Header Ads

  • Breaking News

    Mạnh Kim - Sách của tác giả George J. Veith tiết lộ gì mới về Tổng thống Thiệu?


    Gồm 3 kỳ

    Kỳ một: Ông Thiệu là người như thế nào?

    Kỳ hai: Ổ “nằm vùng” bên cạnh ông Thiệu

    Kỳ ba: Sài Gòn những ngày cuối cùng và nhân tố Trung Cộng

    Ngày 25-03-2021  

    Cựu đại úy quân đội Hoa Kỳ George J. Veith vừa cho phát hành quyển sách sử VNCH – Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (nhà xuất bản Encounter Books). George J. Veith (sống tại Delaware) từng viết khá nhiều về chiến tranh Việt Nam (Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975; Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War; và Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War).

    Trong Drawn Swords in a Distant Land mới ra mắt ngày 23-3-2021, tác giả điểm lại những sự kiện chính trị chính tại miền Nam Việt Nam trước 1975 và nhắc nhiều đến giai đoạn nắm quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. So với những gì chúng ta từng biết về Tổng thống Thiệu, qua vô số tư liệu, từ Việt Nam máu lửa quê hương tôi của Đỗ Mậu đến Tâm tư Tổng thống Thiệu của Nguyễn Tiến Hưng, chưa kể nhiều quyển sách khác của giới sử học Mỹ chẳng hạn Vietnam: An Epic Tragedy, 1945-1975 của Max Hastings mới tung ra cách đây vài năm, hoặc các bộ phim tài liệu trong đó có The Vietnam War của Ken Burns…, Drawn Swords in a Distant Land có mang lại thêm thông tin gì mới? Chúng tôi xin lược thuật một số tư liệu trong quyển sách này…

    Kỳ một: Ông Thiệu là người như thế nào?

    Về nhân thân Tổng thống Thiệu, tác giả kể:

    Vì ông Thiệu là một trong hai nhân vật có ảnh hưởng nhất lịch sử miền Nam Việt Nam – cùng với ông Ngô Đình Diệm - chúng ta hãy xem lại những năm tháng đầu đời của ông. Do thế giới quan thường là kết hợp của văn hóa, cách dạy dỗ, tính cách và kinh nghiệm, nên cần phải xem xét cách thức nuôi dạy và sự nghiệp quân sự ban đầu của ông Thiệu để có thể thấy những điều đó ảnh hưởng đến tính cách và các chính sách trong tương lai của ông như thế nào. Những gì chúng ta biết về những năm tháng định hình con người ông là rất mỏng. Ngay cả thông tin tiểu sử cơ bản về ông cũng mâu thuẫn. Chẳng hạn, một phóng viên lâu năm ở Việt Nam và người viết cáo phó của ông Thiệu cho New York Times đã lặp lại sự hiểu lầm phổ biến về ngày sinh thực sự của ông. Fox Butterfield viết: “Thiệu sinh vào tháng 11 năm 1924, nhưng theo phong tục Việt Nam, đã lấy một ngày khác làm ngày sinh – ngày 5 tháng 4 năm 1923 – nhằm mang lại may mắn hơn. Ông là con út trong gia đình có năm người con, sinh tại một ngôi làng ven biển miền Trung Việt Nam”. Một số người khác cũng tin rằng ông Thiệu đã thay đổi ngày sinh “theo lời khuyên của một nhà chiêm tinh”.

    Dù đúng là người dân ở các làng quê Việt Nam thỉnh thoảng thay đổi ngày sinh vì lý do chiêm tinh, nhưng vợ của ông Thiệu khẳng định ông không làm như vậy. Mặc dù nhiều người tin rằng sinh nhật thật của ông là ngày 12 tháng 11 năm 1924 nhưng chi tiết này xuất phát từ một sai lầm hồi ông còn nhỏ. Theo lời kể của bà Thiệu, khi còn nhỏ, lúc đi thi, cậu học trò Thiệu được thầy hỏi ngày tháng năm sinh. Do không biết chính xác nên cậu chạy vội về nhà hỏi mẹ. Không gặp bà, cậu quay trở lại trường và khai đại rằng ngày sinh của mình là 12 tháng 11 năm 1924.

    Dù mẹ của ông Thiệu sau đó sửa lại ngày sinh cho con trai nhưng liệu bà có thay đổi ngày sinh thành điều gì đó có ý nghĩa hơn về mặt chiêm tinh hay không thì vẫn chưa rõ. Ông Thiệu sinh ngày 5 tháng 4 năm 1923, tại Tri Thủy, một ngôi làng ven biển đẹp như tranh gần thành phố Phan Rang, thủ phủ của Ninh Thuận. Cha mẹ ông không phải là nông dân nghèo sống với ruộng đồng. Họ là gia đình trung lưu tương đối giàu có, có đất có đai và một số cơ sở làm ăn. Họ đã truyền cho ông đức tính lao động cần mẫn và gieo sâu những giá trị văn hóa tiêu biểu Việt Nam để tất cả luôn theo ông khi ông trưởng thành. Cha ông là ông Nguyễn Văn Trung; ông nội và ông cố kiếm sống bằng nghề ngược xuôi bán hàng trên biển.

    Sau khi ông Thiệu ra đời, cha ông đã “làm nghề khác. Ông ấy đi Qui Nhơn, mua súc vật, bò… về bán ở Phan Rang, rồi vào Sài Gòn mua bán hàng hóa” (theo Larry Engelmann, “The Man Who Lost Vietnam: Interview with Nguyen Van Thieu,” April 9, 1990 – chú thích của tác giả George J. Veith). Cha của ông Thiệu mồ côi bố từ năm mười tuổi. Ông luôn nhắc nhở con trai (Thiệu) những bài học khó khăn từ cuộc sống vất vả của mình. Ông Thiệu nói với một người phỏng vấn thời hậu chiến rằng, “cha ông ấy luôn dạy ông ấy về sự thận trọng và không bao giờ bất cẩn hay liều lĩnh”, một bài học trở thành đặc điểm tính cách của ông Thiệu.

    Ông Thiệu là con út trong gia đình bảy người con. Ông có bốn anh trai và hai chị gái. Trong gia đình, ông được gọi là “cậu Tám”. Không có nhiều thông tin về các chị gái và hai anh trai, nhưng hai người anh lớn, Hiếu và Kiểu, sau này đều trở thành các đại sứ cho Việt Nam Cộng Hòa. Người lớn nhất là ông Hiếu, sinh ngày 4 tháng 4 năm 1906. Gia đình gửi ông sang Pháp học đại học. Ông Hiếu tốt nghiệp cử nhân luật Đại học Đại học Paris năm 1933. Ông trở về Việt Nam và làm giám đốc thẩm ở Huế cho đến năm 1939. Khi cha của họ qua đời ngày 12 tháng 1 năm 1969, là con trai cả, ông Hiếu được xem như “quyền huynh thế phụ”. Tuy nhiên ông rời Việt Nam vào năm 1956 vì các nhiệm vụ ngoại giao. Năm 1966, ông trở thành đại sứ Nam Việt Nam tại Ý. Khi người vợ của ông Hiếu qua đời vì ung thư năm 1966, ông Thiệu đã nhận nuôi con gái của ông Hiếu. Đây là một bí mật gia đình rất ít người biết.

    Là Phật tử, ông Hiếu là người trầm lặng, không có tham vọng chính trị. Sau khi được bổ nhiệm sang Ý, ông không tham gia chính trường Việt Nam và ở lại Rome cho đến khi Sài Gòn sụp đổ. Trong khi đó, ông Kiểu tham chính mạnh hơn. Ông sinh năm 1916, sau này cải đạo sang Công giáo. Khoảng năm 1940, ông Kiểu trở thành một trong những người sáng lập chi nhánh Nam Việt của Đại Việt Quốc Dân Đảng. Sau đó ông Kiểu làm đại sứ tại Đài Loan và cũng là sứ giả chính của ông Thiệu với vai trò trung gian trong các cuộc thương thuyết với các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo tại Nam Việt Nam.

    Cha mẹ ông Thiệu rất tận tâm trong việc giáo dục con cái, đặc biệt là ông Hiếu và ông Kiểu. Để trang trải cho việc học, cậu bé Thiệu phải phụ giúp mẹ là bà Bùi Thị Hạnh bán hàng ở chợ. Ông kể:

    Khi còn đi học, tôi phải giúp các chị bán bánh tráng và khoai lang. Ngoài ra, hàng ngày tôi đi chợ cho mẹ và giúp các chị tôi kiếm tiền để sống. Hai anh trai đi học còn tôi ở nhà phụ các chị dọn hàng ra chợ rồi dọn về. Tôi làm việc rất cực. Mẹ tôi có một cửa hàng tạp hóa nhỏ trong làng. Tôi giúp mẹ ở đó. Lúc đó, ba mẹ tôi phải nuôi hai anh tôi và cho hai anh đi học ở Sài Gòn. Cha tôi luôn cố gắng cho chúng tôi được học hành đến nơi đến chốn. Ông ấy làm việc rất cực khổ, cũng như mẹ và hai chị gái tôi, để chu cấp tiền cho hai anh tôi đi học tiểu học rồi trung học và sau đó đến lượt tôi (theo Larry Engelmann, “The Man Who Lost Vietnam: Interview with Nguyen Van Thieu,” April 9, 1990 – chú thích của tác giả George J. Veith).

    Một người Việt quen biết ông Thiệu trong nhiều năm xác nhận rằng ông Thiệu xuất thân trong một gia đình nền nếp theo đúng kiểu truyền thống Việt Nam. Người này viết: “Hồi đó, tôi đặc biệt kính trọng ông Thiệu vì cha mẹ ông Thiệu là những người lớn tuổi sống tốt, rất có đạo đức, luôn nhắc nhở và dạy dỗ con cái sống tử tế và tuân theo truyền thống Tam giáo” (theo Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Hoàng Linh Đỗ Mậu – chú thích của tác giả George J. Veith).

    Sự chấp nhận hiện đại hóa kiểu Mỹ là điểm khác biệt chính giữa ông Thiệu và nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam khác. Những nghi lễ quân đội cũng củng cố niềm tin mãnh liệt của ông vào truyền thống, đặc biệt khi nhìn qua lăng kính thuần phong mỹ tục Việt Nam. Sau này, ông còn áp dụng các nguyên lý Công giáo, dù ông đặt nó giữa nền tảng các giá trị cốt lõi của dân tộc. Vì cha mẹ luôn nhấn mạnh sự học là con đường dẫn đến thành công, ông Thiệu có được một nền giáo dục tốt theo tiêu chuẩn của Việt Nam thuộc địa. Học hành đã rèn giũa trí tuệ mang đặc tính dân tộc cho ông, giúp ông có một lợi thế hiếm có ở thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ.

    Ông Thiệu học tiểu học ở quê và sau đó học lên lớp cao hơn ở thành phố Phan Rang. Hai lần một ngày, ông phải đi phà để qua con đầm phá giữa Tri Thủy và Phan Rang. Một trong những người thầy của ông là cha của người em họ, ông Hoàng Đức Nhã. Ông Thiệu học trung học ở Trường Pellerin danh tiếng tại Huế. Pellerin là một trong bốn trường trung học duy nhất do Pháp quản lý dành cho nam sinh ở Việt Nam, nơi chỉ tuyển những người có điểm xuất sắc. Ông Thiệu vào được trường này một phần nhờ sự động viên của anh trai Hiếu. Khi ông Hiếu rời Huế vào năm 1939, ông Thiệu rời Pellerin và chuyển vào Sài Gòn sống với anh trai Kiểu, và học tại trường trung học Lê Bá Cang.

    *****

    Về ngày sinh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong Tâm tư Tổng thống Thiệu, tác giả Nguyễn Tiến Hưng thuật:

    Xuất thân từ một gia đình khiêm nhượng, ông kể lại rằng ngày sinh đích thực của ông là ngày 5 tháng 4, 1923 nhưng vì khi đến trường ghi danh xin học lần đầu, song thân ông đã vắng mặt không có ở nhà để cho ông biết ngày sinh đích xác, nên ông đã chọn đại ngày 24 tháng 12, 1924. Người ta nói là theo thầy tướng số thì nhằm đúng giờ Tý, tháng Tý và năm Tý – là một tuổi có điềm tốt theo tử vi. Là con út trong một gia đình bảy người con, mọi người đều gọi ông là cậu Tám. Cha ông mồ côi từ năm mười một tuổi, đã sống với một người chú ở vùng quê, và phải đi chăn bò để kiếm ăn: “Ông cụ đã thành một thứ cowboy; hồi đó, không có đường xá nhiều, cho nên thường khi cụ dẫn đàn bò từ tỉnh này sang tỉnh khác để bán, dọc đường có khi mất đến một nửa”…

    “Mẹ ông đêm đêm nấu bánh tét và từ khi ông lên năm, bà đã giao cho ông bưng thúng bánh ra chợ bán lúc sáng sớm. Ông bán đủ tiền mua vật liệu cho nồi bánh ngày hôm sau, và được lãi chút đỉnh. Ông rất mê đá banh, nên hay dành dụm chút tiền kiếm được để rồi mỗi chiều chủ nhật, ông bỏ chợ đi coi đá banh. Hôm đó, ông lấy bánh ra ăn và còn cho bạn ăn nữa”…

    (Tâm tư Tổng thống Thiệu, trang 360, Nguyễn Tiến Hưng – chú thích của Mạnh Kim)

    https://thenewviet.com/sach-cua-tac-gia-george-j-veith-tiet-lo-gi-moi-ve-tong-thong-thieu.html

    Ổ “nằm vùng” bên cạnh ông Thiệu

    George J. Veith tiết lộ gì mới về Tổng thống Thiệu? (Kỳ 2)

    Ngày 31-03-2021

    Quanh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không chỉ là kẻ thù chính trị mà còn là những điệp viên cộng sản được cài cắm rất sâu vào bộ máy VNCH. Trong Drawn Swords in a Distant Land, tác giả George J. Veith đã nhắc lại một số chi tiết…

    Ngay sau Tết Mậu Thân, “Ngành Đặc biệt” (Special Branch-SB, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia), bắt đầu kiểm tra xem làm thế nào mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) có thể thu thập thông tin chi tiết trong kế hoạch tấn công Bộ Tổng tham mưu và Dinh Độc lập. Sau đó, khi Mỹ phát hiện loạt tài liệu nhạy cảm của Việt Cộng trong một chiến dịch truy quét ở Tây Ninh, SB lập tức nghi có nội gián. Họ tăng cường giám sát những người tình nghi có móc nối bí mật với Cộng sản. Thời điểm đó, SB đang theo dõi một người sống ở Sài Gòn tên Lê Hữu Thúy. Nấp dưới một bút danh, Thúy từng đăng các bài viết chỉ trích chính phủ trên một tờ báo do dân biểu Hoàng Hồ làm chủ. Hoàng Hồ hóa ra cũng là điệp viên Cộng sản. Khi điều tra hồ sơ Thúy, SB phát hiện thêm rằng nhiều năm trước, cảnh sát thời ông Diệm đã bắt đương sự vì tình nghi làm Việt Cộng nằm vùng nhưng đương sự được thả theo lệnh ân xá chung của tướng Big Minh đối với tất cả tù nhân chính trị sau vụ chính biến lật đổ ông Diệm.

    Khởi động chiến dịch có mật danh “Projectile”, SB cử một đặc vụ chìm đóng giả làm thợ sửa chữa lân la đến làm thân với Thúy. Thúy sập bẫy. Một lần, đương sự buột miệng khoe với “người bạn” này về số gián điệp đang được cài trong bộ máy VNCH. SB lẻn vào nhà Thúy và đặt “bọ” nghe trộm. Đầu năm 1969, SB té ngửa khi phát hiện rằng người thường xuyên đến nhà Thúy lại là Vũ Ngọc Nhạ chứ không ai xa lạ. Nhạ là cố vấn tổng thống đặc trách các vấn đề tôn giáo. Tương tự Phạm Ngọc Thảo, Nhạ thoạt đầu chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh. Nhạ là người miền Bắc, cải đạo sang Công giáo, gia nhập giáo xứ của Linh mục Hoàng Quỳnh ở Phát Diệm. Sau khi vào Nam năm 1954, Nhạ định cư gần Huế, nhưng cuối tháng 12 năm 1958, ông bị bắt vì tình nghi hoạt động cho Cộng sản.

    Nhạ dĩ nhiên không nhận tội. Big Minh cuối cùng cũng trả tự do cho đương sự sau cuộc đảo chính ông Diệm 1963. Cha Quỳnh sau đó giới thiệu Nhạ với ông Thiệu và Nhạ được tín cẩn giao nhiệm vụ phụ trách các vấn đề liên quan tôn giáo… Bám đuôi Nhạ từ nhà Thúy, SB phát hiện Nhạ gặp Huỳnh Văn Trọng, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Thiệu về các vấn đề chính trị, từng được ông Thiệu cử sang Mỹ với sứ mệnh nghiên cứu chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ. Đặc vụ SB thấy Trọng chuyển một phong bì cho Nhạ. Sau khi Trọng rời đi, SB tiếp tục theo dõi và thấy Nhạ giao một gói hàng cho một phụ nữ…

    Toàn bộ vụ việc trở nên chính trị hóa cao độ vì cả Nhạ lẫn Trọng đều là cố vấn tin cậy của Tổng thống Nam Việt Nam. Khi CIA và SB báo với ông Thiệu và đề nghị bắt giam hai nhân vật trên, ông Thiệu đồng ý nhưng nhấn mạnh rằng bằng mọi giá phải tìm được chứng cứ vì nếu không chứng minh được thì vụ việc sẽ trở thành thảm họa. Sau khi thu thập bằng chứng, SB bắt Trọng và Nhạ vào tháng 7 và tìm thấy những tài liệu tuyệt mật mà họ sở hữu. Lần này, Nhạ khai mình đã “nằm vùng” hai mươi năm. Phần mình, Trọng cũng nói rằng ông ta biết Nhạ là gián điệp cộng sản khi chuyển tài liệu mật cho Nhạ. Tổng cộng, có hơn 50 người bị bắt trong đường dây tình báo Vũ Ngọc Nhạ, trong đó có một số nhà báo và hai quan chức cấp cao trong Bộ Chiêu Hồi. Phiên tòa sau đó kết án Thúy, Nhạ và Trọng tù chung thân…

    *****

    Trở lên là những gì George J. Veith thuật trong quyển Drawn Swords in a Distant Land. Khá sơ sài. Về Vũ Ngọc Nhạ, đã có rất nhiều tư liệu được công bố. Ở đây xin thuật thêm về tay điệp viên sừng sỏ Lê Hữu Thúy – bí danh “A25” – một mắt xích phải nói là rất quan trọng trong đường dây tình báo nằm vùng tại miền Nam thời ông Thiệu. Thúy là một trong những thành viên của Lưới tình báo H10 (thuộc Cụm A22), trong đó Vũ Ngọc Nhạ làm cụm trưởng. Những người khác trong Cụm A22 đều là những kẻ được cài cắm rất sâu: Nguyễn Xuân Hòe, công cán ủy viên Phủ Tổng thống; Vũ Hữu Ruật, Phó Tổng thư ký Đảng Dân chủ; Hoàng Hồ, dân biểu; Lê Hữu Thúy, công cán ủy viên Bộ Chiêu hồi; và Huỳnh Văn Trọng, cố vấn chính trị đối ngoại của Tổng thống Thiệu.

    Sinh năm 1926 tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa, trong gia đình tuy không người theo đạo nhưng Thúy được cho đi học trường dòng. Năm 1956, khi vào Sài Gòn, Thúy được ông trùm tình báo cộng sản Mười Hương chỉ thị thâm nhập khối Công giáo di cư. Thúy bắt mối với linh mục Vũ Đình Trác làm tờ báo Di cư; làm phụ tá chủ bút báo Đường sống... Trong một bài viết trên báo Nông Nghiệp ngày 2-5-2012, con gái của ông Lê Hữu Thúy – bà Thanh Hương (lúc đó là Trưởng ban Tuyên giáo quận ủy quận 4, TP.HCM) – cho biết thêm, ông Thúy được gia đình cho học trường Trung học Alexandre de Rhodes của Nhà chung Thanh Hóa. Sau khi tốt nghiệp tú tài, Thúy ra Hà Nội, học đại học cùng với đồng hương Trần Kim Tuyến. Năm 1949, Thúy được kết nạp vào Đảng Cộng sản và hoạt động ở Hà Nội với bí danh A25. Trước đó, Thúy công tác tại Ty Công an Thanh Hóa.

    Tháng 10-1954, Thúy được giao nhiệm vụ trà trộn cùng những người Công giáo di cư vào Nam. Năm 1959, Thúy bị bắt do một Việt Cộng chiêu hồi khai. Sau vụ chính biến lật đổ ông Diệm, Thúy được thả. Và nhờ mối quan hệ với Trần Kim Tuyến cũng như với Đỗ Mậu – giám đốc Nha An ninh Quân đội, Thúy thậm chí được tuyển vào Nha An ninh Quân đội Sài Gòn. Vai trò của Thúy nói chung là rất lớn trong Lưới tình báo H10. Chính Thúy là người cùng Vũ Ngọc Nhạ xây dựng lá bài chính trị Huỳnh Văn Trọng, từng bước đưa Trọng trở thành cố vấn chính trị cho Tổng thống Thiệu. Huỳnh Văn Trọng từng là Đổng lý Ngự tiền thời Vua Bảo Đại. Thời Đệ nhất Cộng Hòa, Trọng bị bỏ rơi nên bất mãn. Vũ Ngọc Nhạ, cùng Lê Hữu Thúy, đã bày vẽ đường đi nước bước cho Huỳnh Văn Trọng xây dựng uy tín lẫn thanh thế, giúp ông Thiệu chạy đua vào ghế Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Do đó, Trọng được ông Thiệu tín cẩn đưa lên vị trí cố vấn đặc biệt. Nhờ đó, Trọng có điều kiện lấy được vô số tài liệu mật, giao lại cho Vũ Ngọc Nhạ để chuyển cho Trung ương Cục Miền Nam.

    Khi vào làm cho Nha An ninh Quân đội, Thúy cũng thu được nhiều thông tin có giá trị. Trong sự kiện Mậu Thân 1968, Thúy lập bản đồ chi tiết Khu Tam giác Bến Lức-Đức Hòa-Chợ Lớn tạo điều kiện dễ dàng cho Việt Cộng thâm nhập nội đô Sài Gòn. Từ năm 1967, Thúy chuyển sang làm công cán ủy viên Bộ Chiêu hồi, cho đến bị lộ và bị bắt. Báo Pháp Luật ngày 20-10-2015 cho biết thêm, thời gian bị giam ở Côn Đảo, Lê Hữu Thúy còn đánh cắp được danh sách tù chính trị và chuyển an toàn ra ngoài…

    Ðầu năm 1973, Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về khám Chí Hòa, Sài Gòn. Ngày 23-7-1973, Chính quyền VNCH trao trả Vũ Ngọc Nhạ cho MTDTGPMNVN. Năm 1974, Vũ Ngọc Nhạ được Cộng sản Bắc Việt phong trung tá Quân đội Nhân dân. Tháng 4-1974, Nhạ về Củ Chi, hoạt động bí mật, với chiến dịch tái dựng Cụm Tình Báo Chiến Lược, móc nối với Thành phần Thứ ba và khối Công Giáo. Ngày 30-4-1975, Vũ Ngọc Nhạ có mặt tại Dinh Ðộc Lập, đứng bên cạnh Big Minh, khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Vũ Ngọc Nhạ chết ngày 7-8-2002 tại Sài Gòn. Phần mình, Lê Hữu Thúy được tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” vào năm 1996. Đương sự chết năm 2000…

    Những kẻ nằm vùng nguy hiểm không chỉ là “Lưới tình báo H10” của Cụm A22. Từ sau 1975 đến nay, báo chí cộng sản đã tiết lộ không ít gương mặt tình báo được cài cắm và phá hoại miền Nam – ngoài những gương mặt quá quen thuộc và được nói nhiều như Phạm Xuân Ẩn. Báo Lao Động ngày 30-4-2020 cho biết một trong những nhân vật như vậy, ít được nói đến, là Đinh Văn Đệ, từng là Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Hạ viện chính quyền Sài Gòn, từng tham gia phái đoàn VNCH sang Mỹ xin viện trợ trong những ngày cuối tháng 3-1975. Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, quê ở Đồng Tháp, xuất thân từ một gia đình đạo Cao Đài “có truyền thống cách mạng”. Năm 1952, Đệ vào Trường sĩ quan trù bị Thủ Đức; sau đó được tướng Lê Văn Tỵ chọn làm trợ lý Tổng Tham mưu trưởng; rồi trung tá Chánh Văn phòng Tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH.

    Cuối năm 1957, tướng Nguyễn Chánh Thi đảo chính hụt ông Ngô Đình Diệm. Ông Đệ bị nghi dính líu với lực lượng đảo chính và bị quản thúc hơn một tháng. Nhờ mối quan hệ thân thiết của bố vợ ông với ông Phan Khắc Sửu nên Đệ được bảo lãnh và sau đó được vào học Trường Đại học Quân sự Đà Lạt và đỗ thủ khoa. Đinh Văn Đệ sau đó được cử làm Thị trưởng Đà Lạt, sau kiêm Tỉnh trưởng Tuyên Đức, đến năm 1966 thì được thăng cấp đại tá và chuyển sang làm tỉnh trưởng Bình Thuận. Cuối năm 1967, ông Đệ từ chức tỉnh trưởng, ứng cử vào Hạ viện, trở thành Phó Chủ tịch Hạ viện, Phó Trưởng khối đối lập. Trong hai khóa Quốc hội với danh nghĩa Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện, Đinh Văn Đệ đã cung cấp cho cộng sản nhiều tin tức quan trọng...

    https://thenewviet.com/o-%E2%80%9Cnam-vung%E2%80%9D-ben-canh-ong-thieu.html

    Sài Gòn những ngày cuối cùng và nhân tố Trung Cộng

    Sách của tác giả George J. Veith tiết lộ gì mới? (Kỳ 3)

    Ngày 31-03-2021

    Trong chương 24 “I will draw out my sword”, phần “The final actor: China” (từ trang 553), tác giả George J. Veith đã thuật một số chi tiết về sự can dự của Trung Cộng vào chính trường Nam Việt Nam vào những ngày cuối cùng của nền Đệ nhị Cộng Hòa, trong đó có cả việc Trung Cộng móc nối ông Nguyễn Cao Kỳ. Dưới đây là phần lược dẫn từ những gì được kể trong quyển Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam's Shattered Dreams (phát hành ngày 23-3-2021) của George J. Veith…

    “Hai sư đoàn Dù của Trung Cộng sẽ được thả xuống Biên Hòa”

    Tiết lộ sau đây được đúc kết từ hơn một thập niên phỏng vấn và trao đổi email với ông Nguyễn Xuân Phong cho đến khi ông qua đời vào tháng 7-2017 (ông Nguyễn Xuân Phong là Quốc vụ khanh, Trưởng phái đoàn hòa đàm VNCH tại Paris – ghi chú của người dịch). Trong hơn ba mươi năm, ông Phong không kể cho ai về sứ mệnh bí mật cuối cùng của mình nhằm có thể cứu vãn tình hình miền Nam. Ông cho biết, hồi ở tù cộng sản (sau 1975), “Tôi đã bị thẩm vấn trong hai năm với câu hỏi rằng chuyện gì xảy ra giữa Nam Việt Nam với Trung Quốc nhưng tôi tuyệt đối không nói” (Phong interview, November 30, 2006 – ghi chú của George J. Veith). Một lần, ông bị tra tấn dã man đến mức gãy hai xương sườn bởi sự ngoan cố không hé môi.

    Khi bay trở về Sài Gòn (vào những ngày chiến cuộc nóng bỏng 1975), ông Phong nỗ lực ngăn chặn một “cuộc giao tranh chiếm Sài Gòn”. Đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) bắn tin cho ông, cũng như cho người Pháp và “những người khác”, rằng nếu ông Dương Văn Minh không được đưa lên nắm quyền vào trước ngày 26 tháng 4, Việt Cộng sẽ san bằng Sài Gòn bằng 20.000 quả pháo. Khi ông Phong về đến Sài Gòn, ông lập tức đến gặp Tổng thống Trần Văn Hương.

    Vài ngày sau, ông Phong gặp ông Trần Văn Đôn và một đại diện Chính quyền cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (CMLTMNVN) để bàn về giải pháp liên minh. Đại diện ông Dương Văn Minh là Trần Ngọc Liễng (sau 1975, ông Liễng là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chết ngày 10-9-2011 – ghi chú của người dịch). Trong cuộc gặp, ông Phong nói khéo với đại diện CMLTMNVN rằng Pháp và các nước khác sẽ giúp đỡ chính phủ mới. Tuy nhiên, ông vẫn không nói ra thông điệp mà Trung Cộng muốn chuyển đến Sài Gòn. Thông điệp gì?

    Kịch bản như sau (theo lời kể của ông Phong với George J. Veith). Trung Quốc muốn CMLTMNVN nắm quyền thông qua công thức của Pháp để ngăn chặn sự tiếp quản của cộng sản Bắc Việt. Rồi sau khi một liên minh giữa chính quyền VNCH và CMLTMNVN được thành lập, Tổng thống Minh sẽ thỉnh cầu giúp đỡ; Pháp hồi đáp bằng cách đưa một lực lượng quốc tế vào Nam Việt Nam với danh nghĩa bảo vệ chính phủ mới. Trong cái gọi là “lực lượng quốc tế” này, có nhóm “cơ bắp”, như cách nói của ông Phong, tức “hai sư đoàn Nhảy Dù của Trung Cộng được thả xuống Biên Hòa”.

    Những gì ông Nguyễn Xuân Phong biết và những gì ông tiết lộ trước khi chết vẫn còn là những bí ẩn chưa thật sự được giải đáp bằng cứ liệu lịch sử và tài liệu công bố chính thức của các bên liên quan 

    Bắc Kinh cho biết họ cần bốn ngày để điều quân và đưa đến căn cứ không quân. Ông Phong giải thích suy nghĩ của họ: Bắc Kinh không thể trực tiếp tiến hành và muốn tạo cảm giác để mọi người thấy rằng họ để người Pháp can dự. Vì yếu tố chính trị quốc tế nên Bắc Kinh không ngang nhiên can thiệp quân sự vào Nam Việt Nam. Phần mình, Pháp cần kêu gọi một số quốc gia tham gia “lực lượng quốc tế” (với Pháp đứng đầu) nhằm có cớ để kéo Trung Cộng vào. Một số vấn đề mà Bắc Kinh đối diện thời điểm đó là số quân được đưa vào là bao nhiêu, và họ ở lại miền Nam Việt Nam bao lâu để kiềm chế và trấn áp quân Bắc Việt? Trung Cộng hứa họ sẽ ở lại chừng nào tình hình còn cần thiết nhưng từ ba đến sáu tháng là tối đa… vì họ không muốn bị buộc tội xâm chiếm miền Nam Việt Nam.

    Tại sao Trung Cộng muốn cản trở Bắc Việt, đặc biệt sau nhiều năm hỗ trợ Hà Nội? George J. Veith viết rằng, Trung Quốc chỉ muốn có một miền Nam Việt Nam trung lập để tránh bị bao vây bởi một hiệp ước giữa Moscow và Hà Nội rất có khả năng xảy ra. Một nhà sử học khẳng định rằng “có một sự đồng thuận về nhận định của giới nghiên cứu là vào năm 1973, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày càng lo ngại việc Hà Nội nghiêng về Moscow” (Kosal Path, “The Sino-Vietnamese Dispute over Territorial Claims, 1974–1978: Vietnamese Nationalism and its Consequences” – ghi chú của George J. Veith). Khi quan hệ giữa hai cường quốc Cộng sản (Trung Quốc và Liên Xô) trở nên tồi tệ từ đầu những năm 1960, Trung Quốc bắt đầu lo sợ sự can thiệp quân sự của Liên Xô, như cách họ xâm lược Tiệp Khắc năm 1968. Học thuyết Brezhnev thậm chí tuyên bố rằng Moscow có quyền lật đổ bất kỳ chính phủ Cộng sản nào tách khỏi quỹ đạo của họ. Tháng 3-1969, loạt giao tranh vũ trang đã nổ ra dọc biên giới Liên Xô và Trung Quốc; rồi tháng 5, Liên Xô đã thuyết phục Ấn Độ và Triều Tiên tham gia liên minh chống Bắc Kinh.

    Trung Cộng tiếp xúc ông Nguyễn Cao Kỳ?

    Theo ông Phong, cuộc gặp giữa ông với phái viên của Chu Ân Lai vào tháng 12-1970 là ván bài mở đầu của Bắc Kinh trong chiến dịch hậu trường ngăn cản một nước Việt Nam thống nhất. Không ai bị sốc hơn, khi biết về sự thay đổi này trong chính sách Trung Quốc, bằng đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Alexander Haig. Gặp Chu Ân Lai năm 1972 với tư cách thành viên đoàn tiền trạm cho chuyến thăm của Nixon, Haig đã sửng sốt khi nghe Chu nói: “Các ông (Mỹ) đừng thua ở Việt Nam”! Báo cáo của Haig cho biết, Chu “xem việc Mỹ thất bại và rút quân khỏi Đông Nam Á là… nguy hiểm đối với Trung Quốc”…

    Nayan Chanda, phóng viên nổi tiếng của tờ Far Eastern Economic Review, cũng từng đề cập về nỗi sợ của Trung Quốc trước viễn cảnh một Việt Nam thống nhất. Chanda viết rằng Bắc Kinh đã “nhất quán tuân thủ chính sách duy trì bằng mọi giá một Đông Dương bị chia cắt không có sự có mặt các cường quốc. Để làm được điều đó, họ áp dụng chính sách “ngoại giao thầm lặng”, tạo ảnh hưởng kinh tế, và tất nhiên, sử dụng sức mạnh quân sự”. Chanda cho biết thêm, tháng 4-1975, Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội không nên thực hiện chiến dịch tổng tiến công vào Sài Gòn. Philippe Richer, từng là đại sứ Pháp tại Hà Nội giai đoạn 1973-1975, xác nhận rằng vào ngày 20-4-1975, chín ngày trước khi chiếm được Sài Gòn, Bắc Kinh đã thực sự cảnh báo Hà Nội về mối nguy hiểm của việc “vươn chổi quá xa”, cách nói của Mao vào năm 1972. Và Trung Cộng cũng được cho là đã tiếp cận ông Nguyễn Cao Kỳ.

    Trong cuộc phỏng vấn với William Buckley trên Firing Line vào tháng 9-1975, cựu Phó Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Cao Kỳ nói rằng, khoảng cuối năm 1972, đại diện Trung Cộng đã đến tận nhà ông ở Sài Gòn. Ông Kỳ cho biết, họ yêu cầu ông lật đổ ông Thiệu và “tuyên bố miền Nam Việt Nam trung lập, không đứng về Nga hay Mỹ”. Nếu ông Kỳ chấp nhận làm điều đó, “người Trung Quốc sẽ ủng hộ ông, vì chúng tôi vốn đã gặp khó khăn ở biên giới phía Bắc với người Nga. Chúng tôi không muốn thấy sườn phía Nam của chúng tôi bị một vệ tinh của Nga trấn ngữ” (“Why We Lost the War in South Vietnam,” transcript of PBS Firing Line, October 4, 1975 – chú thích của George J. Veith).

    Ông Kỳ cũng lặp lại câu chuyện này trong một phát biểu vào tháng 12-1975 tại Mỹ, kể rằng “một nhóm đặc vụ Trung Quốc đã đến nhà ông ấy…, đề xuất một vụ đảo chính lật đổ ông Thiệu được Trung Cộng hậu thuẫn” (China Proposed Coup, Said Ky,” Baltimore Sun, December 6, 1975 – chú thích của George J. Veith). Tuy nhiên, tại sao ông Kỳ không bao giờ đề cập vụ này trong hai cuốn sách của ông cũng là điều cần đáng chú ý. George J. Veith thuật thêm, sau khi chiếm Hoàng Sa vào tháng 1-1974, Trung Cộng cũng cố móc liên lạc với ông Thiệu. Khi trao trả tự do cho những người lính VNCH bị bắt trong vụ Hoàng Sa qua ngã Hong Kong, Trung Cộng đã yêu cầu tổng lãnh sự VNCH chuyển một thông điệp cho Tổng thống Thiệu với yêu cầu tổ chức cuộc gặp bí mật.

    Việc Trung Cộng ráo riết muốn nhảy vào chính trường miền Nam nhằm ngăn ý muốn thống nhất Việt Nam của cộng sản Bắc Việt còn được thực hiện ở London. Hè 1974, Trung Cộng cho người tiếp cận Đại sứ quán VNCH ở London (Nguyen Tien Hung, Palace File – chú thích của George J. Veith). Trong khi đó, tại Hong Kong, Bắc Kinh muốn thông qua kênh Jim Eckes, một bạn thân của ông Phong, thời điểm đó là giám đốc một hãng hàng không ở Sài Gòn. Gia đình Eckes sống ở Hong Kong và đương sự đi đi về về giữa Hong Kong và thủ đô Nam Việt Nam. Tổng lãnh sự VNCH đã nhờ Eckes chuyển thông điệp Trung Cộng cho Tổng thống Thiệu nhưng Eckes lại đưa cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam Graham Martin; và “thông điệp” – Eckes cho biết – cuối cùng “đã ‘chết’ trong tay Martin” (Interview with Jim Eckes, October 11, 2007 – chú thích George J. Veith).

    Tướng Pháp Paul Vanuxem trong Dinh Độc lập ngày 30-4: Còn nước còn tát!

    Nhân vật đại diện Paris trong vụ Pháp muốn cùng Trung Cộng nhảy vào miền Nam là tướng hưu Paul Vanuxem, người từng biết ông Thiệu cũng như nhiều tướng tá VNCH từ thời cuộc chiến Đông Dương. Vanuxem đã gặp ông Thiệu nhiều lần và trở lại Nam Việt Nam vào những ngày cuối cùng với tư cách phóng viên tuần báo Pháp Carrefour. Năm 1976, Vanuxem đã ấn hành tập sách mỏng kể chi tiết những ngày cuối cùng của Sài Gòn, cho biết rằng mình có mặt trong Dinh Độc lập ngày 30-4 cùng Tổng thống Minh cũng như một số nhân vật trọng yếu (trong đó có Thủ tướng Vũ Văn Mẫu-Thủ tướng; Thái Lăng Nghiêm-Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng; dân biểu Lý Quí Chung-Bộ Trưởng Thông Tin; chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh-quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH… - chú thích thêm của người dịch).

    Năm 1982, Nguyễn Hữu Hạnh đã nhắc lại về sự kiện này trong cuộc phỏng vấn được phát trong Vietnam: A Television History của Đài PBS. Ông Hạnh kể rằng, điều đầu tiên mà Vanuxem nói trong cuộc gặp những nhân vật cao cấp nhất của VNCH ngày 30-4 tại Dinh Độc lập là cho biết mình vừa đến từ Paris, rằng trước đó, ông đã gặp một số người quan trọng trong đó có các viên chức Đại sứ quán Trung Cộng. Tiếp đó, Vanuxem yêu cầu Tổng thống Minh tuyên bố “nghỉ chơi” với Mỹ để “đón chào” Trung Cộng; và chỉ như vậy thì Bắc Kinh mới có thể ép Hà Nội ngừng bắn. Vanuxem cũng đề nghị Tổng thống Minh câu giờ (việc tuyên bố đầu hàng) thêm 24 tiếng nhưng ông Minh từ chối. Cần nhắc lại, thời điểm Vanuxem đến Dinh Độc lập là lúc ông Minh vừa ghi âm xong bản tuyên bố đầu hàng.

    Khi ông Minh nói tình hình chẳng còn gì để níu kéo, Vanuxem trả lời: “Không đến mức tuyệt vọng. Tôi đã dàn xếp chuyện này ở Paris. Tôi chỉ muốn ông công khai lên tiếng việc cần Trung Quốc bảo vệ ông”… Vanuxem đồng thời cũng nói với những người có mặt trong Dinh Độc lập lúc ấy: “Các ông phải rút xuống Cần Thơ và bảo vệ Quân đoàn IV chiến thuật. Vài ngày nữa, Trung Quốc sẽ đưa ra giải pháp trung lập cho Nam Việt Nam”. Ông Minh trả lời: “Chúng tôi vừa yêu cầu người Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ tới. Chúng tôi không thể yêu cầu Trung Cộng can thiệp tình hình nội bộ Việt Nam” (Letter from Trinh Ba Loc, March 22, 2013 – chú thích của George J. Veith).

    Cộng sản Bắc Việt không hoàn toàn mù tịt về vụ này. Tướng Bắc Việt, Văn Tiến Dũng, viết: “Vanuxem đã vội vã đến Sài Gòn từ Pháp”; vào ngày 30-4, “ông ta (Vanuxem) đã cố ngăn việc phát đoạn băng (tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Minh) và đưa ra một kế hoạch nhằm ngăn chặn cuộc tổng tiến công của chúng ta vào Sài Gòn” (Van Tien Dung, Our Great Spring Victory: An Account of the Liberation of South Vietnam, translated by John Spragens, Jr – chú thích của George J. Veith).

    *****

    Bất luận thế nào, tác giả George J. Veith cũng thận trọng viết thêm rằng, những gì ông Nguyễn Xuân Phong thuật lại, liên quan Trung Cộng, là điều chưa thể kết luận rằng có chính xác tuyệt đối hay không, dù rằng việc tạo ra một chính phủ liên hợp (VNCH và CMLTMNVN) để loại ông Thiệu chắc chắn là âm mưu của Hà Nội và điều này hoàn toàn có cơ sở để tin. Cá nhân ông Hoàng Đức Nhã cũng nghĩ như vậy. Cho đến nay, Hà Nội có vẻ tin vào những gì Vanuxem kể, nhưng với giới nghiên cứu, người ta chưa tìm thấy tài liệu khả tín được công bố một cách chính thức bởi chính quyền Paris hoặc Bắc Kinh. Dĩ nhiên việc chờ Bắc Kinh tiết lộ những bí mật hậu trường chính trị quốc tế là điều không gì có thể hoang đường hơn.

    Có một điều chắc chắn rằng, ý tưởng hất Mỹ để nhảy vào Việt Nam là điều mà Pháp luôn thèm khát và họ đã thực hiện điều đó từ thời ông Ngô Đình Diệm, lúc Charles De Gaulle còn ngồi ghế tổng thống - như được thuật trong quyển Death Of A Generation – How The Assassinations Of Diem And JFK Prolonged The Vietnam War của tác giả Howard Jones (giáo sư sử Đại học Alabama). Trong quyển này, Howard Jones cũng nhắc lại việc Pháp muốn dựng một miền Nam Việt Nam trung lập…

    https://thenewviet.com/sai-gon-nhung-ngay-cuoi-cung-va-nhan-to-trung-cong.html

    Không có nhận xét nào