Trải qua hàng ngàn năm, làng Sher,
một cái làng nhỏ tí ở Tây Tạng, vẫn bám lấy cái sống dù ở một vị thế
sinh tồn khắc nghiệt, một thềm đất hẹp nằm chênh vênh trên một sườn núi
dựng đứng. Ở vị thế khô cằn này của cao nguyên Tây Tạng, lượng nước mưa
hàng năm chỉ được khoảng dưới 10cm.
Nhưng
từng giọt nước đều được thu giữ trong một hệ thống tưới tiêu có từ thời
thượng cổ. Nhiệt độ trung bình hàng năm luôn gần ở mức đóng băng (Zero
độ Celsius) còn từ tháng Chạp đến tháng Hai thì hàn thử biểu bao giờ
cũng lơ lửng trong khoảng – 6 đến 10 °C.
Loài cừu ở đây có bộ
lông cực dầy, giữ ấm rất tốt; lông cừu được quay và dệt thành áo quần và
chăn đắp giúp dân làng chịu cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông vì họ
không có gì khác hơn ngoài chút hơi ấm của bếp lò. Nhà tranh vách đất cứ
mười năm thì phải lợp lại, và những cây liễu trồng dọc theo bờ kinh
được dùng vào việc này.
Khi một cành bị cắt đi để làm mái, một
nhánh khác sẽ được ghép vào. Cây liễu có thể sống tới bốn trăm năm, và
khi cây chết thì người ta sẽ trồng một cây mới. Chất thải được tái chế
thành phân bón để trồng cỏ, rau và lúa mạch – nguồn thực phẩm chính ở
nơi đây, gọi là tsampa – và những loại rau có củ dành cho mùa đông.
Trải
qua nhiều thế kỷ dân số của làng Sher vẫn giữ nguyên, chừng ba trăm
nhân khẩu. Ông Jonathan Rose, một người làm nghề xây cất và cũng là
người sáng lập ra phong trào nhà xanh và hợp túi tiền, đã học hỏi được
nhiều điều qua cách sinh tồn khôn ngoan mà dân làng Sher đã tìm ra trong
cái hốc nhỏ bất an của họ. Rose nói: Một ngôi làng có thể sống hàng
ngàn năm trong một hệ thống sinh thái như thế thì đúng là bền vững thật
sự.”
Đoạn văn dẫn thượng được chuyển ngữ bởi dịch giả
Nguyên Trường, và được trích dẫn từ tác phẩm Ecological
Intelligence của Daniel Goleman (Broadway Business xuất bản năm
2009). Ngôi làng nhỏ được nhắc đến trong cuốn sách này khiến
tôi lên tưởng đến con sông Bàn Thạch, ở Tam Kỳ.
Tôi chưa bao
giờ có cái may mắn được bước chân ra đến miền Trung của đất
nước mình nên chỉ biết con sông nhỏ bé, và thơ mộng này, qua
ngòi bút của tác giả Huỳnh Thục Vy:
“Sông Bàn Thạch là
một con sông rất đẹp. Sông chia làm hai nhánh, giữa hai nhánh sông là
một cồn đá, chiều dài hơn 1km, khoảng giữa rộng nhất khoảng 200m, hai
đầu hẹp dần. Người ta gọi cồn này là: ‘Cồn Thị’ vì ở đó có những cây thị
rất lớn, cao 20m, vòng gốc 10 người ôm.
Theo lời ba tôi kể lại,
cồn thị là một cồn đá, hai đầu cồn đá này là hai bãi sình, ở đó là một
rừng cây ‘rán’, một loại dương xỉ lớn. Trong rừng dương xỉ có rất nhiều
chim, chim Áo đà (vì nó có bộ lông màu đà giống áo nhà sư – mõ trắng rất
đẹp) chim vành khuyên, chim mía, và rất nhiều cò, những con cò đậu vắt
vẻo trên lùm cây bần, cây đước, chúng sống và làm tổ ở đó.
Những
buổi chiều, khi đèn đường bật lên, những con cò về đậu đầy trên những
lùm cây đó. Tiếng kêu trầm đục buồn buồn. Sông Bàn Thạch sâu và thơ mộng
lắm. Dưới sông đầy cá, cá bơi lội tung tăng đùa giỡn trong làng nước
trong xanh. Cá nhiều đến nỗi từ trên cầu nhìn xuống chân cầu, cá tập
trung thành từng bầy nhung nhúc, cá Hồng, cá Hanh, cá Tràng, cá Nâu, cá
Dìa, cá Gáy, cá Thác lác, cá Căn…
Nhưng đó là ký ức của ba tôi.
Giờ đây trước mặt tôi là một dòng sông chết, nước sông đen ngòm, hôi
thối và đặc quánh. Dòng sông cạn vì rác mà người dân chung quanh đó đổ
xuống, rác nhiều đến nỗi làm nghẽn cả dòng, còn đôi bờ thì dần thu hẹp
lại.
Trên dòng sông đó lềnh bềnh những xác chết súc vật, ngập
ngụa phân người trong những túi nilon, đủ thứ rác. Từ giường chiếu, mùng
mền cũ, bao ximăng, bao đựng gạo, vỏ trái cây, rau sống, áo quần cũ và
cả băng vệ sinh phụ nữ ‘siêu mỏng.’ Mặt nước sông phủ một lớp rêu xanh,
dập dềnh xác súc vật trong làn nước đặc quánh dầu mỡ người ta xả ra từ
những chiếc ghe cá và từ khắp nơi gần đó. Bây giờ cá đã chết, chim đã
bay xa. Cồn Thị bây giờ không còn cây Thị nào, người ta đã đốn đi rồi.”
Dân
làng Sher đã trải qua hàng ngàn năm trong một môi trường sống
hết sức khó khăn. Họ canh tác trên những thềm đất cheo leo bên
sườn núi dựng, với lượng nước mưa rất hạn chế, và trong điều
kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt.
Tuy thế, họ có rất
nhiều hy vọng sẽ có thể tiếp tục sinh tồn hàng ngàn năm nữa
vì vẫn giữ nếp sinh hoạt theo những thói quen “chịu thương
chịu khó” của truyền thống cũ: chắt chiu từng giọt nước mưa,
trân trọng tháp từng cành liễu, và không bỏ phí bất cứ thứ
gì – kể cả phân người.
Chỉ có vài ba trăm nhân khẩu,
sống chênh vênh trên một sườn núi dựng giữa rặng Hy Mã Lạp Sơn,
dân làng Sher khó có cơ may được cắp sách đến trường. Tỷ số
thông minh (IQ) của họ, vì vậy, e khó được cao nhưng EQ
(ecological quotient) của những con người rất mẫn tuệ về khía
cạnh thông minh sinh thái (ecological intelligence) này chắc chắn
là không thể thấp.
Dân ở Bàn Thạch Thôn (Quảng Nam) thì
ở vào một hoàn cảnh và môi trường khác hẳn. Họ được thiên
nhiên ưu đãi hơn nhiều. Việt Nam không có những mùa Đông băng
tuyết. Vũ độ ở xứ sở này lại được tính (hào phóng) theo đơn
vị mètre, nghĩa là cả trăm inche. Riêng Bàn Thạch Thôn vừa gần
biển lại gần sông, một dòng sông vốn “nhung nhúc cá.”
IQ
của người dân ở vùng đất Ngũ Phụng Tề Phi, tất nhiên, cao ngất
nhưng EQ của họ thì e hơi dưới trung bình. Cứ nhìn “xác chết súc
vật, phân người, mùng mền chiếu gối, vỏ trái cây, rau sống, áo quần
cũ, băng vệ sinh phụ nữ... lềnh bềnh... trong làn nước đặc quánh dầu mỡ”
trên sông Bàn Thạch là đoán được thôi.
FB Huỳnh Ngọc Chênh mới vừa cất tiếng kêu Trời: “Sông Cổ Cò đã thành dĩ vãng rồi.”
Ôi,
nào có riêng chi Cổ Cò và Bàn Thạch ở Quảng Nam. Khắp đất
nước mình có con sông nào mà không đang ngắc ngoải:
Đồng Tháp: Tình trạng san lấp đất nông nghiệp diễn ra phức tạp
Thái Bình: Nước thải công nghiệp bức tử sông Đoan Túc
Thanh Hóa: Những dòng sông đang bị bức tử
Bạc Liêu: Nhiều tuyến sông bị lấn chiếm
Hà Nam: Ô nhiễm trầm trọng khiến cá chết nổi trắng sông
Nhà
báo Tạ Phong Tần cũng có bài tường thuật (“Việt Nam: Tất Cả
Đều Đổ Ra Sông”) với rất nhiều dữ kiện rất đáng quan ngại:
“Hiện nay, nhiều con sông ở Hà Nội đã bị biến thành sông rác. Rất nhiều
loại phế thải từ dịp tết, từ những cành đào, quất chưng xong sau tết bỏ
đi đến lá gói bánh chưng, vỏ hộp mứt kẹo, chiếu rách, bàn thờ cũ... được
tập trung vứt xuống sông.”
Tất cả đều “tuồn” ra sông, rõ
ràng, không phải là một cung cách sống. Đó là một kiểu tự
sát tuy không chết ngay nhưng chắc chết, chết chắc, và chết
hết. Không dân tộc nào có thể sống mãi bên những dòng sông
chết chậm, và trong tay của bọn thực dân nội địa – những kẻ sẵn
sàng tháo cạn nước của một dòng sông hay đốt cháy nguyên một khu rừng,
chỉ vì cần thêm vài con cá nướng trui (để nhậu chơi) trước bữa
cơm chiều.
Tưởng Năng Tiến
Không có nhận xét nào