Header Ads

  • Breaking News

    Nguyễn Thị Hậu - Vài cảm nghĩ về văn học miền Nam trước 1975

    Sài Gòn tháng Tư, 2020

     “…Những tác phẩm văn học tôi đọc tuy còn ít ỏi nhưng đủ để nhận biết giá trị nhân văn của một nền văn học, qua đó là hiểu biết về xã hội và con người miền Nam trong cuộc chiến vừa qua…”

    Sau năm 1975, nhiều người lần đầu vào Sài Gòn đã choáng váng khi nhìn thấy cuộc sống của thành phố này: nhà cửa, xe cộ, quần áo và hàng ngàn loại vật dụng sinh hoạt... mà hầu như gia đình nào ở Sài Gòn cũng có, nhưng khi đó ở miền Bắc chỉ có thể nhìn thấy vài thứ trên phim ảnh “Liên xô”, thậm chí có thứ chưa từng biết đến như TV, tủ lạnh, đồ dùng trong toilet... Có thể đọc những cảm nhận nhận này qua hồi ký của một số người nổi tiếng mới xuất bản gần đây.

    Giữa năm 1975 gia đình tôi – một gia đình miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 - đoàn tụ ở Sài Gòn. Những tháng đầu cả nhà ở tạm trong một căn phòng tại cơ quan của ba tôi (là một biệt thự trên đường Trần Quý Cáp). Trong căn phòng chừng hơn 30m vuông có một tủ sách lớn dựng suốt một bức tường. So với tủ sách đơn sơ của nhà tôi ở Hà Nội được đóng bằng những mảnh gỗ tạp, cũng chứa đầy sách, thì cái tủ sách “vĩ đại” này đã thỏa mãn ước mơ lớn nhất của tôi khi ấy! Tôi đã bỡ ngỡ và sung sướng làm sao khi trên đó đầy ắp các loại sách truyện, tạp chí... còn phía dưới giá sách là một dàn AKAI với một cuốn băng đang nghe dở “Sơn ca 7”. Đây là cơ duyên đầu tiên của tôi với văn học miền Nam và với nhạc Trịnh Công Sơn.

    Từ cái tủ sách đó giờ rảnh rỗi tôi chỉ ôm sách đọc ngấu nghiến, đầu tiên là sách văn học. Lâu rồi tôi không nhớ hết tác giả và tác phẩm, nhưng tôi còn nhớ các tác giả Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Hồ Trường An, Bình Nguyên Lộc, Chu Tử, Hoàng Hải Thủy, Bà Tùng Long, Ngọc Linh, Nguyễn Thị Thụy Vũ... Vài tác giả chuyên sáng tác chuyện miền Tây như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, An Khê, Lê Xuyên... Những tác giả của Tự lực văn đoàn mà ngoài Bắc chỉ giới thiệu rất ít... Ngoài ra còn nhiều truyện dịch mà ba tôi rất thích, chị tôi mê mải với Quỳnh Dao còn anh tôi thì nghiền Kim Dung...

    Từ năm 1976 vào học đại học Văn khoa tôi còn được bạn bè giới thiệu và cho mượn sách của các tác giả Mai Thảo, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ... lúc này đã bị cấm lưu hành. Rồi khi nhiều thư viện “thanh lý” sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 ba tôi đã xin được mấy thùng sách về lịch sử của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, các bộ sử thời Nguyễn... Thế giới văn học của tôi trở nên rộng mở và cũng mang đến cho tôi bao điều mới mẻ, cả những nỗi hoài nghi mà tôi phải mất nhiều năm mới giải đáp được.

    Lúc đầu tôi không thích lắm vì phần lớn là loại “tiểu thuyết gia đình” với tựa sách gợi cảm và hình bìa nhiều màu sắc, cốt truyện thường đơn giản, xoay quanh những cuộc tình éo le không lối thoát do thân phận, do cuộc chiến, nhiều tình tiết “lâm ly bi đát” giống tuồng tích cải lương khi ấy. Đọc xong không để lại ấn tượng gì ngoài một kết thúc buồn, hiếm khi nào “có hậu”. Phải chăng sự thật về chiến tranh luôn hiện diện trên báo chí truyền thông làm cho xã hội bất an, cuộc chiến ngấp nghé bên ngoài đô thành đã làm cho con người mất niềm tin vào tương lai?

    Nhưng rồi, dần dần một thế giới mới đến với tôi, rất khác với các tác phẩm văn học tôi từng đọc ở miền Bắc. Từ cao sang đến nghèo hèn, từ quan chức tướng lĩnh đến công chức, buôn gánh bánh bưng, thế giới của các tay anh chị, tướng cướp hay gái điếm... tất cả đều hiện diện trong văn chương, không loại trừ “kiêng cữ” một ai. Trong nhiều tác phẩm không có ai thật tốt hoặc thật xấu, nhưng ở vào thời điểm khó khăn thì họ đều bộc lộ phần nhân văn ẩn sâu bên trong... Vì vậy, dù kết thúc buồn nhưng vẫn mang lại cho người đọc cảm xúc đẹp về tình người.

    Các tác phẩm về cuộc chiến thực sự khốc liệt, trần trụi, ác liệt... hầu như không có bóng dáng của “lý tưởng cao đẹp” trong mỗi người lính mà chỉ thấy đầy ắp nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương, tình đồng đội... Cũng không thiếu vắng cái chết đau đớn của những người lính, nỗi đau giằng xé của vợ góa con côi, nhưng ước mơ một ngày giản dị bên gia đình, bên “người yêu bé nhỏ” khi đã “tàn cơn binh đao”... là hy vọng sống sót cho những người lính trận. Bởi vì, khi cuộc chiến kết thúc thì người lính lại trở về làm dân, nếu may mắn không “xanh cỏ” thì cũng có mấy ai được “đỏ ngực”.

    Để lại nhiều ấn tượng với tôi là các tác phẩm của Duyên Anh như : Dzũng Đakao, Vết thù trên lưng hoang, Điệu ru nước mắt; của Nhã Ca: Truyện cho những cặp tình nhân, Thành phố buồn, Đêm nghe tiếng đại bác, Giải khăn sô cho Huế. Truyện của Nguyễn Thị Hoàng rất lạ với tôi như: Vòng tay học trò, Tuổi Sai Gon. Còn Nguyễn Thụy Long hay nhất là Loan mắt nhung. Đặc biệt là "Mùa hè đỏ lửa” của tác giả Phan Nhật Nam hay bộ ba tập “Đường đi không đến” của nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ... Tôi đặc biệt thích Bình Nguyên Lộc với các công trình biên khảo công phu của ông và những trang tản văn, tùy bút đẹp đến nao lòng...

    Tuy nhiên, cái hấp dẫn tôi nhất chính là mỗi tác giả có phong cách riêng, dễ nhận biết qua chủ đề, cốt truyện và ngôn ngữ. Nhà văn Nam bộ hóm hỉnh, giản dị câu chữ, nhà văn miền Bắc sắc sảo, bóng bẩy, nhà văn là nhà báo thì sinh động, trực diện... Ngôn ngữ vùng miền, phương ngữ được sử dụng phổ biến. Cả một xã hội phân hóa sâu sắc, phong phú, đa dạng và cũng khắc nghiệt, tàn nhẫn như cuộc sống hiện ra, thôi thúc tôi tò mò tìm đọc và luôn ngạc nhiên mỗi khi bước vào “khu rừng” văn học miền Nam khi ấy.

    Đặc biệt sách văn học cho tuổi thanh thiếu niên rất nhiều, có lẽ nổi bật nhất là Tủ sách Tuổi Hoa. Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Tôi còn nhớ sách Hoa Đỏ là loại trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình yêu giữa nam nữ một cách trong sáng. Dấu hiệu thân thuộc của tủ sách là bông hoa tám cánh giản dị và xinh xắn.

    Cũng phải nói đến những tiệm cho thuê sách và cửa hàng sách cũ luôn là nơi hấp dẫn với tôi chứ không phải là cửa hàng thời trang hay mỹ phẩm. Tôi còn nhớ hoài có bạn học người Sài Gòn khá kỳ thị tôi bởi cái giọng Hà Nội 75 và trang phục giản dị có phần “hổng giống ai”. Một lần không biết có việc gì bạn đến nhà tôi, nhìn thấy tủ sách bạn rất ngạc nhiên vì bên cạnh những cuốn sách tôi mang từ Hà Nội về là rất nhiều sách xuất bản tại Sài Gòn. “Nhà Việt cộng mà cũng có sách như nhà ngụy à?!” nhưng từ đó thái độ của bạn với tôi khác hẳn. Đặc biệt bạn bắt đầu đọc và rồi cũng thích nhiều tác phẩm văn học của miền Bắc.

    Văn học miền Nam trước 1975 đa dạng và phong phú về tác giả, thể loại, khuynh hướng, trường phái... Đó là nhờ sự khai phóng của môi trường xã hội nói chung và môi trường sáng tác nói riêng, sự cởi mở của giới cầm bút chấp nhận những thử nghiệm, sáng tạo, tinh thần tự do dân chủ của giáo dục – nhất là giáo dục đại học. Những tác phẩm văn học tôi đọc tuy còn ít ỏi nhưng đủ để nhận biết giá trị nhân văn của một nền văn học, qua đó là hiểu biết về xã hội và con người miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Điều đó góp phần giúp tôi thoát khỏi định kiến mặc cảm về “bên này – bên kia, thắng – thua, ta – địch” mà nhiều người cùng thời với tôi còn đang mang nặng trong lòng.

    Sài Gòn tháng Tư, 2020
    Nguyễn Thị Hậu

    https://ethongluan.org/index.php/doc-bai-luu-tru/5031-vai-c-m-nghi-v-van-h-c-mi-n-nam-tru-c-1975-nguy-n-th-h-u

    HÒA BÌNH KHÔNG CÒN Ở “THÌ TƯƠNG LAI”

    Nguyễn Thị Hậu

     

    Nguyễn Thị Hậu ( Hậu khảo cổ)

     Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ ngày 5 tháng 8 năm 1964, chiến tranh bùng nổ ở miền Bắc. Khi má tôi mang về nhà mấy chiếc ba-lô may bằng vải bạt màu ghi, tôi đâu biết rằng những chiếc ba lô ấy là dấu hiệu chia ly rất lâu của gia đình mình. Sau đó ít ngày anh tôi rồi ba tôi lên đường ra chiến trường.

    Trong ký ức của tôi chiến tranh bắt đầu từ đó, và cũng từ đó đến nhiều năm sau nữa hai chữ “hòa bình” luôn được nói đến ở “thì tương lai”. Bao giờ hòa bình sẽ được về Hà Nội không phải đi sơ tán nữa, bao giờ hòa bình cả nhà mình đoàn tụ, bao giờ hòa bình ba má sẽ đưa con về miền Nam, được gặp ông bà nội ngoại. Bao giờ hòa bình...

    Những năm đó ước vọng hòa bình luôn gắn liền với thống nhất. Hòa bình là Nam Bắc một nhà, hết chiến tranh là đất nước thống nhất “non sông liền một dải” như bài thơ tôi học thuộc lòng từ thủa nhỏ: Học đi em/ Học đi mà nhớ mãi / Quê hương ta một dải / Từ mũi Cà Mau/ Đến địa đầu Móng Cái...

    Còn nhớ một lần tôi phạm lỗi gì đó, ba tôi giận lắm nhưng ông chỉ nói: “hòa bình thống nhứt ba sẽ bỏ con ở ngoài này không cho về quê!”. Tôi khóc nức nở rất lâu... Má tôi đi làm về nghe chuyện liền nói: “hai cha con rảnh quá mà mơ chuyện hòa bình thống nhứt”, rồi vội quay đi nước mắt rưng rưng...

     Giữa năm 1975 giấc mơ hòa bình trở thành hiện thực, cả gia đình tôi sum họp ở Sài Gòn. Rồi tôi được về quê hương nội ngoại ở miền Tây. Khi nghe giọng Hà Nội của tôi bà con ai cũng cười vì “không giống tiếng Việt mình”. Với nhiều người Nam bộ khi ấy, “tiếng Việt mình” là tiếng miền Tây, chớ tiếng Trung tiếng Bắc là nơi nào đó xa xôi lắm... Nhưng chỉ vài năm sau tôi đã rất vui và cảm động khi đi dạy ở đâu cũng được nghe sinh viên nói “thích giọng Hà Nội của cô”.

    Bây giờ nhiều tiếng nói, món ăn các vùng miền khác đã phổ biến hơn ở miền Nam, cũng như nhiều sinh hoạt văn hóa của miền Nam đã trở nên quen thuộc ở miền Bắc.

    Hậu quả của chiến tranh không chỉ là mất mát đau thương mà còn là sự “đứt gãy” và “phủ nhận” nhiều giá trị văn hóa của quốc gia. Và hòa bình không chỉ là chấm dứt bom đạn mà còn mang lại hiểu biết về văn hóa đất nước mình, về những điều tốt đẹp của đồng bào mình.

    ***

    Từ năm 1975 đến nay, mặc dù có thời gian xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc và cuộc chiến bảo vệ biển đảo, nhưng về cơ bản đất nước ta đã có hơn bốn mươi năm hòa bình – thống nhất. Chấm dứt cuộc chiến tranh ác liệt dài hơn hai mươi năm để “giang sơn thu về một mối” và hòa bình cho nhân dân, nhưng nếu lòng người còn ngổn ngang trăm mối thì thống nhất chưa bền chặt, nhân dân chưa thực sự ấm no hạnh phúc thì giá trị của hòa bình chưa trọn vẹn.

    Đã gần nửa thế kỷ trôi qua từ khi kết thúc chiến tranh, ngay sau đó toàn dân phải chạy đua để thoát đói nghèo trong những năm hậu chiến, rồi nhìn quanh thấy đất nước mình phải chạy nhanh hơn để theo kịp thế giới. Cùng với quá khứ hàng ngàn năm liên tục chống ngoại xâm, “cuộc chiến” chống đói nghèo và tụt hậu làm cho chúng ta chưa thật sự có tâm thức của một quốc gia hòa bình. Dường như mỗi con người mỗi thế hệ chưa đủ sự tĩnh tâm suy nghĩ về ý nghĩa của hòa bình, về giá trị của cuộc sống hòa bình, chưa tìm thấy cách thức mới và phù hợp cho “người với người sống để yêu nhau” khi đã có hòa bình.

    Tinh thần của hòa bình là sự quý trọng mỗi con người, là sự bình đẳng về mọi mặt - nhất là văn hóa - của các cộng đồng, là trao đổi học hỏi giao lưu giữa các quốc gia trên thế giới. Từ văn hóa và nhờ văn hóa con người quen thuộc rồi hiểu biết nhau hơn, tôn trọng và yêu thương nhau hơn. Điều đó giúp cho mọi cộng đồng chung sống hoà thuận, giải quyết các xung đột bằng phương thức hòa bình. Trên thế giới các quốc gia tránh được chiến tranh, bảo vệ nền hòa bình dài lâu và cùng nhau phát triển.

    Trên bước đường phát triển hội nhập, những giá trị văn hóa mới và tốt đẹp của thế giới tạo điều kiện cho sự hiểu biết và hợp tác giữa tất cả các quốc gia. Những giá trị ấy còn giúp mở rộng tầm nhìn, nâng cao tri thức, mang lại ý thức về độc lập và tự do cho mỗi con người. Hành trình đấu tranh cho Hòa bình và Thống nhất đất nước ta đâu ngoài mục đích Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho mọi người dân và cho dân tộc.

     Tp. Hồ Chí Minh, 26.4.2021

     https://nguoidothi.net.vn/hoa-binh-khong-con-o-thi-tuong-lai-28356.html

    Không có nhận xét nào