Việt Bào Phạm Văn Bản
19/01/2025
".. Tóm lại trong một ngày gần đây, người Việt Nam sẽ tự mình giải thoát khỏi tình trạng lệ thuộc trong chính trị và kinh tế của Chủ Nghĩa Cộng Sản như đã nói trên, vì không có một sự đàn áp nào có thể giúp cho con người tiến hóa và thăng hoa được. Mặt khác, tinh hoa của một dân tộc chỉ có thể được đúc thành khối, một khi hệ thống chính quyền có được sự đồng thuận của người dân qua lá phiếu.".
Tư tưởng Tự Do Kinh Tế trong Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) đã được hệ thống hóa do ông Adam Smith (1723-1790), là người Anh viết trong tác phẩm Sự Thịnh Vượng của các Quốc Gia (The Wealth of Nations) phát hành năm 1776 được gọi là Chủ Nghĩa Tư Bản (Capitalism) hay Tự Do Kinh Doanh (Business Freedom).
Theo nền Kinh Tế Tư Bản (Capitalist Economy) thì thương gia được tự do buôn bán, khách hàng được tự do mua sắm, công nhân được tự do lựa chọn ngành nghề, và người ta được tự do chọn chủ, chọn hàng và chọn thị trường tự do hoạt động, không có sự can thiệp, không có luật lệ ngăn cấm, không có khuynh hướng điều hành của các cấp chính quyền.
Giải thích nguyên tắc xây dựng một Thị Trường Tự Do Kinh Doanh, theo Adam Smith là sự “Để Mặc Tự Nhiên: Leave It Natural” có nghĩa là tự nhiên sản sinh, tự nhiên phát triển, tự nhiên điều hành, và tự nhiên tồn tại. Mặc dù có nhiều thay đổi về giá cả tăng giảm, lên xuống, trồi sụt, hơn thua của phẩm chất hay số lượng sản xuất, của chi phí lương bổng nhân công, của giá thành bảo quản nhà kho, của quảng cáo thông tin đại chúng… nhưng nền kinh tế thị trường tự do sẽ Tự Điều Chỉnh (Self-Regulation).
I. Tự Do Cá Nhân (Personal Freedom)
Kinh Tế Tư Bản đã đặt căn bản trên sự Tự Do Cá Nhân. Mỗi người được tự do chọn lựa phương cách thương mại của riêng mình, để thỏa mãn những nhu cầu mong muốn hay ước vọng của chính họ.
Cá nhân được tự do đem tham vọng vào thương trường để cạnh tranh với các tham vọng của những cá nhân khác bằng sản phẩm hàng hóa tốt, rẻ, đẹp, giá cả phải chăng và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhu cầu của thị trường.
1. Quyền Tự Do Cá Nhân (Personal Freedom) được xem là tiêu chuẩn đầu hạng của mẫu người tín nghiệp hay người kiến thức trong thời đại mới. Quyền tự do cá nhân đã được người bản xứ cổ súy, tôn trọng và được ghi trong Hiến Pháp Hoa Kỳ từ khi khởi sự thời đại công nghiệp.
Quyền này đã tạo cho người dân biết suy nghĩ, biết nhận xét, biết quyết định về những tư tưởng, sự vật, sự kiện mà mình được chọn lựa để mình được làm chủ chính mình. Người ta hành động theo nguyên tắc tự do lựa chọn (Freedom to choose), không bị ai lôi kéo, không bị ai sai khiến, không bị ai ép buộc, chỉ đạo, động viên, tảy não, học tập cải tạo hay tuyên truyền một chiều hoặc độc tài.
2. Quyền Tự Chủ (Free) thể hiện qua sự tự do lựa chọn, tự quyết về hành động của chính mình, tức là người ta có quyền lựa chọn một trong hai (tư tưởng, sự kiện, sự vật) sẵn có, mà không bị ép buộc, không bị hạn chế, không bị lệ thuộc bởi tác động bên ngoài. Người Hoa Kỳ có lối sống riêng biệt, từ cách thức sinh hoạt cho tới thói quen hành xử hàng ngày, quyền tự do cá nhân là bất khả xâm phạm, luôn được bảo vệ và sẵn sàng phản kháng.
Từ quyền tự do cá nhân được thể hiện phổ quát dẫn tới những quyền tự do trong sinh hoạt cộng đồng xã hội có tầm kích rộng lớn được suy tôn, như tự do phát biểu và diễn đạt tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do truyền thông… trở thành điều kiện quan trọng và là nhu cầu thiết yếu trong đời sống chính trị xã hội Hoa Kỳ.
3. Quyền Độc Lập (Independence) cũng là nét đặc trưng của người Hoa Kỳ. “Độc lập tự lực” là tự mình hành động, tự động là không ỉ lại, không nương tựa, không lệ thuộc, không ua dua theo bất cứ ai hay đảng phái phe nhóm nào. Người Hoa Kỳ thể hiện tinh thần độc lập, tự lập, tự túc, tự cường trong nguyên lý “tự do cá nhân,” và mong đợi người khác cũng hành xử như họ, để được xem là bình đẳng với nhau.
Nếu con người không có tinh thần độc lập, không tự hào về quyền tự lực cánh sinh của mình thì lại tự biến thành người nô lệ tân thời hay sinh vật kinh tế phục vụ tư bản đầu cơ (Speculator Capitalism).
4. Quyền Bình Đẳng (Equality) là điều kiện tối thượng của nhân quyền được xác quyết trong Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, “mọi người sinh ra đều bình đẳng.” Bình đẳng để thăng tiến, để thành công, để đạt được hạnh phúc làm người. Bình đẳng trong luật pháp, bình đẳng trong hãng xưởng, bình đẳng trong học đường, bình đẳng trong xã hội, sắc tộc hay giới tính.
Muốn có bình đẳng, bình quyền, bình nhiệm thì chúng ta cần thực hành những quyền nói trên. Bình đẳng có nghĩa là thượng tôn luật pháp và khác biệt với đồng đẳng vô nhân tính, hay sinh quái thai Cá Nhân Vị Kỷ (Personal Ego) là điều xấu xa!
Tóm lại, quyền tự do cá nhân đã tạo ra mẫu người có khả năng nhận định (Identify) và ý thức trách nhiệm (Responsi-bility). Người Hoa Kỳ sống ngay thẳng, cởi mở, thành thật, giữ kỷ luật, đúng giờ và luôn tìm tòi, học hỏi, sáng tạo. Người Hoa Kỳ sống không bảo thủ, cố chấp, khuôn định và nhìn về cuộc sống tương lai với tinh thần lạc quan, tự tin tự hào.
Lịch sử chính trị Hoa Kỳ từ ngày lập quốc tới nay trải qua bao nhiêu thử thách, lúc thăng lúc trầm, lúc thịnh vương lúc gian nan, nhưng chính sự nền phát triển tự do dân chủ của quốc gia đã làm cho dân chúng luôn tin tưởng về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Tự lực và tự tin vào cá nhân để hướng về tương lai với niềm tự hào của dân tộc chớ người Hoa Kỳ không mê tín dị đoan, số phận, hay định mệnh.
II. Tự Do Cạnh Tranh (Freedom of Competition)
Cũng theo Adam Smith, Tự Do Cạnh Tranh là Bàn Tay Vô Hình (Invisible Hand) là cơ giới an toàn tự động để nền kinh tế tự điều chỉnh. Ngoài sự cạnh tranh giữa các thương gia, còn có sự cạnh tranh của giữa thương gia và khách hàng, hoặc giữa thương gia và công nhân.
Một trong những sáng tạo kỹ thuật mang lại hiệu qủa là Hệ Thống Dây Chuyền (Chain System). Trong hệ thống dây chuyền, sự phân chia công việc là yếu tố quan trọng.
Adam Smith quan sát và nói rằng, “Mười người với sự trợ giúp của dụng cụ và máy móc, có thể sản xuất được bốn mươi tám ngàn cây kim trong một ngày, nhưng nếu làm việc riêng rẽ thì chắc chắn mười người không thể làm xong hai mươi cây kim, và cũng không thể làm xong một cây trong một ngày.” Về ảnh hưởng tâm lý, hệ thống dây chuyền có thể làm cho con người cảm thấy mình không còn là người trọn vẹn, vì lúc trước người thợ làm giày từng đôi, nhưng bây giờ chỉ làm cái quai, cái đế, cái nút mà lại có nhiều đôi giày.
Bởi thế, người thợ khó nhận định được giá trị của mình trong xã hội mới, và cảm nhận buồn vì mình chỉ là mắt xích, hay con ốc nhỏ trong bộ máy khổng lồ!
Hơn nữa, hệ thống dây chuyền có thể là nơi người chủ bóc lột sức lao động của công nhân. Tốc độ của máy là then chốt của số lượng sản xuất, người chủ muốn có nhiều sản phẩm để đạt lợi nhuận cao, thường tăng tốc làm máy chạy nhanh tới mức tối đa, trong khi tiền lương người thợ vẫn trả từng giờ như cũ.
Bời thế, mồ hôi và sức sống con người trong xã hội công nghiệp có thể bị vắt ra để tạo lợi nhuận cho chủ. Tóm lại, quyền tư hữu tuyệt đối đã sinh ra mâu thuẫn, tức là quái thai cộng sản.
III. Tư Bản Luận
Chống lại Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) và Chế Độ Tư Bản (Capitalist Regime) Karl Heinrich Marx (1818-1843), nhà nước sẽ quản lý các xưởng công nghiệp và nông nghiệp, rồi sản xuất và phân phối hàng hóa xuống tay người tiêu thụ, nhân loại sẽ tránh được bất công.
Vì trong hệ thống kinh tế tư bản, Sản Phẩm (Product) phải qua nhiều giai đoạn trung gian phi sản xuất, mỗi giai đoạn lại cộng thêm phí tổn chuyên chở, tiền kho chứa hàng, tiền dịch vụ bảo quản, tiền lời… rồi mới tới tay người tiêu thụ. Do đó giá sản phẩm sẽ luôn tăng giá cao và gây ra bất ổn cho nền kinh tế xã hội; hơn thế nữa, sản phẩm lại tập trung trong tay của một số tư nhân, gia đình, giòng tộc hay công ty độc quyền khai thác.
Mặt khác vì làm lời bằng sức lao động, cho nên mâu thuẫn giữa chủ và thợ, là nguồn gốc của trạng thái căng thẳng, để dẫn đến hậu qủa cuối cùng là hệ thống tư bản xụp đổ. Kinh qua Tư Bản, nền Kinh Tế Cộng Sản (Communist Economy) tự nó thiết lập những công xưởng với dụng cụ máy móc, đồng thời cũng đào tạo lớp người chuyên viên mới, cho xã hội mới – chủ nghĩa xã hội phát sinh.
Chủ nghĩa này bắt đầu bằng “sự độc tài của giai cấp vô sản” là nền kinh tế không giai cấp, không bóc lột. Sau cùng là chủ nghĩa cộng sản nguyên vẹn ra đời, và là “thiên đường cộng sản/ hay niết bàn kinh tế chính trị” của loài người!
Nhưng lý thuyết Karl Marx đã dẫn người viết vào tù cải tạo 7 năm ở Việt Nam, và đã trở thành thất bại! Vì để giải quyết vấn đề bất quân bình, chẳng phải là triệt tiêu các khâu trung gian phi sản xuất, mà chính hệ thống Tư Bản đã tạo ra mạng lưới thị trường để giải quyết những vấn đề bất quân bình trong sản xuất và phân phối đó, và chính Marx đã không nhận ra điều này trong Tư Bản Luận của ông.
Nhiều công ty tư bản trên thế giới đã thấy ưu điểm của hệ thống mạng lưới và đã áp dụng mở rộng thị trường, họ dự tính cho nhu cầu tương lai theo đà biến chuyển chính trị, và thay đổi thể chế dân chủ thế giới.
Trong “Tư Bản Luận,” Marx tiên đoán về sự xụp đổ có thể xảy ra của nền Kinh Tế Tư Bản, vì kinh tế tự do trở thành phương tiện cho các công ty thẳng tay sát phạt nhau. Hậu qủa của tự do cạnh tranh là “mua đứt: buy all” các công ty nhỏ, để trở thành công ty lớn độc quyền sản xuất và phân phối.
Nhưng một khi công ty lớn phá sản, hoặc chuyển nhượng sự độc quyền thao túng, thì thị trường thì lên cơn sốt, và làm cho giá cả sản phẩm tăng giảm tùy theo sự chạy đua lợi nhuận của giới chủ. Khách hàng cũng chỉ là công nhân tiêu thụ trong xã hội, không còn quyền lựa chọn nào khác.
Theo Marx, sự tự do cạnh tranh thị trường tạo ra công ty độc quyền, và độc quyền sẽ triệt tiêu quyền tự do lựa chọn của khách hàng, của công nhân. Khi kỹ thuật sản xuất phát triển, số lượng công ty trong ngành công nghiệp chỉ còn có một, độc quyền thì nhu cầu nhân công trong kỹ nghệ cũng giảm theo, và công ty giảm năng xuất, tăng giá cả để có thêm lợi nhuận.
Công ty độc quyền tự do bóc lột sức lao động của người thợ, vì dân chúng cần có việc làm để sinh sống. Hơn nữa công nhân lại cũng chính là khách hàng, và số lượng sản xuất giảm dần trong khi dân số tăng thêm.
Từ đó, sự mua bán xuống dốc và các công ty ngưng đầu tư. Cũng theo Marx, ngưng đầu tư thì việc làm càng thêm hiếm hoi, và xẩy ra tình trạng thất nghiệp, nền kinh tế tư bản càng mãi lún sâu vào nợ nần, cho tới khi chính nó xụp đổ.
Đọc Tư Bản Luận, người viết cũng đồng ý một phần với Karl Marx rằng, “Sự xụp đổ vĩ đại của nền kinh tế tư bản qủa thật đã có xảy ra vào thập niên 1930,” tạo ra như cơn sóng thần đổ xuống đầu toàn thể nhân dân Hoa Kỳ, với bao nỗi kinh hoàng! Một nửa giá trị tổng sản lượng đã biến mất, một phần tư dân số thất nghiệp.
Hơn một triệu gia đình bị tịch thu nhà cửa, vì mất việc và không trả tiền nợ nhà hàng tháng. Chín triệu trương mục tiết kiệm tiêu tan, nhiều nhà băng phải đóng cửa vì xập tiệm
Nếu như số lương bổng và lợi tức ước tính vào năm 1929 của Hoa Kỳ là 15 tỷ, thì đến năm 1932 chỉ còn 886 triệu. Người nghèo thì nghèo thêm.
Người giàu với khoản tiền kếch xù không biết đem đi đầu tư ở đâu… Và cứ thế, đến nỗi chính quyền Liên Bang phải dùng ngân sách quốc gia đầu tư vào hệ thống thị trường, nhằm tạo ra công ăn việc làm, thúc đẩy sức vận chuyển của nền kinh tế và mong sớm có ngày khôi phục.
Chính phủ Hoa Kỳ phải can thiệp, vì sợ rằng dân chúng lúc đó cũng bắt đầu nổi loạn. Với “Tư Bản Luận” và chứng cớ khủng hoảng của nền kinh tế tư bản trước mắt, thì ắt có nhiều người tin Marx, vì họ không am tường về nền chính trị dân chủ và kinh tế tự do.
Nhưng Marx đã sai lầm (Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng: Mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa). Nền kinh tế tư bản tuy có xụp đổ, nhưng không dãy chết để dẫn đến chủ nghĩa xã hội như ước mơ của Marx. Vì xã hội Hoa Kỳ đã không có chế độ phong kiến, nên không có giai cấp bóc lột như Marx từng thấy ở nền kinh tế truyền thống Châu Âu, và đây chính là sự nhận thức của người viết về Quyền Tự Do Cá Nhân, khác biệt với Vị Kỷ Cá Nhân như đã trình bày phần trên.
Mặt khác nền kinh tế Hoa Kỳ mạnh nhất thế giới, là nhờ vào truyền thống chính trị dân chủ. Dân chủ có nghĩa là được tự do tư tưởng và tự do diễn đạt.
Khi người dân được tự do ngôn luận và liên lạc, hệ thống truyền thông nâng cao khả năng nhận thức của toàn dân, thì người ta sẽ tự suy xét và tự quyết định những vấn đề có ảnh hưởng, hay liên hưởng trực tiếp đến họ. Sự tự do tư tưởng và tự do diễn đạt đã tạo ra môi trường, làm cho sức sống sáng tạo của toàn dân phát sinh trên các bình diện văn hóa, văn minh, kỹ thuật, công nghiệp, tín nghiệp.
Và sức mạnh của xã hội Hoa Kỳ, bất cứ phương diện nào cũng là sức mạnh của truyền thông. Khi sự hiểu biết của tòan dân được nâng cao, tới mức họ có ý thức được những điều mang lại lợi ích chung, thì họ sẽ đồng thuận.
Nguyên tắc đồng thuận chính là một phương thức vận động sức mạnh dân tộc tối đa của một quốc gia. Nhất là trong thời đại văn minh, khi con người đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của mọi người vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, nhưng họ luôn có tự do quyết định.
Đây là mấu chốt phát triển của nền kinh tế tư bản mà chính Marx khó ngờ. Đối với Marx, ông chỉ nhìn kinh tế tư bản qua chế độ phong kiến Châu Âu, đã thiết lập từ khi có sự chiến thắng các nền văn hóa du mục, văn hóa nông nghiệp để duy trì kinh tế “pháp lệnh” mà sinh ra giai cấp đặc quyền đặc lợi.
Cũng bởi Marx coi chủ nghĩa tư bản và văn hóa du mục của Châu Âu là một, mà không thấy sự khác biệt của Hoa Kỳ, nên ông đã sai lầm khi đưa ra nguyên lý “mâu thuẫn nội tại,” và bởi đó, chế độ cộng sản cũng rập khuôn theo cấu trúc của văn hóa du mục và nếp sống săn hái trong Thời Đại Tiền Sử (PreHistory Age) mà ra. Cho nên chúng ta dễ thấy những cán bộ Cộng Sản tham nhũng, vì tham nhũng hối lộ là lối kiếm ăn sinh sống theo kiểu Săn Hái Hoành Tráng nhất của thời đại du mục, thời đại tiền sử, thời đại khỉ vượn mà ông Hồ là một!
IV. Kết Luận
Tóm lại trong một ngày gần đây, người Việt Nam sẽ tự mình giải thoát khỏi tình trạng lệ thuộc trong chính trị và kinh tế của Chủ Nghĩa Cộng Sản như đã nói trên, vì không có một sự đàn áp nào có thể giúp cho con người tiến hóa và thăng hoa được. Mặt khác, tinh hoa của một dân tộc chỉ có thể được đúc thành khối, một khi hệ thống chính quyền có được sự đồng thuận của người dân qua lá phiếu.
Sau cùng những chủ nghĩa trong đời sống con người chỉ là những ý niệm căn bản cho sự hiểu biết chung, và không có chủ nghĩa nào có thể lột tả được vũ trụ đời sống của lòai người, cho nên mỗi vấn đề đều có nhiều phương cách giải quyết. Và các vấn đề phải được giải quyết bằng sự hội ý của những người có liên quan trực tiếp.
Với viễn tượng của một tương lai Việt Nam đó, chúng ta cần phác họa một chương trình phục hồi và phát huy Sức Sống Tiên Rồng của Dân Tộc Việt Nam, nhằm phục hồi và phục hoạt Xã Hội Đồng Bào, thân thương và bình đẳng của Một Bọc Trăm Con của Chính Thuyết Tiên Rồng như trong cuốn sách KINH (tư tưởng của dân tộc Kinh, VN) mà tác giả đã phác họa và trình bày rõ ràng vậy.
Phạm Văn Bản
Công Bằng Xã Hội (Social balance)
Trả lờiXóaSự bình đẳng của Hoa Kỳ đã không mặc nhiên mà có, mà hưởng, mà phải trải qua bao cuộc tranh đấu Chống Bất Công Xã Hội và Phân Biệt Chủng Tộc (Fighting Social Injustice and Racism) bằng xương máu, bằng nước mắt và bằng cả sinh mạng lẫn tài sản của nhiều Công Dân Hoa Kỳ (US Citizen) với những cuộc biểu tình đẫm máu và chết người xưa nay, để bảo đảm cho quyền tự do cá nhân mà toàn dân được hưởng nhờ.
Người viết cũng phải thừa nhận rằng, nhìn chung thì chính quyền của bất cứ quốc gia nào cũng có nhóm người hưởng đặc quyền đặc lợi (Privilege), hưởng nhờ thành quả công sức lao động của toàn dân nước trong quốc gia đó. Và chính nhóm người hưởng đặc quyền đặc lợi đã không trực tiếp tham gia sản xuất những giá trị khả dụng, mà ngược lại chính họ đã gây ra Bất Công Xã Hội và Kỳ Thị Chủng Tộc (Social Injustice and Racial Discrimination) như tại Hoa Kỳ hiện nay.
Phải thành thật mà nói rằng, nhóm người đang được hưởng đặc quyền đặc lợi trong xã hội Hoa Kỳ là Tư Bản Đầu Cơ (Speculator Capitalism). Lớp người giầu có tỷ phú hoạt đầu này đang hoạt động mua bán các công cụ tài chính như ngoại tệ, cổ phiếu, trái phiếu… nhằm mục đích là “săn hái” để kiếm tiền thêm, không bao giờ ngừng nghỉ, vì rằng săn hái là hoạt động kiếm ăn dễ dàng nhất của con người đã thuộc long từ thời tiền sử, cho tới thời họ được làm ra luật pháp như ngày nay, vì luật pháp là bảo vệ cho tài sản của họ.
Tiếp đến Tư Bản Đầu Cơ là sự tích luỹ của quá trình hình thành tỷ lệ lãi chung của hệ thống tư bản, và giá trị giao dịch của hoạt động đầu cơ tích trữ này là rất lớn, lớn đến nỗi khó ngờ!
Mặt khác, Tư Bản Đầu Cơ không tồn tại độc lập với Tư Bản Kinh Doanh Sản Xuất (Entrepreneurial Capitalism), mà chúng đứng trên đầu, trên cổ của Tư Bản Sản Xuất, chúng giám sát hoạch định và điều khiển Tư Bản Sản Xuất để chiếm phần đặc lợi và vơ vét cho đầy túi tham, mà Karl Marx gọi là Quyền Tư Hữu Tuyệt Đối sinh ra mâu thuẫn hay sinh ra Cộng Sản!
Theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế xã hội, chỉ tính riêng lượng tiền được luân chuyển trong thị trường tài chính hàng ngày của Hoa Kỳ cũng lên tới khoảng 25 nghìn tỷ Mỹ Kim. Hoa Kỳ hiện nay đang có khoảng 10 phần trăm số người giầu có (Tỷ Phú: Billionaire) đang nắm giữ tổng sản lượng quốc gia, và là nhóm đặc quyền đang gây bất công xã hội vì họ được hưởng lợi vượt quá nhiệm vụ của họ.
Ví dụ điển hình hàng ngày là giới đặc quyền Hoa Kỳ có thể kiếm hàng triệu Mỹ Kim, đang khi 90 phần trăm giới công nhân lao động thì nghèo khổ, lãnh đồng lương rẻ mạt, và chịu sưu cao thuế nặng. Người viết phải làm việc trong hãng xưởng và đóng thuế thu nhập hằng ngày, hằng tháng và hằng năm cho nên hiểu rõ về thuế khóa!
Không giống Tư Bản Tài Chính (Financial Capital) thì Tư Bản Đầu Cơ không tạo ra giá trị thặng dư, mà nó chỉ phân bổ lại giá trị thặng dư đó mà thôi. Do đó Tư Bản Đầu Cơ không tái đầu tư để thuê thêm nhân công, không mở rộng sản xuất, không mua nguyên vật liệu hay công nghệ mới.
Thay vào đó, lượng tiền của Tư Bản này chỉ dùng vào các hoạt động đầu cơ, trong đó các nhà Đầu Tư Đánh Cược (Stake – Stakeholer Capitalism) với những biến động trong giá cã của thị trường chứng khoán với các công cụ tài chính mà nhằm kiếm tiền.
Bởi thế người viết xin tóm gọn rằng, chỉ có Tư Bản Kinh Doanh và Sản Xuất là điều cần được phát huy, phát hành, phát triển và đẩy lùi hoạt động đầu cơ tiền tệ, chứng khoán, bất động sản nhằm mục đích ưu tiên cho sản xuất, để tạo ra của cải cho xã hội mới và thực hành công cuộc Cải Hóa Con Người như trong Học Thuyết Tiên Rồng mà người viết mong ước.
Phạm Văn Bản