày xuân đi nhanh như con én đưa thoi”, và câu dưới là “Dấu chân xe ngựa có có (hay: đã phủ) rêu lờ mờ xanh” [20] . Có chỗ, tác giả Truyện Kiều đã lược ý trạng từ chính trong thuật từ, còn lược ý cả chủ từ, như:

    Làn thu thủy, nét xuân sơn. 25

    ta hiểu là “Mắt như làn thu thủy, lông mày như nét xuân sơn” (dịch Nhỡ như thu thủy, mi tự xuân sơn) [21] . Nguyễn Du dùng rất nhiều điển cố, dịch rất nhiều thành ngữ của Trung Hoa, cho nên không căn cứ vào xuất xứ, rất khó phân tích một số lớn câu thơ trong Truyện Kiều. Một tỉ dụ nữa là câu:

    Một hai nghiêng nước nghiêng thành. 27

    Dịch đại ý câu Hán văn “Nhất cố khuynh nhân thành, tài cố khuynh nhân quốc” [22] .

    *

    Hiện nay, tại các trường, lấy Truyện Kiều làm đề tài giảng văn, giáo sư chỉ giảng về điển cố, về từ ngữ, giảng bút pháp của tác giả, cùng là triết lý trong truyện. Nêu giảng thêm về cú pháp, cho học sinh và sinh viên hiểu được chính xác hơn, không những sẽ gây được hứng thú trong lớp, mà học sinh và sinh viên sẽ biết thêm cái tế nhị của tiếng Việt [23] .

    Đầu bài này, chúng tôi đã viết rằng chưa có cuốn sách nào chú thích Truyện Kiều về cú pháp. Thực ra, một công trình như vậy, không phải là việc của một hai người có thể làm nổi, mà cần có một tập thể chừng mươi người cùng nhau hội họp luôn luôn để trao đổi ý kiến thì mới mong có kết quả được.

    Dù làm tập thể, công việc cũng rất khó khăn, vì trong truyện có nhiều câu ngay về đại ý ta cũng chỉ hiểu lờ mờ thôi. Không hiểu được đích xác, không phải chỉ vì có nhiều tiếng đảo trí, có nhiều ý bị lược, như chúng tôi đã nói ở trên, mà chính vì có nhiều từ ngữ thông dụng về thời Nguyễn Du mà hiện nay không còn dùng nữa, nên ta chỉ có thể đoán được nghĩa mà thôi.

    Lại còn nhiều tiếng hiện còn thông dụng, mà Nguyễn Du dùng theo nghĩa khác hẳn nghĩa ta hiểu ngày nay. Dưới đây, chúng tôi dẫn hai tỉ dụ, một về tiếng sao; một về tiếng nhau.

    Khi nàng Kiều đắc thế, báo ân trả oán, ra lệnh:

    Thề sao thì lại cứ sao gia hình. 2388

    Sao có nghĩa là “thế nào”, cũng như vậy có nghĩa là “thế ấy”. Sao và vậy là hai tiếng hô ứng, và ngày nay thì ta nói: “Thề sao thì cứ vậy mà gia hình”. Chẳng lẽ về thời Nguyễn Du tiếng sao có nghĩa là “vậy”?

    Tỉ dụ thứ hai là tiếng nhau. Hiện nay, ta hiểu tiếng nhau hàm ý giao hỗ, hay là trỏ nhiều người, nhiều vật cùng làm một việc, cùng có một tính chất, như “Chúng nó đánh nhau”, – “Hai cái xe đụng nhau”, – “Hai người đẹp như nhau”, – “Hai cái nhà cao bằng nhau”. Ngoài nghĩa trên, nhau còn dùng để trỏ chính người nói, tỉ dụ:

    Nào thầy, nào bạn đi đâu tá,
    Bỏ chết nhau đây, chẳng giúp cùng.
    (Khuyết danh)

    Cái khó theo nhau mãi thế thôi,
    Có ai hay chỉ một mình tôi.
    (Từ Diễn Đồng)

    Nó bỏ nhau đi lúc vắng nhà. (Nguyễn Thiện Kế)

    Trong Truyện Kiều, ta cũng thấy dùng tiếng nhau theo nghĩa vừa dẫn trên. Như khi Kiều tiễn chân Thúc Sinh về quê, nói:

    Thương nhau, xin nhớ lời nhau. 1515

    thì cả hai tiếng nhau đều trỏ Kiều. Kiều bảo Thúc Sinh: “Chàng thương tôi, xin nhớ lời tôi”, và lời nhau là lời Kiều căn dặn Thúc Sinh về nhà nên “nói sòng cho mình” với Hoạn Thư. Lại như khi Đạm Tiên lần thứ nhất báo mộng cho Kiều, nói:

    Hàn gia ở mái tây thiên, 195-198
    Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.
    Mấy lòng hạ cố đến nhau,
    Mấy lời từ ném chấu gieo vàng.

    thì tiếng nhau cũng trỏ có một mình Đạm Tiên.

    Nhưng, trong Truyện Kiều, có chỗ Nguyễn Du dùng tiếng nhau, không khỏi làm cho ta bỡ ngỡ; như khi Giác Duyên thuật lại việc cứu nàng Kiều, có đoạn:

    Khi nàng gieo ngọc trầm châu, 2987-2989
    Đón nhau, tôi đã gặp nhau, rước về;
    Cùng nhau nương cửa Bồ Đề…

    Tiếng nhau thứ ba trỏ cả Giác Duyên lẫn Kiều (hai người cùng nhau nương cửa Bồ Đề), đúng như nghĩa thứ nhất ở trên (hai người cùng làm việc gì). Nhưng hai tiếng nhau trên (đón nhau, gặp nhau), không trỏ Giác Duyên và Kiều, cũng không trỏ một mình Giác Duyên và Thuý Kiều, cũng không trỏ một mình Giác Duyên là người thuật chuyện (theo nghĩa thứ hai), mà trỏ một mình nàng Kiều là đệ tam nhân. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm thấy cách dùng tiếng nhau như vậy trong sách khác.

    Công việc dù khó khăn, mà người yêu Truyện Kiều, nói chung là yêu tiếng Việt, không phải là hiếm. Cho nên chúng tôi vẫn dám mong, chẳng sớm thì muộn, thế nào cũng có nhiều nhà thiện chí đứng ra làm công việc chúng tôi rất mong đợi.

    [1]Bài này đã dịch ra Pháp văn, đăng trong đặc san số 59, 1966, của Trường Bác cổ Viễn đông (École Française d’Extrême Orient), xuất bản để kỷ niệm đệ nhị bách chu niên ngày sinh nhật tác giả Truyện Kiều. Nay chúng tôi sửa lại và thêm một vài đoạn cống hiến độc giả Văn.
    [2]Tỉ dụ trong hai câu thơ này:
    Chén hà sánh giọng quỳnh tương
    Dải là hương lộn, bình gương bóng lồng.
    Những ngữ: chén hà, dải là, bình gương, dịch ở hà bôi, la đái, kinh bình (x. Truyện Thuý Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo và chú thích, Tân Việt, Sài Gòn, in lần thứ tư, tr. 82).
    [3]Cú pháp, xin hiểu theo nghĩa là phép xếp đặt tiếng lẻ để cấu tạo thành câu nói, tương đương với tiếng Pháp syntaxe.
    [4]Về quan niệm “chủ đề”, xem Trương Văn Chính và Nguyễn Hiến Lê, Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Đại học Huế, 1963, từ tr. 529 (ở dưới sẽ viết tắt là KLVNPVN). Chúng tôi xin dẫn một tỉ dụ. Nói “Tôi gửi thư rồi”, đó là câu nói thường, không có chủ đề. Nhưng, nói “Thư, tôi gửi rồi”, thì tiếng thư giữ chức vụ chủ đề trong câu, trước chủ từ là tôi.
    Đọc cả câu: “Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, thì thấy không có lý gì để nhấn mạnh vào ý “trăm năm”.
    Từ kết = groupe de mots, KLNPVN, tr. 190.
    [5]Trần Trọng Kim, Việt Nam văn phạm, in lần thứ 7, Tân Việt, Sài Gòn, tr. 164.
    [6]Nguyễn Văn Vĩnh, Traduction en français avec notes et commentaires du Kiều de Nguyễn Du (Grand poème populaire Vietnamien), Vĩnh Bảo – Hoành Sơn, Sài Gòn, 1951.
    [7]Réné Crayssac, Kim Vân Kiều, le célèbre poème annamite de Nguyễn Du, traduit en vers Français, Lê Văn Tân, Hà Nội, 1926.
    [8]M. R., Kim Vân Kiều, nouvelle traduction Française, Ed. Alexandre de Rhodes, Hà Nội, 1944.
    [9]Xuân Phúc et Xuân Việt, Kim Vân Kiều traduit du Vietnamien, Connaissance de l’Orient, Collection UNESCO d’oeuvres représentatives, Galimard, Paris, 1961.
    [10]Trạng từ: x. KLNPVN từ trang 156. Tiếng làm dùng để đổi trạng từ tĩnh thành trạng từ tác động, x. KLNPVN, trang 415, 421.
    [11]KLNPVN, từ trang 608.
    [12]Quan hệ về ý tứ và quan hệ về cú pháp: KLNPVN, tr. 484.
    [13]Thể từ (substantif), các sác ngữ pháp cũ gọi là danh từ: KLNPVN, từ tr. 153.
    [14]KLNPVN, tr. 348.
    [15]Xem KLNPVN, tr. 479 vì sao chúng tôi dùng cú mà không dùng mệnh đề để dịch tiếng proposition.
    [16]KLNPVN, từ tr. 509.
    [17]Cũng xem: Nguyễn Hiến Lê và Trương Văn Chình, Tiếng đâu trong Truyện Kiều, số đặc biệt Văn, kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du, số 43, 1-10-1965. – Bài này cũng đã dịch ra Pháp văn, và đăng trong đặc san dẫn trên của Trường Bác cổ Viễn đông (xem lời chú 1).
    [18]Số thứ tự trong các câu thơ theo Truyện Thuý Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim.
    [19]Chủ từ và thuật từ: KLNPVN từ tr. 495. – Chủ từ và thuật từ thường là từ kết gồm tiếng chính và các gia từ; như trong câu “Các bọn thượng lưu xứ Ai Cập đời bấy giờ / lãng phí sinh mệnh kẻ lao động một cách rất dữ quá” (Phạm Quỳnh), từ kết các bọn…bấy giờ là chủ từ, và từ kết lãng phí… dữ quá là thuật từ.
    [20]Chúng tôi thảo luận với nhiều bạn, có người muốn hiểu câu thơ “Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh”, là “Ở trên dấu xe ngựa rêu đã lờ mờ xanh”, tức là coi có đảo trí tiếng đã. Chúng tôi không đồng ý, nhưng cũng viết ra đây để rộng đường dư luận.
    [21]Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, trang 56.
    [22]Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, trang 57
    [23]Chúng tôi đã thử giảng như vậy trong một buổi học thì thấy kết quả mỹ mãn.

    Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ tứ tam cá nguyệt 1967, tập 3. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Điện thoại: 23.595. Giá 30 đồng. Bản điện tử do talawas thực hiện.

    https://123hoang.wordpress.com/

    Không có nhận xét nào