Tìm về cội nguồn chưa bao giờ là một điều dễ dàng, đã có rất nhiều người từng bước trên con đường đó, cùng vì một tinh thần dân tộc, mong muốn tìm hiểu những thông tin để từ đó chúng ta biết mình là ai, mình từ đâu tới, nhưng dường như có những lúc con đường về cội nguồn trở nên xa thẳm, gập ghềnh. Nhưng dù xa thế nào chúng ta cũng phải đi, đây là con đường tìm kiếm về bản thể của chính mình, của chính dân tộc mình, để từ đó giải tỏa những mối nghi hoặc, ngờ vực về nguồn gốc dân tộc, loại bỏ những cảm xúc tiêu cực đang bủa vây dân tộc Việt với tâm lý mặc cảm tự ti về nguồn gốc, là nguyên nhân gián tiếp và trực tiếp gây ra nhiều vấn đề trong xã hội người Việt ngày nay.
Chúng tôi cũng đã, và đang bước trên con đường đó, trải qua đủ cung bậc cảm xúc, đối mặt và xử lý rất nhiều thông tin và quan điểm về nguồn gốc, vì vậy chúng tôi hoàn toàn hiểu con đường đó là khó khăn như thế nào, tuy nhiên, chắc chắn không phải là không thể, vấn đề chỉ là cách chúng ta lựa chọn con đường thật sự phù hợp. Qua một thời gian dài tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi cũng đã tìm được một con đường phù hợp, tìm được những thông tin quan trọng, có đủ cơ sở để có thể đưa ra những kết luận một cách cơ bản về nguồn gốc dân tộc mình. Về cơ bản, chúng ta có thể kết luận rằng người Việt không có nguồn gốc từ người Hán, cũng không phải có nguồn gốc từ sự hòa huyết giữa một số dân tộc nào đó, mà có một tiến trình phát triển liên tục từ người cổ rời khỏi châu Phi lên thành người Việt, những quan điểm, giả thuyết dù là tiêu cực hay tích cực trong thời gian trước đây, đều không hoàn toàn thể hiện chính xác nguồn gốc của người Việt.
Việc tìm hiểu về nguồn gốc tới nay cũng đã cơ bản hoàn thiện, chúng tôi đã tiến hành nhiều bài viết quan trọng để khảo cứu tiến trình phát triển và hình thành người Việt, bài viết này chúng tôi sẽ thực hiện như một bài tổng quan, lướt qua những vấn đề quan trọng nhất về nguồn gốc của dân tộc Việt, để bạn đọc có cái nhìn cơ bản nhất về những quan điểm trong quá khứ và những vấn đề về nguồn gốc dân tộc mình, hòng mong muốn góp phần giải tỏa những giả thuyết đã từng có sức ảnh hưởng lớn trong tâm thức của người Việt.
I. Nguồn gốc dân tộc: những giả thuyết đã có, sự kiêu ngạo và sự tự ti:
Lịch sử của người Việt trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm, trắc trở, hiếm có dân tộc nào trên thế giới có một lịch sử phủ đầy bởi những cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc trước những thế lực xâm lược từ bên ngoài như người Việt, và cũng không có dân tộc nào trên thế giới từng trải qua giai đoạn bị đô hộ và chiếm đóng lên tới 1000 năm bởi giặc ngoại xâm mà vẫn giữ được tiếng nói, văn hóa của dân tộc mình, dù trải qua lịch sử chông gai như vậy, nhưng người Việt vẫn tồn tại, vẫn là một dân tộc độc lập, một quốc gia độc lập. Tuy hào hùng là vậy, nhưng qua dòng lịch sử đầy biến động đó, lịch sử của người Việt trở nên rối bù, khó xác định chính xác về nguồn gốc dân tộc, cũng như tạo nên những tư tưởng và tâm lý tiêu cực trong người Việt về nguồn gốc dân tộc. Các quan điểm về nguồn gốc dân tộc ảnh hưởng đặc biệt mạnh trong khoảng vài trăm năm gần đây, kể từ thời nhà Nguyễn, tới thời Pháp thuộc, ngay cả tới nay, là thời kỳ độc lập. Có nhiều giả thuyết đã được đưa ra với những ảnh hưởng ở những thái cực đối lập nhau, có sự ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực.
Có những nhận định chúng ta có thể thấy chúng có một phần sự tích cực, nhưng sự tích cực này có phần thái quá, thiếu cơ sở về thực tiễn.
– Giả thuyết của học giả Kim Định, ông cho rằng người Việt có nguồn gốc từ Tây Tạng di cư xuống vùng Hoa Bắc, sau đó người Hoa Hạ chiếm những di sản của người Việt trong vùng này, khiến người Việt phải di cư về phía Nam.
– Một số nhà nghiên cứu như nhóm “Tủ sách Việt Thường” thì cho rằng các triều đại Hoa Hạ là Hạ, Thương, Chu là các triều đại của người Việt, người Hoa Hạ chiếm các triều đại này của người Việt, thay đổi lịch sử để biến các triều đại này của mình.
Hệ thống giả thuyết này còn đề xuất những quan điểm như chữ của người Hán là chữ do người Việt tạo nên, các di sản như Đông y, châm cứu… là do người Việt tạo nên, người Hán chiếm những di sản này và biến thành của mình. Các quan điểm này có điểm tích cực là giúp người Việt vượt qua tâm lý mặc cảm, tự ti và thua kém người Hoa Hạ, nhưng đồng thời nó lại khiến họ trở nên kiêu ngạo, nhận định không chính xác về nguồn gốc dân tộc mình.
Lại có những nhận định khiến người Việt cảm thấy xấu hổ và tự ti, như giả thuyết về bàn chân Giao Chỉ, giả thuyết này có nguồn gốc từ sách sử Trung Hoa, các sách sử như Dư Địa Chí của Cố Dã Vương (đời nhà Lương), hay sách Thông Điển của Đỗ Hữu (đời nhà Đường), các sách này giải nghĩa về từ Giao Chỉ, cho rằng từ Giao Chỉ có nghĩa là bàn chân vẹo vào, là một đặc điểm hình thể của người Việt cổ. Giả thuyết này tiếp tục được người Pháp sử dụng, tuyên truyền để tấn công vào tinh thần dân tộc của người Việt. Cách nhìn nhận của người Việt chúng ta có thể cảm nhận được rất rõ qua cách ghi chép của Phan Bội Châu, một nhà cách mạng yêu nước trong thời Pháp thuộc.
Phan Bội Châu chép trong sách Việt Nam quốc sử khảo: “Tổng hợp mấy chứng cứ trên, nhân chủng ta ngày nay có thể chắc chắn là nhân chủng người Hán. Ôi, giống rợ khắc trán, ngón chân giao nhau, nhất biến mà trở thành giống Hoa áo mũ tú nhã, tuy là cái bất hạnh của cổ nhân ta, thế nhưng lại là cái may cho hậu nhân ta vậy.”
Từ đó chúng ta thấy rằng người Việt vừa tự tin thái quá, lại vừa tự ti, vì những giả thuyết chưa chính xác về nguồn gốc dân tộc ở trên.
Các giả thuyết cả tích cực và tiêu cực ở trên nói chung đều thể hiện một tâm lý chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi các quan điểm có nguồn gốc từ lịch sử Trung Hoa. Người Trung Hoa luôn cho rằng mình là văn minh trên tất thẩy, và cũng đồng thời cho rằng người Việt là giống người man di, kém cỏi, không có văn minh, thậm chí lịch sử của họ còn có những dòng ghi chép có tính hạ nhục người Việt. Chúng ta không khó khăn gì để thấy được những ghi chép như vậy trong sách sử Trung Hoa về người Việt.
Trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, phần Nam Việt Úy Đà liệt truyện, khi chép về bức thư tạ tội của Triệu Đà: “Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”.” [1]
Hậu Hán Thư, Nhâm Duyên truyện chép: “Tục người Cửu Chân, lất săn bắn làm nghiệp chính, không biết dùng trâu cày, dân phải mua thóc gạo từ Giao Chỉ, thường thiếu thốn khốn khổ. Diên bèn bảo cho đúc lấy các đồ nông khí, dạy cho khai khẩn. Vì vậy, đồng ruộng hằng năm đều được mở mang rộng rãi thêm, trăm họ sung túc. Lại thêm dân cư Lạc Việt không có lễ pháp giá thú, ai nấy đều chỉ theo ý dâm thích của mình, không có vợ đích nhất định, không biết đến tình cha con, đạo vợ chồng.” [2]
Cách ghi chép về người Việt của lịch sử Trung Hoa là nguyên nhân chính yếu khiến người Việt trở nên tự ti, với một mặc cảm cho rằng dân tộc mình là một dân tộc không có văn minh, dị chủng, có nguồn gốc từ người Trung Hoa, phải nhờ người Trung Hoa mới có văn minh, điều này gián tiếp tạo ra những giả thuyết không chính xác về nguồn gốc như các triều đại Hạ-Thương-Chu là do người Việt tạo dựng nên.
Trong giai đoạn Pháp thuộc, người Pháp cũng đã sử dụng những thủ thuật tuyên truyền để tấn công vào tinh thần dân tộc của người Việt, họ sử dụng các phương tiện như lịch sử, khảo cổ để diễn giải với mục tiêu chính trị, nhằm tác động tới người Việt, với hệ tư tưởng cho rằng tất cả mọi đặc điểm văn hóa của người Việt đều có thể có nguồn gốc từ bên ngoài, không có gì là người Việt không mượn của bên ngoài, kể từ văn hóa, ngôn ngữ tới cách ăn mặc. Tư tưởng này vẫn còn những ảnh hưởng không nhỏ trong thời đại ngày nay, khi nhiều người Việt vẫn cố gắng tìm và diễn giải các đặc trưng văn hóa của dân tộc mình với tư tưởng cho rằng người Việt mượn của người nước ngoài, không phải là Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây thì cũng là Chăm, Thái, các dân tộc thiểu số. Những tư tưởng tương tự xuất hiện phổ biến trên các diễn đàn trên không gian mạng.
Bên cạnh những giả thuyết về nguồn gốc của người Việt mà chúng tôi đã đề cập tới ở trên, còn một hệ thống quan điểm khác cũng ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề nhận định về nguồn gốc của người Việt, đó là giả thuyết về nguồn gốc bản địa của người Việt. Giả thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam chủ trương, như Giáo sư Hà Văn Tấn [3], tác giả Trịnh Sinh [4], quan điểm này còn được hỗ trợ bởi công trình nghiên cứu di truyền của Vinmec [5].
Giả thuyết này gây ra nhiều vấn đề về nguồn gốc dân tộc, trong đó những vấn đề chính yếu, đó là tạo nên tư tưởng cho rằng mọi di sản của người Việt chỉ phát triển tại miền Bắc Việt Nam, các văn hóa tại Việt Nam là Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn có nguồn gốc từ các văn hóa săn bắn hái lượm trong miền Bắc Việt Nam, điều này cũng có nghĩa việc cho rằng các văn hóa từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn là các văn hóa nguyên thủy, kém phát triển, không có văn minh, không có nhà nước, phải nhờ tới người Hán mới có văn minh.
Cùng với quan điểm trên, thì giả thuyết này còn tạo ra sự phủ nhận gần như tuyệt đối sự liên hệ giữa người Việt và người Bách Việt, cho rằng người Việt không liên quan gì tới người Bách Việt, phát triển hoàn toàn độc lập với họ, chỉ có nguồn gốc từ Âu Việt và Lạc Việt trong hàng trăm nhóm Việt. Đây là những vấn đề có sự ảnh hưởng rộng lớn, tác động tiêu cực tới việc nhìn nhận về nguồn gốc dân tộc. Giả thuyết này liệu có cơ sở khoa học hay không, điều này sẽ được chúng tôi tìm hiểu chi tiết hơn ở phần sau đây.
II. Người Việt có nguồn gốc Đông Nam Á, có nguồn gốc Dương Tử, và có nguồn gốc tộc Việt:
Các nghiên cứu di truyền đã cho chúng ta thấy cơ bản tiến trình di cư và phát triển của người Việt, sự hình thành người Việt và cộng đồng tộc Việt.
Người Việt và người Đông Á được xác định qua di truyền học có nguồn gốc từ người cổ rời khỏi châu Phi, tới vùng Đông Nam Á vào hai đợt vào 60.000 năm và 30.000 năm trước ngày nay. [6][7]
Bản đồ thiên di rời khỏi châu Phi theo dấu chân những người mẹ (màu vàng) và những người cha (màu xanh).
Cư dân cổ rời khỏi châu Phi sinh sống tại vùng Đông Nam Á lục địa, tại vùng này họ đã xây dựng nên nền văn hóa Hòa Bình nổi tiếng, với các giai đoạn phát triển như sau:
Hòa Bình sớm hay tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 BC [trước Công Nguyên]), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 BC).
Hòa Bình giữa hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80 BC).
Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn – 1541/I).
Văn hóa Hòa Bình là văn hóa có đặc trưng đá cuội được ghè đẽo và đục lỗ. Đặc trưng văn hóa Hòa Bình phân bố khắp Việt Nam, Lào, Thái Lan và xuất hiện tại cả vùng phía nam Đông Á, bao gồm cả vùng đồng bằng sông Châu như hình minh họa phía dưới. Bên cạnh đó là những đặc điểm từng vùng như mộ táng với tư thế nằm co, mộ có nắp. [8]
Bản đồ phân bố của văn hóa Hòa Bình. [Chú dẫn bản đồ: 1. Đường gạch chéo: khu vực văn hóa Hoabinhian được nói trong bài [6]; 2. Các chấm tròn: các khu vực có đá đục lỗ; Các chấm vuông: các khu vực có táng với tư thế nằm co; 3. Vòng tròn màu đỏ: khu vực tiềm năng có người cao; vòng tròn màu xanh: khu vực tiềm năng có mộ có nắp.] [8]
Thời điểm 33.000 năm tới 20.000 năm cách ngày nay đã diễn ra đợt băng hà lớn cuối cùng, khiến mực nước biển xuống thấp ở mức 120 đến 130 mét đã làm lộ ra một vùng đồng bằng rộng lớn tại vịnh Bắc Bộ và cả vùng thềm lục địa phía Nam Việt Nam (được gọi là thềm Sundaland) [9]. Đây là nơi sinh sống thuận lợi cho người cổ rời khỏi châu Phi, bên cạnh các cư dân sinh sống trên núi của văn hóa Hòa Bình, thì có một lượng nhất định người cổ đã sinh sống tại vùng đồng bằng vịnh Bắc Bộ, kiến tạo đời sống của mình tại đây. Nghiên cứu di truyền của lúa đã chứng minh lúa được thuần hóa tại vùng xung quanh hạ lưu sông Châu tới miền Bắc Việt Nam. [10]
Bản đồ minh họa thềm lục địa lộ ra khi mực nước biển xuống thấp cực đại. [11]
Tới thời điểm 12000 năm trước, thì nước biển bắt đầu dâng trở lại [9], dần dần khiến cư dân cổ Đông Nam Á mất đất sinh sống, khiến họ phải di cư lên phía Bắc để tìm vùng đất mới. Các nghiên cứu di truyền cũng đã chứng minh cuộc di cư này của người cổ Đông Nam Á lên phía Bắc, họ di cư tới vùng trung lưu và hạ lưu Dương Tử và còn đi xa hơn thế về phía bắc Đông Á tại vùng đồng bằng sông Hoàng Hà.
Nghiên cứu của J.Y. Chu và cộng sự năm 1998 đã đưa ra kết luận người Đông Á có nguồn gốc từ người Đông Nam Á di cư lên. Nhóm dân cư này có nguồn gốc từ châu Phi đã đi đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á từ nhiều năm trước. [12]
Tổ chức bộ gen người Hugo với công trình “Mapping human genetic diversity in Asia” đăng trên tạp chí Science năm 2009, nghiên cứu kiểu biến thiên hình thái gen trên 73 sắc dân châu Á và 2 sắc dân ngoài châu Á, đã xác định người Đông Nam Á là nguồn gốc chính của người Đông Á. [13]
Kết quả nghiên cứu di truyền của Hua Zhong và cộng sự năm 2010, cũng cho thấy người Đông Á có nguồn gốc chính là từ Đông Nam Á.[14]
Nghiên cứu của Chuan Chao Wang và cộng sự năm 2013 [15] đã phát hiện một dòng di cư rất lớn từ Đông Nam Á vào thời điểm 12.000 năm trước lên vùng Động Đình, Dương Tử, dòng di cư này cũng đã đi lên cả vùng đồng bằng sông Hoàng Hà.
Bản đồ thiên di của những người cha cho thấy dòng di cư lên phía Bắc vào thời điểm hơn 10.000 năm trước ngày nay của người cổ Đông Nam Á. [16]
Các cư dân cổ có nguồn gốc Đông Nam Á tại đây đã xây dựng nên các văn hóa lớn trong thời Đá mới, trong đó bao gồm các văn hoá Cao Miếu (Gaomiao, 5000 – 3500 BC), Hà Mẫu Độ (Hemudu, 5000 – 4500 BC), Mã Gia Banh (Majiabang, 5000 – 3000 BC), Lăng Gia Than (Lingjiatan, 3800 – 3500 BC) tại vùng Động Đình, Dương Tử với nông nghiệp lúa nước [17], và các văn hóa Hồng Sơn (Hongshan, 4700 – 2900 BC), Đại Vấn Khẩu (Dawenkou, 4300 BC – 2400 BC), Ngưỡng Thiều (Yangshao, 5000 BC – 3000 BC) tại vùng Bắc Đông Á với nông nghiệp trồng cả lúa và kê [18].
Bản đồ minh họa nguồn gốc và tiến trình phát triển của các văn hóa cổ Đông Á của người cổ Đông Nam Á, người tiền Việt và tộc Việt. Bản đồ thể hiện vị trí và phân bố tương đối của các văn hóa lớn thời Đá mới tại vùng bắc Đông Á và nam Đông Á. (Dựa theo Liu Li và Chen Xingcan (2012) trong The Archaeology of China: From the Late Paleolithic to the Early Bronze Age.)
Tại các văn hóa phía Bắc Đông Á, thì cư dân cổ gốc Đông Nam Á đã hòa hợp với người cổ Bắc Á với dấu tích tại hang Devil’s Gate, chuyển hóa thành chủng da vàng. Thành phần gen của người Việt và người Dai thuộc hai hệ ngữ Nam Á và Tai-Kadai đã thể hiện rất rõ sự hòa hợp này. [19]
Gen người Việt và người Dai ngày nay có tỉ lệ: 60% gen Dương Tử, 30% gen Bắc Á (Devil’s Gate), và 10% gen Hòa Bình cổ. [19]
Tới thời điểm 5300 năm trước ngày nay, thì cư dân tại vùng bắc Đông Á di cư về vùng Động Đình, Dương Tử để hình thành tộc Việt, xây dựng nên các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, trong gen của người Việt có 30% gen của người Bắc Á với dấu tích tại hang Devil’s Gate, cùng với đó là 60% gen tại vùng Dương Tử thể hiện rõ cuộc di cư này. [19] Tới thời điểm đó thì cư dân tộc Việt chỉ ở tại vùng Dương Tử, chưa di cư về phía Nam.
Vào thời điểm văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, cư dân cổ Đông Á bắt đầu hình thành ý thức dân tộc Việt, với biểu tượng Việt được hình thành từ hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu.
Tên Việt của cộng đồng Việt có nguồn gốc từ hình ảnh chiếc rìu của văn hóa Đại Vấn Khẩu và Lương Chử, sau đó được cư dân văn hóa Thạch Gia Hà kế thừa, phát triển thành hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu, đội mũ lông chim (số 15, hình dưới) trên bình gốm trong ngôi mộ của một thủ lĩnh văn hóa Thạch Gia Hà (hình ảnh này sau đó đã được kế thừa trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, rất phổ biến hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu tương tự văn hóa Thạch Gia Hà). Chữ Việt được phát triển lên từ hình ảnh đó. Ý nghĩa biểu tượng người cầm rìu ngọc là vượt lên trên (người khác), giống với ý nghĩa chữ Việt (vượt) ngày nay chúng ta đang dùng. Tên “Việt” theo nghĩa thông thường là tộc những người sử dụng rìu lễ khí và biểu thị quyền lực, nghĩa bóng là vượt qua.
Biểu tượng Việt và chữ Việt theo thời gian. 1-2: Biểu tượng Việt (rìu ngọc) ở văn hóa Đại Vấn Khẩu [20]. 3-6: biểu tượng ngôi sao 8 cánh, rìu ngọc, hình chữ nhật có đường chéo, hình mũi tên trên bình gồm của văn hóa Lương Chử [21]. 7-10: chữ Việt (nghĩa là cái rìu, búa) ở dạng giáp cốt văn, kim văn, triện văn, khải thư [22]. 11-14: chữ Việt (vượt qua, nước Việt…) ở dạng kim văn (11-12), triện văn, khải thư [23]. 15: Bình gốm có khắc biểu tượng thủ lĩnh cầm rìu [24]. 16: Hình người cầm rìu trên trống đồng Miếu Môn [25]. [26]
Tới thời điểm hơn 4000 năm trước ngày nay, đã xảy ra nạn hạn hán ở vùng Dương Tử [27], khiến cho nền văn minh tại đây sụp đổ, các cư dân tộc Việt sau đó đã di cư về Lĩnh Nam, Việt Nam và Đông Nam Á [28][29]. Trong đó nhóm chính đã trở về Việt Nam, định cư tại vùng Phú Thọ, xây dựng nên văn hóa Phùng Nguyên. Nhiều nghiên cứu đã thể hiện cuộc di cư này của cư dân tộc Việt.
Nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck Đức, Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion Pháp năm 2019 đã thể hiện người Việt có nguồn gốc chủ yếu là những người di cư từ Nam Đông Á về Việt Nam cách đây từ 2.700 – 4.000 năm trước [28].
Nghiên cứu gen của Hugh McColl và các cộng sự năm 2018 [29] (hình 9) cũng có quan điểm tương đồng với nghiên cứu của Viện hệ gen Việt Nam hợp tác với các chuyên gia Pháp, Đức. Cả hai nghiên cứu di truyền trên đều dựa trên các bộ gen cổ và các bộ gen hiện đại.
Mô hình di cư ở Đông Nam Á thời tiền sử được xây dựng nên gồm 2 lớp từ châu Phi tới Đông Nam Á vào khoảng 30.000-60.000 năm trước và từ Đông Á di cư ngược về cách đây 2.700 – 4.000 năm. [29]
Các tuyến di cư chính giữa Nam Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại. [29]
Văn hóa Phùng Nguyên có nguồn gốc chính từ cư dân vùng Dương Tử thuộc chủng Nam Mongoloid di cư về [28][29]. Theo các nghiên cứu di truyền và ngôn ngữ thì văn hóa Phùng Nguyên có thành phần chủ yếu là cư dân nói tiếng Nam Á [30]. Từ văn hóa Phùng Nguyên người Việt tiếp tục phát triển tới văn hóa Đông Sơn, đây là hai văn hóa có chung một chủ nhân là cư dân Nam Á có nguồn gốc từ vùng Dương Tử, [28][29] với thành phần chủ yếu là cư dân tại vùng trung lưu Dương Tử tại hồ Động Đình.