Header Ads

  • Breaking News

    Nguyễn Ngọc Chính - “Công tử Hà Đông”... bên hông Hà Nội!

    Cây bút Hoàng Hải Thủy và Sài Gòn Vang Bóng

                                       Hoàng Hải Thủy tại Pleiku năm 1971                 Phân ưu

    Miền Nam có câu “Hồng Kông… bên hông Chợ Lớn” nên có lẽ miền Bắc cũng tương tự… “Hà Đông… bên hông Hà Nội”. Người có biệt danh “Công Tử Hà Đông” mà người hâm mộ dí dỏm thêm vào “bên hông Hà Nội” đã vĩnh viễn ra đi. Nhưng tại sao lại lấy tên “Công Tử Hà Đông” mà không là “Công Tử Hà Nội’? Ông giải thích:

    “Tôi ra đời, lớn lên ở thị xã Hà Đông. Hà Đông cách Hồ Gươm Hà Nội 11 cây số, có xe điện qua lại ngày 4, 5 lượt. Vì quá gần Hà Nội nên Hà Đông không có gì đặc biệt cả. Ăn cao lâu, đi xem xi-nê, đi xem bói, mua thực phẩm Tết, quần áo, giày mũ, người Hà Đông đều ra Hà Nội. Thanh niên Hà Đông ăn diện không khác thanh niên Hà Nội nhưng vẫn là thanh niên Hà Đông. Không ai dám tự nhận trên báo mình là Công Tử Hà Nội, nhưng nhận mình là Công Tử Hà Đông thì được. Vì Công Tử Hà Đông là một thứ công tử tỉnh lẻ, không giống ai, không được ai trọng.”

    Ông rời Hà Nội năm 1951, trước đợt di cư của đồng bào miền Bắc vào Nam năm 1954. Sài Gòn là vùng đất để ông có cơ hội “Nổ Như Tạc Đạn” là phóng tác đầu tay của ông năm 1956, lấy bối cảnh Sài Gòn, chứ không phải là bên Tây như trong nguyên tác “Après moi, le déluge”. 

    Kể từ đó, ông có một chuỗi tiểu thuyết nổi đình nổi đám. Và cũng tại đây, ông mới thực sự là... “Công tử Sài Gòn”. Ông kể:

    “Trong trí nhớ của tôi nay vẫn còn nguyên hình ảnh chàng phóng viên lãng tử của nhật báo Sàigònmới năm xưa – năm 1960 – chàng phóng viên ăn dziện đúng mode Italie: sơ-mi hai túi ngực, hai cây bút Bi Parker cắm ở túi áo, một bút mực đen, một bút mực đỏ, đồng hồ tay Internamatic mua ở Bangkok, quần sanspli, giầy mocassin Trinh’s Shoes Tự Do 500 đồng một đôi, trong túi áo ngực có bao thuốc điếu Lucky Strike, hay bao Philip Morris Vàng, quẹt máy Dupont Trắng dắt ở túi đựng bật lửa nơi lưng quần. Chàng phóng viên mới ba mươi tuổi mà tóc đã “không bạc, tóc chàng là tóc argenté.”

    Độc giả cũng thích “Sài Gòn Vang Bóng” của ông vì ông viết về những nhận vật nổi tiếng ở Sài Gòn mà lại còn có những nhật xét riêng về họ .

    Từ Dân biểu Hạ viện Kiều Mộng Thu được mang biệt danh “Kiều Lá Đổ”, bà Nghị viên Đô thành mang tên Trần Kim Thoa được biết đến qua tên “Bà Nghị Nín Tè”… đến bà Bút Trà, chủ báo Sài Gòn Mới, bị báo chí châm chọc qua bút danh… “Bút Tè” chỉ vì tờ báo của bà được xếp vào loại “lá cải”! 

    Sự nghiệp văn chương của ông rất đa dạng. Từ “Vũ Nữ Sài Gòn” đến nàng “Kiều Giang”, ông đưa người đọc từ trong nước ra đến thế giới bên ngoài qua một lối văn mà người ta gọi là “phóng tác”. Văn ông viết dựa theo cốt truyện nước ngoài nhưng lại rất gần gũi với người đọc.

    “Kiều Giang” kỳ thực là nàng Jane Eyre của Charlotte Bronte. Ông dùng tên Kiều Giang, đứa con gái cưng của ông, khi đó mới vừa 6 tuổi, để đặt tên sách! “Đỉnh Gió Hú” lại có xuất xứ từ một địa danh ở một đất nước xa xôi mang tên “Wuthering Hills”. Chuyện “Điệp Viên 007” hay “Thầy Nô” (Dr No) là những nhân vật gián điệp nổi tiếng thế giới được đưa vào khung cảnh hoàn toàn Việt Nam, từ lời ăn tiếng nói đến cách hành xử.

    Có một mảng văn chương mà ít người để ý đến là tài làm thơ của ông sau năm 1975, lúc hãy còn ở lại Sài Gòn. Khi đó, dân miền Nam đang trong thời “điêu linh” nên ông làm thơ về những món quà gửi từ nước ngoài về cứu trợ:

    “Chẳng phải đồ lô, vẫn của nhà

    Ðồ zin em gửi tận Uy-Dza

    Vải hoa, soie Pháp, vui lòng mẹ

    Hộp quẹt, quần jeans, mát dạ cha

    Camay, Colgate mồm thơm lại

    Maalox,  Lyneo mắt sáng ra

    Còn non, còn nước, còn đồ ngoại

    Còn đồ em thơm cứ như hoa ..”

    Nhưng thực tế là “đồ Mỹ” đa số đều chạy ra “chợ trời” để người bán đổi lấy tiềng đong gạo sống qua ngày. Thế cho nên:

    “Chợ bầy những đọa cùng đầy

    Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa

    Bán đồ toàn những người ta

    Mua đồ thì rặt những Ma cùng Mường

    Chợ Trời hay Chợ Đoạn Trường

    Đầu âm phủ, cuối thiên đường là đây!”

    Người ông thương yêu nhất đời là bà vợ ông, Alice Đỗ Thị Thủy. Ông tâm sự, trong một đêm “nằm phơi rốn” (sic) giữa “Lầu Bát Giác” của Khám lớn Chí Hoà, ông làm bài thơ “Anh chỉ sống để chờ em đến” gửi về cho vợ:

    “Như Trái Đất chỉ quay để chờ nắng lên

    Anh chỉ sống để chờ Em đến.

    Giòng Thời Gian muôn kiếp lênh đênh

    Ta muôn kiếp vẫn yêu, vẫn mến…”

    Và ông cũng tự tìm ra lời giải đáp cho những hiện tượng nheo nhóc xảy ra bên ngoài bức tường lao lý:

    “Sáu năm dài dập dồn dâu bể

    Đời sống ta cơ cực Thành Hồ

    Anh lặng biết sao em buồn thế

    Sao em gầy sao tóc em khô!”

    ***

    Đọc đến đây chắc các bạn có thể đoán được “Ông” là ai!

    Người đó chính là Hoàng Hải Thủy, nhà văn nổi tiếng vừa từ trần ngày 6/12/2020 tại Rừng Phong, Virginia, Hoa Kỳ. Ông qua đời tại “Xứ của tình nhân” (Virginia is for Lovers) với rừng cây phong thơ mộng, hưởng thọ 87 tuổi. 

    ***

    * Các bạn có thể tham khảo thêm bài viết “Văn & Thơ Hoàng Hải Thủy” tại  https://www.blogger.com/.../524766369.../8154820475342108006. 

    ***

     

    Hoàng Hải Thủy và người bạn đời, Alice 

     ***

    Thứ Tư, 27 tháng 11, 2019

    Cây bút Hoàng Hải Thủy và Sài Gòn Vang Bóng

    Nhà văn Hoàng Hải Thủy tên thật là Dương Trọng Hải, sinh năm 1933 tại Hà Đông. Cũng vì thế ông còn lấy tên Công tử Hà Đông, bút hiệu xuất hiện trên trang Web “Hoàng Hải Thủy a.k.a. Công tử Hà Đông” 

    (https://hoanghaithuy.wordpress.com/).

    Trang Web này có khoảng hơn 300 bài viết từ Hoa Kỳ.

    Tại sao ông lại chọn “Công tử Hà Đông” chứ không phải là công tử ở các địa danh khác như “Hà Thành” hay “Sè Gòn” chẳng hạn? Ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn năm 2011:

    “Tôi ra đời, lớn lên ở thị xã Hà Đông. Hà Đông cách Hồ Gươm Hà Nội 11 cây số, có xe điện qua lại ngày 4, 5 lượt. Vì quá gần Hà Nội nên Hà Đông không có gì đặc biệt cả. Ăn cao lâu, đi xem xi-nê, đi xem bói, mua thực phẩm Tết, quần áo, giày mũ, người Hà Đông đều ra Hà Nội. Thanh niên Hà Đông ăn diện không khác thanh niên Hà Nội nhưng vẫn là thanh niên Hà Đông. Không ai dám tự nhận trên báo mình là Công Tử Hà Nội, nhưng nhận mình là Công Tử Hà Đông thì được. Vì Công Tử Hà Đông là một thứ công tử tỉnh lẻ, không giống ai, không được ai trọng.”Nhà văn Hoàng Hải Thủy ngày nay đã ngoà

    Hầu hết những gì người đọc muốn tìm hiểu về nhà văn “lưu vong” này đều được “Viết ở Rừng Phong”, một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Theo cách gọi của Hoàng Hải Thủy, đây là “Xứ của tình nhân” (Virginia is for Lovers) với rừng cây phong thật thơ mộng.

    Hoàng Hải Thủy tâm sự với người đọc về cuộc đới viết lách của minh ngày xưa:

    “Thưở ấy, những năm 1960, tôi đang ăn chơi đến ngất ngư con tầu đi, tức ăn chơi xả láng, tôi đang ở trên đỉnh thang phong độ cao nhất đời tôi, tôi chia thời gian sống của tôi ra làm 3 Việc: (1) Làm, (2) Học, và (3) Chơi.

    “Tôi phải Làm Việc để có tiền sống và chơi. Tôi phải Học để có thể làm việc. Tôi chơi vì tôi ham chơi và tôi chơi để tôi có thể làm việc và học. Chia thời gian ra 3 phần đều nhau như thế nhưng vì ham chơi, phần Chơi của tôi luôn lấn vào phần Học, còn Làm thì tôi bắt buộc phải Làm để có Tiền.

    (hết trích)

    Từ Rừng Phong bên xứ Huê Kỳ khi tuổi đời đã “bảy bó lẻ mấy que”, Hoàng Hải Thủy viết:

    “Trong trí nhớ của tôi nay vẫn còn nguyên hình ảnh chàng phóng viên lãng tử của nhật báo Sàigònmới năm xưa – năm 1960 – chàng phóng viên ăn dziện đúng mode Italie: sơ-mi hai túi ngực, hai cây bút Bi Parker cắm ở túi áo, một bút mực đen, một bút mực đỏ, đồng hồ tay Internamatic mua ở Bangkok, quần sanspli, giầy mocassin Trinh’s Shoes Tự Do 500 đồng một đôi, trong túi áo ngực có bao thuốc điếu Lucky Strike, hay bao Philip Morris Vàng, quẹt máy Dupont Trắng dắt ở túi đựng bật lửa nơi lưng quần. Chàng phóng viên mới ba mươi tuổi mà tóc đã “không bạc, tóc chàng là tóc argenté.”

    Những bài viết về Hoàng Hải Thủy rất nhiều nên chúng tôi chia thành nhiều “phân đoạn” với những chủ đề khác nhau. Ở phần thứ nhất chỉ nói đến những nhân vật “có tiếng” ở Sài Gòn ngày xưa mà tác giả đã có cơ hội gặp gỡ, và quan trọng hơn cả là những nhận xét về họ. Tất cả những nhân vật đó đều gặp nhau trong “Sài Gòn Vang Bóng”.

     

    Sài Gòn Vang Bóng

    Trước hết, hãy điểm qua những nhân vật nữ Sài Thành mà Hoàng Hải Thủy tiếp xúc. Nổi bật có Dân biểu Hạ Viện Kiều Mộng Thu, mà ngày xưa báo chí Sài Gòn đặt tên là “Kiều Lá Đổ” chỉ vì tập thơ “Lá đổ trên mười đầu ngón tay” của bà được xuất bản trong thời làm dân biểu.

    Kiều Mộng Thu tên thật là Trương Ngọc Thu, sinh năm 1941 tại Long Xuyên, học lực tú tài, đã dậy học, viết báo, làm thơ nhiều năm trước khi trở thành dân biểu. Bà kết hôn với ông Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Chánh Sắc và hành động đáng nhớ nhất của bà là “cắt tay lấy máu viết bức huyết thư trong lễ ra mắt của Mặt trận Nhân dân Cứu đói”.

    Dĩ nhiên bà là “cái gai” trước mắt chính quyền. Sau tháng 4/1975, bà Kiều Mộng Thu tuyệt tích giang hồ khiến Hoàng Hải Thủy chẳng biết bà có bị đi tù vì là Dân biểu Hạ viện VNCH hay không.

    Còn có một bà Nghị viên Đô Thành cũng nổi tiếng không kém là bà Trần Kim Thoa. Bà xuất thân là chủ Nhà in Tín Ðức Thư Xã ở đường Sabourain, sau năm 1956 đổi tên là đường Tạ Thu Thâu. Tín Ðức Thư Xã do ông thân của bà lập nên, chuyên xuất bản loại truyện Tàu như Phong Thần, Ðông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí...

    Thời làm nghị viên, bà Thoa được các ký giả nhật báo Sài Gòn gọi là “Bà Nghị Nín Tè” chỉ vì trong một cuộc họp hội đồng đô thành, bà nghị than phiền cả thành phố Sài Gòn không có một nhà tiểu tiện khiến cho chị em bán hàng rong phải… nín tè!

    Những nhân vật thời VNCH (tranh của Họa sĩ Ớt)

    Có thể nói, người đàn bà mà Hoàng Hải Thủy còn giữ mãi “ấn tượng tốt đẹp” trong thời làm báo là bà Bút Trà, chủ báo Sàigòn Mới. Bà là phụ nữ đầu tiên làm chủ một tờ báo ở Sài Gòn dù chẳng có nghề báo nhưng với một quyết tâm bà đã hình thành một tờ báo mà người lao động bình dân thích đọc hàng ngày.

    Đối với một số người trí thức, Sàigòn Mới thuộc loại báo “lá cải”, chuyên khai thác những chuyện “giựt gân, câu khách” như chuyện “Tình-Tiền-Tù-Tội” hoặc “xe cán chó”... Các báo khác vì chuyện cạnh tranh nên sửa tên bà Bút Trà thành… “Bút Tè”! 

    Hoàng Hải Thủy tâm sự với người đọc:

    “Từ ngày sang Hoa Kỳ, tôi vẫn để nhiều thì giờ tìm trên Internet những tài liệu về tờ nhật báo Sàigònmới năm xưa. Nhưng tôi thất vọng. Có thể nằm ở đâu đó trong kho Internet Khổng Lồ Thế Giới có những tài liệu, hình ảnh về những tờ nhật báo của Sài Gòn trước năm 1975, như những tờ báo hàng đầu Tự Do, Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tia Sáng, Trắng Ðen, Bút Thép, Ðại Dân Tộc. Xong tôi không tìm thấy gì cả. Ngay cả một tấm ảnh của bà Bút Trà, bà chủ nhiệm nhật báo Sàigònmới, tôi cũng không tìm thấy trên Internet. Rõ hơn: tôi không có ảnh bà Bút Trà”.

    Theo Hoàng Hải Thủy, báo Sàigòn Mới không hẳn là “lá cải” nhưng cũng không phải là một nhật báo hàng đầu. Cái khéo của tờ báo là tìm ra nhiều hình thức mới lạ để “câu khách”, tăng số lượng phát hành (tirage). Ông phân tích “chiến thuật-chiến lược làm báo” của gia đình ông bà Bút Trà và các con:

    “Mãi đến năm 1957 nhờ sáng kiến tặng phụ bản bản đồ Việt Nam, bản đồ thế giới rồi phụ bản mầu đủ thứ chim cò, ngao sò ốc hến của anh con thứ năm là Năm Thành, báo Sàigòn Mới tăng vọt số báo bán. Anh con thứ sáu là Sáu Khiết xuất bản Tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai. Tiền đổ vào nhà Sàigòn Mới như nước. Bà Bút Trà xây và làm chủ Rạp Xi-nê Kim Châu đường Nguyễn Văn Sâm…”

    Từ Rừng Phong, ông kể lại trong Sài Gòn Vang Bóng một câu chuyện tại tòa soạn báo:

    “Lúc 11 giờ trưa ngày 11 Tháng 11, năm 1961, hay ngày 1 Tháng 11 năm 1961, khi những ông sĩ quan làm đảo chính Nguyễn chánh Thi, Vương văn Ðông, Phạm văn Liễu..vv.. đã lên phi cơ bay sang Nam Vang, một tuyên cáo ủng hộ phe đảo chính được đưa tới toà báo Sàigòn Mới.

     

    “Tuyên cáo do một số nhân sĩ ký tên, trong số có các ông Nguyễn Tường Tam, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Tuyên, Phan Quang Ðán .. Báo Sàigònmới đăng Tuyên Cáo này hay không? Người quyết định đăng hay không là ông Bút Trà. Ông nói nhà báo không ủng hộ phe nào cả, có tin là nhà báo đăng. Và nhật báo Sàigòn Mới đã đăng bản Tuyên Cáo ấy.

    “Hình như cả làng báo Sài Gòn hôm ấy chỉ có báo Sàigòn Mới đăng Tuyên Cáo ủng hộ phe Quân Nhân Làm Ðảo Chính. Những người ký tên trong Tuyên Cáo ủng hộ phe đảo chính, không phải nhật báo Sài Gòn Mới ủng hộ, nhưng vì đăng bản Tuyên Cáo đó báo Sàigòn Mới “có tội” với chính phủ. Báo không bị đóng cửa nhưng bị một phen xính vính.

    (hết trích)

    Làm báo hay viết văn cũng là một nghề gặp nhiều chuyện “trái cẳng ngỗng”. Có một tấm hình báo Sàigòn Mới trên Internet mà ông thấy thật… “vô lý”. Tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn phi cơ trên mặt trận Cao Miên ngày 19/5/1970, nhật báo Sàigòn Mới bị chính phủ Nguyễn Khánh đóng cửa Tháng 4/1964, làm sao báo một tờ báo bị đóng cửa  năm 1964 lại có thể đăng tin một vị Tướng Quân đội VNCH tử nạn năm 1970?

    Rõ ràng đây là “fake photo”! Vì một lý do nào đó, một người nào đó đã làm giả tấm ảnh của Nhật báo Sàigòn Mới.

    “Fake photo”: Nhật báo Sàigòn Mới bị đóng cửa năm 1964, trong trang báo trên đây đăng tin Tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn phi cơ năm 1970

    Sàigòn Mới chỉ “làm ăn phát đạt” từ năm 1957 đến đầu năm 1964. Sau đó tờ báo biến mất, không còn một dấu vết trong làng báo Sài Gòn. Khi  tờ báo bị “bức tử”, ông Bút Trà sống với bà vợ nhỏ, bà Bút Trà về trông coi nhà bảo sinh có từ trước của bà ở gần Trường Tiểu Học Bàn Cờ đường Phan đình Phùng. Sau năm 1975, ông Bút Trà chết trong nghèo đói và bệnh tật.

    Tháng 10/2010, Hoàng Hải Thủy viết một bài về một nhân vật của Sài Gòn xưa: Luật sư Trương Ðình Dzu và về vụ người con trai của ông là Trương Ðình Hùng, bị Cơ Quan FBI bắt về tội làm gián điệp cho Việt Cộng năm 1978 ở Virginia. Bài viết có đoạn:

     

    “Những năm 1960 trời đất Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa yên bình, Sài Gòn an ninh, có hai Hội Quốc Tế ở Sài Gòn, một hội là Hội Lyons – Lyons Club – hội thứ hai là Hội Rotary – Rotary Club – Luật Sư Trương Ðình Dzu là Hội Trưởng Hội Rotary Việt Nam. Có thời ông là Thống Ðốc Hội Rotary Ðông Nam Á. Ông ra ứng cử chức vụ Tổng Thống hai lần. Lần thứ nhất ông tranh cử với Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, lần thứ hai ông tranh cử với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Lần tranh cử thứ hai, liên danh của ông về nhì, ông bị Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bắt, kết tội “Làm suy yếu tinh thần chống Cộng,” cho ông vào tù một thời gian. Ông nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa (*).

    “Một buổi chiều năm 1967, Ứng cử viên Tổng Thống Trương Ðình Dzu họp báo ở Khách sạn Continental. Là phóng viên nhật báo Sàigònmới tôi đến dự. Tôi từng khó chịu khi thấy những ông ứng cử viên Tổng Thống ăn không nên đọi, nói không nên lời, trả lời mấy câu hỏi vẩn vương của ký giả Việt thôi mà đã ngắc ngứ. Tôi ngượng mặt khi tôi phải thấy những ông chính khách Việt mở cuộc hội báo khi bị bọn phóng viên Mỹ, Pháp hỏi mặt cứ ngẩn tò te. Tôi thán phục tài hùng biện của Ứng cử viên Trương Ðình Dzu khi tôi thấy ông trả lời bọn phóng viên Pháp Mỹ; ông nói thao thao, đường hoàng. Phóng viên Mỹ hỏi, ông trả lời bằng tiếng Anh xong, ông chuyển sang nói tiếng Pháp. Phóng viên Pháp hỏi, ông trả lời bằng tiếng Pháp, xong ông chuyển sang nói tiếng Anh. Tôi có cảm tưởng ông nói – mà không cần nói – với bọn nhà báo Pháp, Mỹ.

    (hết trích)

    Luật sư Trương Đình Dzu trong một cuộc họp báo ở Sài Gòn năm 1968

    Bây giờ ngồi nhớ lại, Hoàng Hải Thủy làm sao có thể “Là phóng viên nhật báo Sàigòn Mới” đến dự họp báo của Luật sư Dzu năm 1967 khi tờ báo đã bị đóng của năm 1964? 

    Ông tự... “thanh minh thanh nga”:

    “Viết về những chuyện xẩy ra bốn mươi, năm mươi năm xưa, có những chuyện tôi nhớ sai. Vì nhớ sai nên tôi viết lại không đúng. Một nguyên do chính làm tôi không nhớ đúng nhiều chuyện xưa là năm xưa chẳng bao giờ tôi tự nhủ: “Mình phải nhớ kỹ chuyện này để mai sau khi có thể mình viết ra cho đồng bào mình cùng biết.”

    ***

    Trước khi chấm dứt bài này cũng xin nói thêm, người con út của luật sư Dzu, anh Trương Đình Vượng, bị động viên vào Thủ Đức thuộc khóa đàn em của tôi. Ra trường với cấp bậc Chuẩn úy anh lại được tuyển thẳng về làm giảng viên Anh ngữ tại Trường Sinh ngữ Quân đội. Quả là một sự tình cờ hi hữu và cũng là “cái duyên may” khi chúng tôi cùng phục vụ dưới cùng một mái trường!

    Hẹn các bạn ở bài viết sau, chúng ta sẽ còn nhiều chuyện để nói về Hoàng Hải Thủy, một trường hợp hiếm có trên văn đàn Sài Gòn ngày nào.

    ***

    Chú thích:

    (*) Luật sư Trương Đình Dzu ra ứng cử chức vụ Tổng Thống hai lần. Lần thứ nhất ông tranh cử với Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, lần thứ hai ông tranh cử với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong cuộc tranh cử lần 2, ông bị đưa ra trước Toà án Quân sự Ðặc biệt ngày 26/7/1968 và bị xử phạt án 5 năm tù. Nhưng vì áp lực của công chúng miền Nam và ngoại quốc, ông Dzu được thả sau 5 tháng tù ở Chí Hòa!

    Bà vợ ông Trương Đình Dzu trước Quốc hội với biểu ngữ phản đối việc chồng bà bị bắt

    http://chinhhoiuc.blogspot.com

    Không có nhận xét nào