Header Ads

  • Breaking News

    Nguyễn Xuân Thọ - 30.4.75 - Nhìn từ một góc khác - Nhân chứng Stephan Köster

    Nguyễn Xuân Thọ — published 04/05/2021 19:20, cập nhật lần cuối 04/05/2021

    Köln 08.04.2018

    Tôi tuổi Mão, nên chiều mồng hai tết Ất Mão đầu năm 1975, một bất ngờ lớn đã đến với tôi. Gã trai mơ mộng bỗng được ông Huỳnh Văn Tiểng, phụ trách Vô tuyến truyền hình miền Bắc gọi đến 58 Quán Sứ, giao nhiệm vụ đi Hải Phòng đón hai „đồng chí Tây Đức“ và đoàn xe truyền hình lưu động.

    Cologne (Köln) từng là thủ đô truyền thông của Đức và những thanh niên trí thức ở đây đã lập ra „Ủy ban sáng kiến ủng hộ ngành điện ảnh và truyền hình Việt Nam“ (Initiativkommittee zur Unterstützung des Film-und Fernsehwesens der DR Vietnam) viết tắt là IK từ mùa hè 1972. Họ quyên góp và giúp đỡ rất nhiều cho VTV cũng như các xưởng phim VN khác. Hai thanh niên Đức, cùng tuổi với tôi, đang là sinh viên năm cuối cùng, ngành khoa học sân khấu điện ảnh, trường đại học Cologne đã lênh đênh trên biển 6 tuần liền, áp tải một đoàn xe lưu động 3 chiếc sang tặng THVN. Những thanh niên đầy nhiệt huyết này đã thu phục được tôi và từ đó, tôi kết bạn với họ, với ban lãnh đạo IK và trở thành người thân của họ.

    Ở một xứ sở mà kết bạn với đồng chí Liên Xô còn gặp khó khăn thì chơi với Tây Đức nguy hiểm ra sao. Tôi đã khốn khổ một thời vì tình bạn này. Nhưng tôi không bao giờ bỏ bạn bè, và họ cũng chẳng bao giờ quên tôi. Đó cũng là một trong các lý do mà sau này, khi quay lại Đức 1991, tôi lại chọn Cologne làm quê hương mới.

    Những gì xảy ra sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc đã làm thất vọng, thậm chí tạo lên những chấn thương tâm lý cho hầu hết các thành viên IK khiến họ xa rời nhau, kể cả có nhiều bất đồng với nhau. Chính tôi đã tìm mọi cách kết nối họ lại. Họ không chủ động gặp nhau, nhưng khi tôi mời hoặc tổ chức gì đó, họ đều đến. Không ai trong số họ muốn nhắc đến quá khứ, đến các tư tưởng họ đã đi theo. Vì vậy chúng tôi thống nhất không nói, và không viết về bất cứ ai.

    Tuần trước, Stephan Köster, một bạn thân trong nhóm đến thăm tôi. Bà xã đãi các món mà Stephan đã được Xuân, vợ chưa cưới của anh nấu cho tại Sài Gòn mùa hè 1975. Stephan kể lại với chúng tôi những cảm nhận của anh về kết cục của cuộc chiến tranh 30 năm, cuộc chiến tranh đã chính trị hóa thế hệ anh, đã đưa anh đến với Việt Nam, đến với Xuân. Những gì Stephan kể cho vợ chồng tôi nghe rất lạ tai, rất khác với những điều người Việt hay nói về ngày 30.4. Đó là một cái nhìn nhân bản của một trí thức phương tây, về một dân tộc khác.

    Tại sao Stephan lại có mặt Sài Gòn vào thời điểm đó?

    Chuyện là sau khi nhận ba chiếc xe truyền hình lưu động do IK tặng, tôi được phân công chăm sóc đoàn IK suốt 45 ngày liền. Ngày cuối cùng, tôi được tháp tùng anh bạn chủ tịch IK đến gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đó là sáng 30.3.1975, sau khi Bộ đội miền Bắc và Quân giải phóng vừa chiếm Đà Nẵng, tổng hành dinh của Quân Đoàn 1 VNCH chiều 29.3.

    Sau màn chào hỏi xã giao và phát biểu ca ngợi hai bên, chủ tịch IK xin gặp riêng thủ tướng và anh ta hỏi nhỏ ông Đồng: Bao giờ các đồng chí vào Sài Gòn?

    Câu trả lời là cuối tháng 4.1975.

    Bên IK nói sẽ gửi một phóng viên vào Sài Gòn để làm phim về sự kiện này. Thủ tướng Việt Nam cảm ơn và hứa sẽ thông tin cho các cơ quan hữu quan.

    Ngày 31.3 Đoàn IK bay về Đức, mang theo toàn bộ các phim phỏng vấn giới lãnh đạo Việt Nam mà lúc đó, UPI, AFP, AP hay Reuters có mơ cũng không thể có.

    Bên IK đồng thời tìm người đi Việt Nam và họ chọn Stephan Köster[1], chàng quay phim 27 tuổi. Lý do là Stephan sinh ra trong một gia đình ngoại giao lâu đời ở Đức, đã theo bố mẹ rong ruổi khắp thế giới. Anh thông thạo 6 ngoại ngữ, ngoài ra, Stephan đã từng có những tiếp xúc với du kích Nam Mỹ khi còn ở Bolivia.

    Ngày 26.4.1975, Stephan nói dối bố mẹ là đi Tây-Ban-Nha, rồi đáp máy bay đi Bangkok. Ngày 27.4, khi những chuyến máy bay chở khách đầy ắp người Việt Nam bỏ chạy ra ngoài thì chỉ mình Stephan bay ngược về Sài Gòn. Vì lý do an toàn, Stephan không mang bất cứ một giấy tờ gì có thể lộ ra rằng anh là người của „Việt Cộng“. Trong valise chỉ có máy quay phim, máy ảnh và cơ số phim đủ cho 2 tháng.

    Thế là Stephan bỗng trở thành nhân chứng lịch sử của một sự kiện mà anh tưởng rằng sẽ là ngày tận thế của chủ nghĩa đế quốc, bỗng yêu một người con gái Việt từ phía bên kia của cách mạng….

    Năm 1982 khi đã phục hồi mọi chấn thương tâm lý và tình cảm, Stephan làm bộ phim tư liêu 60 phút „Báo cáo thành tích“ (Erfolgsbericht) [2]để giãi bày lòng mình. Bộ phim được giải đặc biệt của liên hoan phim Berlinale 1983 về thể loại phim „Sân khấu nhỏ“, được coi là tạo bước ngoặt về kịch bản với các yếu tố tự sự, thơ và kể chuyện kết hợp trong mối tình có một không hai (Auf der Berlinale uraufgeführt, markiert sein Video-Film einen Wendepunkt der Dokumentarfilm-Dramaturgie, in dem er autobiographische, poetische und essaistische Elemente in einer ungewöhnlichen Liebesgeschichte vereint)

    Chia tay vợ chồng tôi, Stephan đồng ý cho tôi bản quyền phim „Báo cáo thành tích“ mà tôi đã giữ kín từ 2006 đến nay. Tôi muốn tìm đối tác để dịch, lồng tiếng và phổ biến nhân 30.4.2018.

    Köln 08.04.2018

    Phần 2 đọc ở đây:

    30.4.1975, nhìn từ một góc khác (2) – Hoàng hôn của chiến tranh

     


    Stephan từng biết đến Sài Gòn như một Hòn ngọc Viễn Đông và anh bị thành phố này quyến rũ ngay khi đặt chân đến, dù trong buổi hoàng hôn của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa. Chiều ngày 27.4, thành phố vẫn yên tĩnh, bất chấp các tin chiến sự, tin thay đổi nội các, các lệnh giới nghiêm, được Đài phát thanh liên tục phát đi. Cảnh sát vẫn điều hành các ngã tư, mọi mệnh lệnh từ trên xuống vẫn thi hành nghiêm túc.

    Khách sạn Caravelle đề nghị người nước ngoài phải nộp ảnh để làm giấy tạm trú theo lệnh thiết quân luật. Tại một tiệm chụp ảnh bên kia đường, Stephan bị thôi miên bởi ánh mắt của một cô gái đang nhìn mình. Xuân, cho đến lúc này vẫn còn là xướng ngôn viên đài truyền hình Sài Gòn của VNCH, đang chờ chụp ảnh để làm visa xuất ngoại. Bố mẹ Xuân, chủ một hãng bào chế, đã thoát khỏi thành phố bằng trực thăng và đang chờ cô ngoài tàu sân bay. Vì vướng mấy chương trình lên sóng nên giờ cô mới lo đến việc xuất ngoại.

    Xuân có cảm tình ngay với chàng trai Đức đang thì thầm với chủ tiệm bằng giọng Pháp rất êm. Cô nghĩ đến chiếc xe VW của Đức, vừa dễ thương vừa rất đáng tin cậy mà cô dùng lâu nay. Tình yêu sét đánh! Chiếc xe VW màu trắng bỗng trở thành phương tiện vận chuyển của Stephan trong hơn hai tháng sau đó, với Xuân trong vai trò tài xế, thông ngôn và trợ lý đạo diễn. Xuân tìm thấy ở Stephan chàng hiệp sỹ của đời mình và cô sao nhãng những cố gắng xuất cảnh, yên tâm phụ giúp chàng trong mọi hoạt động. Lúc đầu, Stephan không biết Xuân là người của đài Truyền Hình Sài Gòn, còn Xuân chỉ biết anh là phóng viên Tây Đức chứ đâu ngờ là anh làm việc cho những người cộng sản đang bao vây thành phố.

    Trong phim, Stephan tự nhận mình là người cộng sản, nhưng trong thực tế các thành viên IK không chấp nhận đảng Cộng sản Đức (DKP). Mặc dù cùng chia sẻ với nhau các quan điểm thiên tả: chống chiến tranh Việt Nam, chống bóc lột các nước thế giới thứ ba, chống lại trật tự kinh tế TBCN, nhưng IK rất ghét mối liên hệ chặt chẽ giữa DKP với nhà nước CHDC Đức. Đối với trí thức thiên tả, nhà nước XHCN ở miền Đông là biểu tượng của nền chuyên chế, độc tài. Stephan lại tìm thấy trong những chàng trai, cô gái Việt Cộng đội mũ tai bèo, quấn khăn rằn cầm AK47 hình ảnh của một cuộc chiến tranh giải phóng, vì tự do, chống lại chuyên chế.

     


    Ngày 28.4, số ít ỏi phóng viên nước ngoài còn ở khách sạn Caravelle quyết định chuyển sang khách sạn Continental, nơi có đông người phương tây hơn, để tạo thành một căn cứ nhỏ bảo vệ lẫn nhau. Buổi tối, Xuân và Stephan không dám ngủ trong phòng khách, mà thường chui vào phòng tắm không có cửa sổ để tránh đạn lạc. Khách sạn Continental dùng lưới thép bọc toàn bộ các cửa sổ và chặn cửa ra vào bằng hàng rào thép để tránh bị tấn công. Tại đây Stephan gặp các phóng viên Đức đang ở lại Sài Gòn:

    1. Börries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm gương (Der Spiegel). Sáng 30-4-1975, mặc dù “sợ đến run cả hai đầu gối”, Borries Gallasch vẫn tìm cách “lọt” vào bên trong dinh Độc Lập, và sau đó trở thành phóng viên nước ngoài duy nhất chứng kiến thời khắc lịch sử ở Đài phát thanh Sài Gòn.

    2. Dietrich Mummende, phóng viên ảnh của nhật báo Thế giới (Die Welt), trong phim còn được gọi là Dieter. Sáng 30.4 Dieter cùng đi với Stephan ra xa lộ Biên hòa để quay phim các phòng tuyến chống cự của quân lực VNCH. Nhưng trên đường ra, cả hai chỉ chứng kiến các đoàn xe chở bộ đội Bắc Việt tiến vào thành phố. Khi quay lại Sài Gòn, Stephan chỉ kịp quay cảnh chiếm tòa nhà Hạ Nghị viện.

    3. Klaus Liedke. Tạp chí Ngôi sao (Stern), sau này Klaus trở thành Tổng biên tập tạp chí National Geographic tiếng Đức.

    4. Một nhân chứng khác là Tiziano Terzani (gốc Ý), phóng viên thường trú báo Tấm Gương (Spiegel) thì có vợ con, thuê nhà ở ngay trong thành phố nên không ở khách sạn. Trong quá trình làm việc sau này, Stephan và Tiziano cũng nhiều lần trao đổi với nhau. Tiziano Terzani là người đã quay những thước phim về chiếc xe tăng húc đổ cánh cổng Dinh Độc lập.

     


    Tất cả họ, không ai biết Stephan đang làm việc cho „Việt Cộng“, cả „Việt Cộng“ cũng vậy. Trong các cuộc chiến tranh, phóng viên ngoại quốc luôn có ý thức bảo vệ nhau, vì cùng chia sẻ một số phận. Khi hoạn nạn, họ hay giúp đỡ nhau, dù quốc tịch nào, khuynh hướng chính trị nào. Trong mấy ngày đó, chiều nào họ cũng gặp nhau ở quán bar khách sạn Continental, đẫm mồ hôi và bụi đường. Ai cũng mừng là còn sống. Chiều nào họ cũng rủ nhau uống những „cốc bia cuối cùng“, vì không biết ngày mai có còn cơ hội nữa không. Tuy nhiên khi trở về cuộc sống hòa bình, họ cũng cạnh tranh và ganh tỵ với nhau.

    Stephan kể là một phóng viên Đức phải về nước trong tuần thứ hai của tháng 5. Vì rất thân anh ta nên Stephan nhờ mang toàn bộ số phim ảnh về cho tổ chức IK. Tất nhiên đó là những tư liệu rất quý, đắt hơn vàng, nhưng giá của chúng sẽ giảm từng ngày một. Phóng viên nọ về Đức, chờ bán hết các tư liệu của mình mới điện cho IK ở Köln đến nhận.

    Không biết có phải vì yêu cuộc chiến tranh giải phóng của „Việt Cộng“, vì yêu một người con gái của phía bên kia và luôn có nàng bên mình như một tấm bùa hộ mệnh mà Stephan luôn cảm thấy vững tin trong tác nghiệp, không hề cảm thấy sợ hãi khi tiếp xúc với binh lính từ cả hai bên.

    Người phương Tây còn kẹt lại tại Sài Gòn lúc đó biết dân chúng rất ghét người Mỹ, coi là bọn phản bội, đẩy họ vào tình thế này. Ai cũng lo một vụ tàn sát người Mỹ có thể xảy ra. Cả Xuân và Stephan đều chuẩn bi câu cửa miệng: „Người Đức! Không phải Mỹ!“ để phòng khi bất trắc. Nhưng trong suốt hơn hai tháng, chưa bao giờ họ phải thốt ra câu này.

     


    Quảng trường trước mặt khách sạn Continental luôn xuất hiện các toán binh sỹ VNCH mệt mỏi rã rời, nét mặt vô vọng, nhưng trang bị đến tận răng, tiểu liên cầm tay, lựu đạn quanh hông. Đám phóng viên ngoại quốc nấp ở bên trong hàng rào thép nhìn ra sợ hãi, chỉ sợ đám lính vô kỷ luật, không còn gì để mất kia dùng súng chống tăng phá hàng rào thép để vào khách sạn trả thù. Nhưng chẳng lần nào điều đó xảy ra. Binh lính lại kéo đi. Stephan kể là ngày 29.4, khi trực thăng còn quần đảo trên bầu trời, có một thanh niên Mỹ không biết say rượu hay hoảng loạn, cứ cởi áo, đứng múa may quay cuồng trước nhà thờ Đức Bà. Stephan sợ cậu ta sẽ bị người Việt xúm lại đánh hội đồng (Lynch), nhưng không.

    Từ tối 29.4 và sáng 30.4, trước khi xe tăng của bộ đội chủ lực tràn vào Sài Gòn, Stephan đã nhìn thấy Biệt động nội thành của Việt Cộng xuất hiện vài nơi. Trên trời trực thăng vẫn tiếp tục di tản người ra khỏi thành phố, nhưng các „Việt cộng“ này chỉ ngước nhìn lên, không hề nghĩ đến chuyện bắn hạ, dù việc đó dễ như trở bàn tay. Trong những lúc quay phim giao tranh, mỗi khi Stephan xuất hiện, dù là lính Cộng hòa hay Việt Cộng, chẳng ai quan tâm đến anh, ai làm việc nấy. Binh lính Cộng hòa rất oán ghét các tướng lĩnh vô trách nhiệm, bỏ mặc họ cho số phận để leo lên trực thăng tháo chạy. Súng trong tay nhưng họ chỉ nhìn theo máy bay chửi đổng. Không ai còn thiết đổ máu nữa!

    Kể đến đây, Stephan trầm ngâm: Từ khi bước chân đến Việt nam, tớ đã cảm thấy một dân tộc khao khát hòa bình. Cuộc chiến tranh tàn bạo nhất thế kỷ 20 kết thúc êm như một điều thần kỳ chính vì ý nguyện của tất cả những người trong cuộc. Cả một dân tộc đã nhận ra rằng đến lúc phải thôi bắn giết! Điều thần kỳ này không phải do đám chính trị làm nên, không hề vì thắng lợi của cách mạng, chẳng phải vì bọn cường quốc đánh cờ trên lưng Việt Nam, chẳng phải vì ai bán đứng ai cả. Hãy nhìn về nước Đức. Chiến tranh được kết thúc bởi sự đầu hàng của một bên, bằng sự căm thù của bên kia, bằng hiệp định của tứ cường đã bi thảm ra sao? Chắc cậu còn nhớ đến nạn hãm hiếp hàng trăm ngàn phụ nữ Đức(1), đến những cuộc hành quyết lính Đức đào ngũ do SS thực hiện sau ngày 8.5 chứ(2)?

    Đây quả là một nhận định mới về 30.4 mà tôi chưa được nghe từ người Việt Nam nào.

    Köln 11.4.2018

     (1) Năm 1945 binh lính xô viết đã hãm hiếp hàng trăm ngàn phụ nữ Đức ở các vùng họ chiếm đóng. Sự việc này bị bưng bít cho đến sau 1990 mới được công khai trên báo chí Đức và châu Âu http://www.deutschlandfunkkultur.de/grausame...

    (2) Hitler tự sát ngày 30.4.1945, ngày 8.5. nước Đức đầu hàng vô điều kiện. Nhưng ở nhiều nơi trên toàn châu Âu, các sỹ quan SS cuồng tín vẫn đi bắt lính Đức đào ngũ về để xử tử ngay tại chỗ. 5 thanh niên Đức đào ngũ bị tử hình cuối cùng vào ngày 10.5.1945 tại Na-Uy.

    Phần 3

    30.4.1975, Nhìn từ một góc khác (3) - Tình yêu buổi bình minh.

     


    Kết luận lạ tai của Stephan về kết cục chiến tranh khiến tôi trầm ngâm:

    -Cậu nghĩ sao về ý nguyện của dân tộc này, khi chính cậu, chỉ vài tháng sau đó đã bất hạnh về những đau khổ mà người Việt phải chịu đựng, về những cơ hội bị vứt đi?

    -Thọ ạ, đó chính là bi kịch của mỗi dân tộc. Người ta có thể tạo ra cái kết đẹp của một cuộc chiến để rồi lao vào một khởi đầu xấu cho nền hòa bình.…Cũng như trong đời người, hai chúng tớ đã vượt qua tất cả mọi rào cản để có một mối tình đẹp, đẹp như mơ, nhưng lại không biết giữ nó, để tuột khỏi tay.

    Stephan coi Xuân là tình yêu vào buổi bình minh của anh. Hai người thuê một căn hộ trong phố để ấp ủ tương lai. Xuân luôn ở bên anh trong mọi hoạt động và họ chẳng còn giấu diếm nhau điều gì nữa. Stephan biết Xuân từng là gương mặt của cỗ máy tuyên truyền bên kia, có họ với hoàng đế Bảo Đại, sống trong nhung lụa. Stephan gọi Xuân là „cô bé mơ mộng“ và lúc nào cũng nâng niu cô như một bông hồng, chỉ sợ nó rụng cánh. Trả lời câu hỏi của Xuân: Anh là cộng sản à? Stephan nói: Đúng vậy, nhưng chỉ khi nào cách mạng Việt Nam thành công trọn vẹn!

    Sau khi tình hình tạm ổn định, Stephan đến thăm đài „Truyền hình Sài Gòn giải phóng“ ở đường Hồng Thập Tự. Giám đốc đài là thủ trưởng của tôi, ông Huỳnh Văn Tiểng từ Hà Nội vào. Ông được thông báo về ý đồ của IK nên biết là sẽ có phóng viên Đức đến Sài Gòn trước 30.4, nhưng chưa rõ là ai. Nghe chàng trai Đức đứng trước mặt ông, nói tiếng Pháp giọng Alsace (1) „Tôi là người của IK cử sang để sát cánh cùng các bạn“, ông mừng lắm. Stephan nộp cho ông các vũ khí mà anh nhặt được để tự phòng thân trong mấy ngày qua và bảo ông cử người đến khách sạn thu gom những máy quay phim và thiết bị âm thanh, ánh sáng của các phóng viên phương Tây để lại.

    Từ giờ phút này, chính quyền biết Stephan là ai. Ông „Tây phe ta“ được tiếp xúc với đại diện của „Lực lượng thứ ba“: Giáo sư Ngô Bá Thành, Bác Sỹ Dương Quỳnh Hoa, Ni Sư Huỳnh Liên và các thủ lĩnh sinh viên nội thành khác. Đối với anh, đó là những „Việt Cộng“, ai cũng trí thức, cũng đáng yêu, rất con người. Xuân cảm thấy họ gần gũi hơn, đem chuyện cưới xin ra hỏi bà Ngô Bá Thành. Stephan hạnh phúc ngây ngất và cả hai quyết định cưới.

    Chính quyền quân quản không ngăn cản, cũng không đồng ý, chỉ nói chờ đã. Xuân rất khó chịu. Nhưng Stephan thông cảm, nói là cách mạng mới thành công, còn trăm công nghìn việc hãy thong thả chờ. Xuân biết ngày về Đức của Stephan không xa nữa, chỉ có giấy kết hôn mới đưa cô ra khỏi xứ này… Họ hờn rỗi nhau, rồi làm lành, lại cưng nhau.

    Giấc mơ của Stephan về một nước Việt Nam hòa bình, tự do, bác ái bắt đầu rạn nứt: Chỉ qua đêm hàng loạt loa phóng thanh được lắp ngoài đường chĩa vào khách sạn làm anh khó chịu. Các em bé ăn mặc chỉnh tề thắt khăn quàng đỏ diễu hành ngoài đường làm anh nhớ đến chế độ Đông Đức. Rừng cờ đỏ ngợp trời ngày đầu làm anh hứng khởi, nay được thay thế bằng các khẩu hiệu đủ kiểu khiến anh liên tưởng đến chủ nghĩa Mao…. Anh tự bào chữa: đó chỉ là sự ấu trĩ của những cán bộ ít học. Các trí thức mà anh quen biết sẽ dạy cho họ biết thế nào là văn hóa, là cách mạng.

    Nhưng rồi anh thấy những „Việt Cộng“ dễ thương cứ vắng dần đi, thay vào đó là các cán bộ lạnh lùng ngoài Bắc vào, nói chuyện gì cũng phải qua Xuân phiên dịch.…. Phim của anh gửi về Đức cho IK ngày càng „kém chất lượng“, vì nó không toát lên được khí thế cách mạng mà các đồng chí bên đó mong đợi. Các câu hỏi anh đặt ra trong phim ngày càng khó chịu. IK liên tục gửi điện, giục anh phải về ngay Đức để làm bản „Báo cáo thành tích“.

    Stephan là một người làm phim có lương tâm. Anh không thích quay những cảnh gượng gạo, càng sợ những cảnh tàn bạo. Một tuần sau 30.4, khi đang ngồi uống cà phê trong khách sạn, bỗng cả bọn nháo nhác chạy ra xem một phật tử trẻ tự thiêu ngay trước cửa. Có máy trong tay mà Stephan không dám quay, không dám chụp. Anh rùng mình nhìn bọt nước giãi sùi ra từ miệng người thanh niên kia, trong khi một phóng viên khác chụp ảnh liên tục vụ tự thiêu này để có một Hot-Story. (Phóng viên này bị phiến quân Uganda giết chết vài năm sau đó).

    Chính quyền bắt đầu đưa dần số phóng viên ngoại quốc ra khỏi Việt Nam. Vài ngày một lần, lại có một thông báo ai phải ra đi, dán trước cửa khách sạn. Stephan không coi mình nằm trong diện đó, anh là đồng chí của họ cơ mà. Anh muốn ở lại vĩnh viễn với Xuân. Cơ số phim IK cấp cho, anh đã quay hết, đã gửi về đủ, coi như xong nhiệm vụ.

     


    Đời đâu có đơn giản thế. Cuối cùng Stephan đươc chính quyền vui vẻ thông báo là anh sẽ phải rời khỏi Việt Nam. Mình không còn có ích cho họ nữa, Stephan nghĩ bụng.

    -Thế còn vợ tôi?

    -Chúng tôi sẽ giải quyết sau một năm!

    Nghe vậy, Xuân la khóc: Sao anh lại có thể tin người cộng sản?

    -Em chẳng đã từng bảo anh cũng là cộng sản sao? Em hãy tin anh. Giờ anh đành phải về. Nhưng anh thề sẽ đưa em ra khỏi đây.

    Ngày 1.7.1975, 65 ngày sau khi đến Việt Nam, Stephan cùng một số nhân viên cứu trợ Liên Hiệp Quốc bước lên chuyến máy bay đi Vientian. Họ là những người ngoại quốc cuối cùng đã vào đây bằng thị thực của Việt Nam Cộng Hòa, nay buộc phải rời Việt Nam. Xuân đứng như trời trồng ở sân bay nhìn theo con chim sắt mất hút trên bầu trời.

    Về đến Đức, Stephan bỏ mặc những bất đồng với ban lãnh đạo IK, với các bạn anh. Anh cũng chẳng thèm làm bản „báo cáo thành tích“ nữa. Anh chỉ lo chạy để đưa Xuân sang. Tòa đại sứ của VNCH khi xưa, nay đã cắm cờ đỏ sao vàng.

    - Đồng chí cameraman, đồng chí thông cảm, chúng tôi mới ra khỏi chiến tranh, còn nhiều việc quan trọng hơn phải làm….

    Nhân viên sứ quán nhiều lần lễ phép nói vậy.

    Những bức điện tín của Xuân từ Sài Gòn gửi sang, càng ngày càng vô vọng…

    Đùng một cái, cuối tháng 4.1976, qua một người quen, Stephan biết Xuân đã sang đến Paris. Nhưng Xuân không báo cho Stephan.

    Tại sao? Chuyện riêng tư của bạn tôi, tôi sẽ không bộc bạch!

    Chỉ biết rằng Stephan cảm ơn những người Việt Nam đã giữ lời hứa mà cả anh và Xuân đã không còn tin vào nó nữa.

    Rồi IK trải qua những năm tháng vật vã trong quan hệ với Việt Nam. Những tin xấu: Trại cải tạo, đánh tư sản, đốt sách vở, thuyền nhân chết trên biển…..làm cho tất cả họ sụp đổ.

    Hè 1982, sau khi đã hồi phục về tâm lý, Stephan sang Pháp thăm Xuân, nay đang là chủ của một boutique. Cuộc gặp gỡ cảm động đó đã bình thường hóa quan hệ của cặp vợ chồng chưa cưới ngày nào về cấp bạn bè.

    Stephan chua xót:

    -Tình yêu bình minh của chúng tớ cũng ngắn ngủi như giấc mộng đẹp về cuộc cách mạng ở Việt Nam.

    Köln 13.4.2018

    --------

    Tái bút: Loạt bài trên đây về Stephan Köster không phải là nội dung phim „Báo cáo thành tích“, mà là những gì Stephan trao đổi với tôi trong các lần gặp nhau.

    Stephan Köster sinh năm 1948, hơn tôi ba tuổi, hiện vẫn làm phim cho chương trình Terra X của đài ZDF. Anh mong có dịp quay lai Việt Nam để đi phượt bằng Harley Davidson từ Bắc xuống Nam, được đội nón vải, quấn khăn rằn, uống nước dừa như vẫn mơ ước.

    Tôi vừa nhận được kịch bản mà anh đã tự đánh máy, sửa bằng bút dạ vào mùa hè 1982, sau khi đi thăm Xuân trở về. Đọc xong, tôi từ bỏ quyết định sẽ công bố phim này vào ngày 30.4.2018. Tôi phải có trách nhiệm với tình yêu của bạn tôi và sẽ chỉ công bố phiên bản Việt hóa khi đã hoàn thiện nó ở mức cao nhất, dù có tốn bao nhiêu tiền bạc và công sức.

    Phim „Báo cáo thành tích“ không nói về các sự kiện trong ngày 30.4. Những hình ảnh đó Stephan và các đồng nghiệp đã cung cấp cho thế giới từ năm 1975 hết rồi. Bên cạnh bức tranh tặng người tình, phim còn là tự sự của một con người nhân ái, yêu tự do và yêu Việt Nam, về sự thật lịch sử đã thay đổi đời anh.

    ----------------

    (1) Alsace là vùng Pháp giáp nước Đức. Dân cư đa số gốc Đức, nói tiếng Pháp pha giọng Đức.

    Cuối

    „30.4.1975, Nhìn từ một góc khác (4) - Bản báo cáo thành tích“

    Nhờ sự hỗ trợ và động viên của bạn bè, tôi đã hoàn thành việc phụ đề bộ phim „Bản báo cáo thành tích" của bạn tôi, Stephan Koester.

    Đây không phải là phim lịch sử chiến tranh về ngày 30.4, dù Stephan là một nhân chứng rất đặc biệt trong sự kiên đó. Stephan khác hẳn mọi phóng viên chiến trường, vì anh là phóng viên trá hình và không ăn lương. Anh khác hẳn những người lính miền Bắc, vì anh đến từ phương tây tư bản, anh khác hẳn những người lính miền Nam vì anh yêu Việt Cộng….

    Cũng có thể vì vậy mà anh có một cái nhìn đặc biệt về ngày 30.4.: „Cuộc chiến tranh tàn bạo nhất thế kỷ 20 kết thúc êm như một điều thần kỳ chính vì ý nguyện của tất cả những người trong cuộc. Cả một dân tộc đã nhận ra rằng đến lúc phải thôi bắn giết! Điều thần kỳ này không phải do đám chính trị làm nên, không hề vì thắng lợi của cách mạng, chẳng phải vì bọn cường quốc đánh cờ trên lưng Việt Nam, chẳng phải vì ai bán đứng ai cả.“

    Với „Bản báo cáo thành thích“, tác giả chủ yếu muốn nêu hai chủ đề:

    Đầu tiên Stephan kể về sư ngây thơ chính trị và cái giá phải trả cho sự tỉnh ngộ (Đoạn nói về những bất đồng với các đồng chí của anh sau khi ở VN về). Phim làm vào năm 1982, khi Stephan 34 tuổi, đã nhận thức được qua chuyến đi Việt Nam nhiều điều mà năm 1975 anh còn mơ mộng. Hoạt động trong phong trào thiên tả, anh rất quen với cách tuyên truyền tô hồng bôi đen, nhưng với tư cách của một người trí thức, anh thấy xấu hổ và đặt câu hỏi, sao lại phải dàn dựng sự thật? (Đoạn quay phim ở Bình Thới).

    Stephan dùng phần lớn của phim để âu yếm kể về Xuân, người yêu của anh trong thời khắc lịch sử đó. Tôi không nghĩ là mình nhầm, khi coi "Bản báo cáo thành tích“ là một lời xin lỗi của Stephan gửi Xuân, vì đã đánh mất tình yêu. Nếu xem kỹ sẽ thấy Stephan không đổ lỗi chính quyền Việt Nam đã bắt anh về nước, đã không đổ lỗi cho Xuân về những nôn nóng, giận hờn. Stephan tự nhận lỗi cho sự đổ vỡ.

    Tháng 8.2016, câu lạc bộ điện ảnh Cologne có tổ chức hội thảo về phim „Bản báo cáo thành tích“, không phải vì ý nghĩa chính trị của nó, mà vì cách viết kịch bản và sử dụng tư liệu của Stephan. Ban giám khảo Liên hoan phim Biennale 1983 đã đánh giá nó là một bước ngoặt trong việc lên kịch bản phim tài liệu, kết hợp các yếu tố tự sự, kể chuyện, chất thơ trong một câu chuyện tình hiếm có. (Auf der Berlinale uraufgeführt, markiert sein Video-Film einen Wendepunkt der Dokumentarfilm-Dramaturgie, in dem er autobiographische, poetische und essaistische Elemente in einer ungewöhnlichen Liebesgeschichte vereint.)

    Vì tính đặc biệt của phim nên những người dịch đã cố gắng dịch sát nghĩa, đảm bảo truyền đạt tư tưởng của tác giả, không nhất thiết phải bám từ. Mọi ý kiến đóng góp đều được trân trọng. (Bật phù đề tiếng Việt ở góc phải, bên dưới)

    Xin cảm ơn Le Gems, Hương Huong Thao Nguyen đã góp công dich. Cảm ơn

    Köln 22.04.2018

    Mời xem phim ở phần video, youtube Báo Quốc Dân

    4 nhận xét:

    1. Như vậy phạm văn Đồng biết miền Nam sẽ mất cuối tháng 4 sự việc đã xắp đặt. Thì chuyện chiến thắng của VC chỉ là bố liếu bố láo./

      Trả lờiXóa
    2. Như vậy phạm văn Đồng biết miền Nam sẽ mất cuối tháng 4 sự việc đã xắp đặt. Thì chuyện chiến thắng của VC chỉ là bố liếu bố láo./

      Trả lờiXóa
    3. Như vậy phạm văn Đồng biết miền Nam sẽ mất cuối tháng 4 sự việc đã xắp đặt. Thì chuyện chiến thắng của VC chỉ là bố liếu bố láo./

      Trả lờiXóa
    4. Như vậy phạm văn Đồng biết miền Nam sẽ mất cuối tháng 4 sự việc đã xắp đặt. Thì chuyện chiến thắng của VC chỉ là bố liếu bố láo./

      Trả lờiXóa