Phần 1, phần 2 và phần 3
Gồm 7 phần
Chu Sơn
21/4/2025
LGT: Bài viết của tác giả Chu Sơn, trò chuyện với tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng nhân ngày 30 tháng 4, đã được thực hiện năm 2010 và đã được đăng tải trước đây, nay tác giả gửi tới Tiếng Dân và nhờ phổ biến phổ biến nhân dịp 50 năm, ngày 30 tháng 4. Bài phỏng vấn khá dài, chúng tôi chia làm nhiều kỳ để đăng. Sau đây là nội dung bài phỏng vấn:
***
TS Huỳnh Văn Tòng. Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
Huỳnh Văn Tòng: Đất nước chưa có độc lập, hòa bình, thống nhất; dân tộc chưa có tự do và hạnh phúc như chúng ta đã mơ tưởng, như đảng Cộng sản đã rêu rao và tiếp tục lảm nhảm. Hết nô lệ Pháp, Mỹ, chúng ta đang nô lệ Tàu. Hết bị áp bức bóc lột bởi chế độ vua quan chuyên chính, chúng ta đang bị đàn áp bóc lột tồi tệ hơn, triệt để hơn bởi bạo quyền lý Toét, xã Xệ, thị Nở và Chí Phèo: Đảng Cộng sản. Sau hơn một thế kỷ rưỡi chiến tranh, chết chóc, đọa đày và đổ nát để rồi chúng ta có được ngày nay sao?
***
Lời giới thiệu từ Chu Sơn: Không giẫy nẩy chối từ: Tôi quên, tôi quên… để bày tỏ một thái độ giận dỗi, tuyệt vọng trước những băng hoại, hư đốn cùng cực của guồng máy toàn trị mà mình đã có một thời liên đới. Cũng không nắm bắt cơ hội để gỡ gạc một chút hư danh khi nghe tôi đề nghị cùng nhớ về cái mốc điểm lịch sử đặc biệt ấy (30 tháng 4 năm 1975), tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng buồn rầu và nhỏ nhẹ:
– Ông Chu Sơn muốn gì? Góp thêm một tiếng nói lạc lõng trong các chiến dịch truyền thông định kỳ cứ lặp đi lặp lại hàng năm suốt hơn một phần ba thế kỷ và ngày một nhạt nhẽo, nhàm chán ấy sao? Nếu là như thế thì xin cho tôi được miễn trừ.
Ông thấy đó, tuổi tác và bệnh tật đã làm cơ thể tôi ngày một rã rời, ký ức thì đã sút giảm rất nhiều. Tôi quên vì lý do sức khỏe, chứ không vì giận vì lẫy. Tuy nhiên, nhớ nghĩ và vận dụng nó để làm cái việc chẳng những vô ích mà còn có khả năng đào sâu thêm cái hố chia rẽ, thù hận vốn đã rất to, rất sâu trong đời sống của dân tộc mãi cho đến thời điểm này thì tôi quyết không làm.
Bên này, 30 tháng 4 mới chỉ là mốc điểm của độc lập, thống nhất một cách hình thức và tương đối trên bình diện lãnh thổ.
Bên kia, 30 tháng 4 trở thành ngày quốc hận.
Bên này – Bên kia, 30 tháng 4 là đỉnh của Pyrénées ngày một cao trước những băng hoại đến cùng cực của guồng máy cường quyền đầy tính chất bản năng và hủ bại. Dù chỉ là hạt bụi, tôi cũng không để mình tham dự vào cái quá trình đào sâu, đắp cao sự đổ vỡ tan tác mà đất nước, dân tộc cần phải cấp thiết vượt qua.
Chu Sơn: Tôi đồng ý với anh Tòng về cung cách ứng xử và ý tứ trong những câu, những từ anh vừa nói. Rằng chúng ta không nên làm công cụ tuyên truyền một cách trơ trẽn đầy tính chất xôi thịt vào thời điểm và bối cảnh xã hội tồi tệ này. Nhưng thêm một tiếng nói để làm sáng tỏ hơn các tư liệu đã được phổ biến giúp các nhà nghiên cứu tiếp cận đầy đủ sự thật lịch sử để đáp ứng nhu cầu chính đáng cho các thế hệ độc giả không phải là người trong cuộc, thiết nghĩ là trách nhiệm không thể chối từ trước khi quá muộn, anh Tòng thấy thế nào?
Huỳnh Văn Tòng: Theo ông Chu Sơn thì chúng ta bắt đầu từ đâu?
Chu Sơn: Bắt đầu từ chính anh, Huỳnh văn Tòng, được không?
Huỳnh Văn Tòng: Này nhé, tôi đề nghị chúng ta bắt đầu từ thành phần – lực lượng chính trị thứ ba. Bởi không bắt đầu từ cái thứ ba ấy, chúng ta đã không gặp nhau. Ông ở tận ngoài Huế, tôi ở bên Tây mới về chưa được bao lâu. Tôi cũng lưu ý ông Chu Sơn một điều là không nên đòi hỏi ở tôi sự mạch lạc, chỉnh chu, sách vở tờ a, tờ b trong tình trạng sức khỏe hiện tại.
Chu Sơn: Đồng ý. Tôi nghe anh đây.
Huỳnh Văn Tòng: Ngay từ lần đầu gặp mặt, năm 1973, tôi và anh đều nhất trí là không có lực lượng chính trị thứ ba, mà chỉ có thành phần chính trị thứ ba. Bởi giữa hai lực lượng tham chiến hung hãn, giàu mạnh là Mỹ – Thiệu và kháng chiến Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và phe Xã hội chủ nghĩa), trong lòng các đô thị miền Nam vào thời điểm ấy (1973) không có một thế lực nào được gọi là lực lượng thứ ba có đủ sức mạnh đóng vai trò trung gian hòa giải như Hiệp định Paris đã đề ra cả.
Bản thân chính trị can thiệp Mỹ không tồn tại trong đầu óc các nhà làm chính sách của tòa Bạch Ốc, Bộ Ngoại giao và Tòa Đại sứ tại Sài Gòn một ý niệm nào về một lực lượng như thế. Các chế độ phụ thuộc từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu lại càng rạch ròi hơn. Không Quốc gia là Cộng sản. Không Cộng sản là Quốc gia. Cộng sản – Quốc gia không đội trời chung. Quốc gia đối với Ngô Đình Diệm là gia đình họ Ngô và đạo Công giáo. Quốc gia đối với Nguyễn Văn Thiệu cũng na ná như thế: Tướng tá cùng phe, cùng đạo.
Từ sau năm 1954, do nhận biết về bản chất của nền văn minh phương Tây, do kinh nghiệm sống dưới chế độ thực dân suốt một trăm năm bị đô hộ, và kinh nghiệm 9 năm kháng chiến dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản độc tài và vô thần, Phật giáo miền Trung – Huế đã làm nòng cốt cho cuộc vận động tự thân của Phật giáo toàn miền Nam với hy vọng hình thành một lực lượng đứng ngoài sự tranh chấp giữa hai phe Tư bản – Cộng sản, Quốc gia – Quốc tế. Phong trào Phật giáo từ năm 1963 đến 1966 biểu hiện cái khuynh hướng thứ ba ấy. Khốn nỗi, lực lượng thứ ba không thành, nhưng khuynh hướng chính trị thứ ba thì thấy rõ.
Tại sao Phật giáo không thể hình thành được lực lượng thứ ba? Vấn đề rất đơn giản: Bởi người Mỹ và đồng minh của họ ở miền Nam không muốn và cũng không có khả năng, bản lĩnh để dung chứa một bộ phận quyền lực như thế. Họ không muốn có bất cứ một vướng bận nào để dễ bề đánh thắng Cộng sản xâm lược. Bằng những mưu mô thủ đoạn và bạo lực vô giới hạn, Mỹ và đồng minh Thiệu – Kỳ đã đánh phá tan nát giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất mới được thành lập từ sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1963). Họ đã kéo một bộ phận của Phật giáo thống nhất về phía mình (Thích Tâm Châu và Phật giáo Việt Nam Quốc Tự), đã đẩy một bộ phận khác của Phật giáo thống nhất về phía bên kia (Thích Đôn Hậu và Phật giáo Huế – 1968), cô lập và vô hiệu hóa bộ phận còn lại (Thích Trí Quang và Phật giáo Ấn Quang). Phật giáo không còn là một lực lượng chính trị trong một nhà nước “dân chủ kiểu Mỹ”.
Hoài bảo mà Phật giáo ôm ấp xét trên mặt văn hóa và tư tưởng rất đáng cho chúng ta trân trọng, và các nhà nghiên cứu lịch sử cần quan tâm thích đáng. Bởi đất nước và cả nhân loại cần vượt thoát ra khỏi các cuộc chiến tranh khủng khiếp được thúc đẩy bởi mâu thuẫn quyền lợi giữa các nước lớn và sự khác biệt ý thức hệ giữa các phe khối Tư bản – Công sản và Quốc gia – Quốc tế. Nhưng xét trên phương diện chính trị, lực lượng thứ ba chỉ là một ý tưởng viễn vông, hoàn toàn không có khả năng hình thành và tồn tại.
Sau biến cố tết Mậu Thân, người Mỹ thấy cuộc chiến tranh của họ tại Việt Nam là một bãi lầy. Để rút ra khỏi cái bãi lầy hao người tốn của, chia rẽ dân tộc ấy, chính phủ Mỹ buộc phải đàm phán với đối phương. Kiên trì gần 5 năm ở bàn hội nghị, sử dụng các phương tiện quân sự hiện đại để tiến hành các trận đánh ác liệt và đẫm máu nhất trên cả hai miền Nam – Bắc cũng không khuất phục được đối phương, cuối cùng đành phải chấp nhận một giải pháp do đối phương áp đặt.
Hiệp định Paris được ký kết. Theo đó, Mỹ rút quân, vấn đề miền Nam do người miền Nam quyết định. Miền Nam vào thời điểm sau hiệp định Paris không còn là một quốc gia riêng biệt với ông chủ duy nhất là Việt Nam Cộng Hòa nữa, mà miền Nam chỉ còn là một trong hai phần của lãnh thổ Việt Nam nhất thiết phải được thống nhất sau khi vấn đề miền Nam được quyết định bởi hai chính phủ và ba thành phần, ba lực lượng chính trị có quyền lực ngang nhau để bầu ra một chính phủ Liên hiệp hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Ở trên chúng ta đã nhận định: Vào thời điểm 1973, trước đó và cả sau này, ở miền Nam không hề tồn tại một lực lượng thư ba chính danh. Như thế, chính phủ Liên hiệp ba thành phần ngang nhau chắc chắn không được thành lập, và vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc chỉ là thỏa thuận trên giấy giữa Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (hiệp định Paris), đồng thời là ước mơ hảo huyền nhưng vô cùng chính đáng của quần chúng nhân dân, là nạn nhân giữa hai chiến tuyến.
Hiệp định Paris, xét cho cùng:
– Đối với Mỹ: Để rút quân và giải kết với Việt Nam Cộng Hòa.
– Đối với các nhà lãnh đạo chiến tranh ở Hà Nội: Để kết thúc cuộc chiến tranh không còn có Mỹ.
– Đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa: Là sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ và là cơ hội đẩy mạnh cuộc xâm lược của Cộng sản Bắc Việt. Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tình thế hụt hẫng và hoảng loạn.
Chu Sơn: Theo anh Tòng thì Hà Nội nhìn nhận như thế nào về lực lượng và thành phần chính trị thứ ba?
Huỳnh Văn Tòng: Cũng như Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, đối với Hà Nội không có lực lượng và thành phần chính trị thứ ba. Tất cả chỉ là thủ đoạn chính trị trên bàn hội nghị, cũng như trong tuyên truyền quốc tế và trong vận động chiến tranh tại các thành thị miền Nam. Không khó và không thiếu chứng cớ để chứng minh luận điểm này. Đảng Cộng Sản và chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa từ đầu gọi cuộc chiến tranh này là “cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược”, xem chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chỉ là công cụ của đế quốc Mỹ. Khẩu hiệu là: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Đối với Hà Nội thì Hiệp định Paris là cơ sở pháp lý, là điều kiện thời gian và không gian để “Mỹ cút”, còn “Ngụy nhào” lúc nào tùy thuộc vào:
1/ Nổ lực để sinh tồn của cây tầm gửi (Việt Nam Cộng Hòa) sau khi giá thể là cây cổ thụ (Mỹ) không còn tồn tại. Nhóm từ “không còn tồn tại” ở đây biểu hiện một trong hai, hay cả hai khái niệm tương đối “Mỹ cút”, hay “Mỹ rút”, tùy theo nhận định chủ quan của mỗi bên, mỗi người. Đối với Hà Nội, sau khi ký Hiệp định Paris, Mỹ cút, Ngụy nhào chỉ là vấn đề thời gian.
2/ Hà Nội đã chuẩn bị và tập hợp lực lượng đến đâu để đánh trận cuối cùng, kết thúc chiến tranh?
– Cái khác nhau giữa hai phe (Mỹ – Việt Nam Cộng Hòa và Hà Nội) về vấn đề lực lượng hay thành phần chính trị thứ ba là:
Mỹ không nói đến hay chỉ nói đến qua quít, bất đắc dĩ tại hội nghị và trong biên bản Hiệp định Paris về lực lương – thành phần chính trị thứ ba. Lý do như trước đây tôi (Huỳnh Văn Tòng) đã nói: Trong cuộc chiến tranh (tại Việt Nam) của mình, Mỹ không muốn có, không thấy cần có một thứ gì làm vướng bận tay chân, tâm trí để dễ bề đánh thắng Cộng sản xâm lược. Nhóm Công giáo chống tham nhũng, chống Thiệu do linh mục Trần Hữu Thanh đứng đầu chỉ là giải pháp tình thế, quá chậm và quá khiên cưỡng. Yếu tố thời gian và lập trường chính trị theo Mỹ và hậu thuẫn cho Việt Nam Cộng hòa của nhóm này không đủ để bảo chứng cho lập trường chính trị thứ ba của Mỹ. Vấn đề hòa hợp hòa giải dân tộc đối với Mỹ: Đó không phải là việc “của tau”, mà là của “tụi bay” (Việt Nam) với nhau.
– Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt người đứng đầu Nguyễn Văn Thiệu, trước sau vẫn cương quyết phủ nhận, chửi bới, dọa nạt, đánh phá lực lượng – thành phần chính trị thứ ba. Việt Nam Cộng Hòa của Nguyễn Văn Thiệu xem lực lượng thứ ba là kẻ nội thù tiếp tay cho Cộng sản xâm lược. Tổ chức Nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris, Phong trào phụ nữ đòi quyền sống. Mặt trận cứu đói, Tổ chức đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù, báo Đối Diện và nhóm các linh mục, trí thức Công giáo tiến bộ, Lực lượng hòa giải dân tộc của Phật giáo Ấn Quang, các Tổ chức ký giả đấu tranh cho tự do báo chí, ngôn luận, các Tổ chức sinh viên tranh đấu… đối với Thiệu là những đối tượng nguy hiểm, cần phải khống chế, triệt hạ. Trường hợp Ngô Kha bị thủ tiêu tại Huế là một thí dụ.
– Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xem chiến tranh giải phóng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Lực lượng – thành phần chính trị thứ ba đối với Hà Nội là cuộc vận động cuối cùng trong phong trào đô thị của phương lược hai chân – ba mũi, ba vùng chiến lược theo như nghị quyết 15. Tại hội đàm Paris, trên những phương tiện truyền thông quốc nội và quốc tế, công tác binh vận, dân vận tại các đô thị miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn, Huế, lực lượng thứ ba, thành phần chính trị thứ ba được cổ xúy, được bơm thổi tối đa, được vận động, được tạo điều kiện, được cung cấp phương tiện vật chất và tinh thần để hình thành và hoạt động.
– Đối với Hà Nội, lực lượng – thành phần chính trị thứ ba chỉ là công cụ, là phương tiện giai đoạn, sẽ triệt tiêu tức thì khi chiến tranh kết thúc.
(Còn tiếp)
Nói lời phải chăng (Phần 2)
Chu Sơn
21/4/2025
Chu Sơn: Nhưng rõ ràng liền sau khi hiệp định Paris công bố tại Sài Gòn, Huế và các thành thị khác trên toàn miền Nam, các tiếng nói nhân danh thành phần, lực lượng thứ ba đã đồng loạt cất lên, chẳng lẽ tất cả đều do người Mặt trận giựt dây cả sao?
Huỳnh Văn Tòng: Có nhiều tiếng nói thứ ba không xuất phát từ Mặt Trận. Những tiếng nói bày tỏ khuynh hướng chính trị không Mỹ – Thiệu, cũng không Cộng sản, chẳng cần ai giựt dây, nếu được tự do, cũng sẽ cất lên lẻ tẻ hay đồng loạt, không những ở thành thị mà cả ở nông thôn, không những chỉ trong vùng “tạm chiếm” mà cả trong “khu giải phóng”, không những ở miền Nam mà cả ở miền Bắc, không chỉ đồng bào trong nước mà cả Việt kiều ở nước ngoài.
Chiến tranh kéo dài quá ư tàn khốc và đau thương, Mỹ càng lộ rõ vai trò ông chủ của Việt Nam Cộng Hòa, đảng Cộng sản và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không cần giấu giếm là người lãnh đạo của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, trong chính quyền, quân đội và nhân dân của hai bên không ít người chẳng đồng tình, dị ứng hoặc ngấm ngầm chống Mỹ, chống Cộng trong ý thức và cả bằng hành động khi có hoàn cảnh thuận tiện. Cái đa số “hai không” hay “hai chống” này nếu có cơ hội và điều kiện sẽ bày tỏ chính kiến, lập trường chính trị thứ ba của mình. Nhưng chẳng bao giờ họ có khả năng tập họp được thành một lực lượng ở giữa hai lằn đạn. Họ không có lãnh thổ, không có lãnh tụ, không có chính quyền, không có quân đội, cảnh sát, không có hậu thuẫn và viện trợ quốc tế tương xứng với hai lực lượng kia.
Tắt một câu, thành phần chính trị thứ ba không đủ những điều kiện vật chất, tinh thần khả dĩ bảo chứng cho sự tồn tại của mình như một lực lượng tập họp được. Họ yêu nước, họ khát khao tự do, độc lập, thống nhất và hòa bình. Họ có hoài bảo đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Chỉ có thế. Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ. Bạo lực Việt Nam Cộng hòa và bạo lực Mặt Trận Giải Phóng không dung tha họ. Pháp lý hiệp định Paris không đủ mạnh để bảo vệ họ.
Pháp lý Hiệp định Paris nói cho cùng chỉ là một mớ những điều khoản lỏng lẻo, mơ hồ, tạm bợ do đại diện hai phe làm ra trên bàn hội nghị với chủ đích là “Mỹ rút” hoặc “Mỹ cút”. Tất cả các vấn đề khác của miền Nam trên lý thuyết do nhân dân miền Nam quyết dịnh, nhưng thực tế vận hành theo thế và lực của kẻ mạnh. Mô hình chính phủ ba thành phần ngang nhau tại miền Nam chỉ là cái bong bóng được bơm thổi chủ yếu bởi những cái loa phát đi từ bưng biền hay từ Hà Nội. Cái bong bóng ấy sẽ xẹp lép trước sức nóng bom đạn trong trận cuối cùng: “Đánh cho Ngụy nhào”.
Chu Sơn: Vấn đề đơn giản như thế sao? Sau chừng ấy dính líu, bỏ ra từng ấy công của, Mỹ sẽ quẳng gánh ra đi dễ dàng như thế sao? Cường quốc hùng mạnh hàng đầu thế giới với lòng tự tôn siêu hạng, Mỹ chẳng còn vướng bận gì sau khi ký hiệp định Paris sao?
Huỳnh Văn Tòng: Phức tạp hay đơn giản cũng chỉ là những khả năng trong những tình thế cụ thể. Năm 1954, thua đau và nhục nhã ở Điện Biên Phủ, Pháp ký hiệp định Genève, tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân về miền Nam, nhưng không đơn giản sẽ chấm dứt vai trò và từ bỏ quyền lợi trên phần đất còn lại, bỏ mặc miền Nam cho hai chính quyền Nam – Bắc tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo như những điều kiện pháp lý lỏng lẻo ghi trong văn bản hiệp định. Nhưng rồi do những điều kiện chủ quan, Pháp đành trao miền Nam cho Mỹ.
Ngày 27-1-1973, Mỹ ký kết hiệp định Paris cũng để rút quân, vấn đề miền Nam theo tính toán của chính quyền Mỹ cũng không đơn giản là sẽ bỏ mặc cho nhân dân miền Nam quyết định theo mô hình chính phủ liên hiệp ba thành phần… Trước khi ký hiệp định Paris, Kissinger và Nixon đã đi Trung Quốc, trước đó đã điều đình bí mật với Liên Xô, đã liên kết trở lại với Pháp, đã làm yên lòng La Mã, đã hứa hẹn với Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam Cộng Hòa… Tất cả những nổ lực ấy nhằm bảo lưu quyền lợi của Mỹ tại miền Nam và trong chừng mực nào đó, bảo lưu sĩ diện của Mỹ trước cộng đồng quốc tế với ý đồ chia cắt miền Nam thêm một lần, một chặng nữa, và quốc tế hóa phần đất còn lại.
Sự kiện Nguyễn văn Thiệu rút bỏ Tây nguyên không đơn thuần là một quyết định đơn phương, việc hai Tòa Đại sứ Pháp và Mỹ tại Sài Gòn đục thành rào, trổ cửa thông thương, việc các điệp viên và chức sắc tòa đại sứ Pháp quan hệ trên mức bình thường với nhóm Dương Văn Minh, việc Nguyễn văn Thiệu được tòa đại sứ Mỹ và nhân viên CIA âm thầm tống xuất ra nước ngoài, việc Dương Văn Minh chứ không phải một ai khác thuộc thành phần thứ nhất (như Nguyễn Cao Kỳ) tiếp nhận sự chuyển giao chức danh tổng thống từ Trần Văn Hương… là những dấu chỉ cho thấy, có cuộc vận động ngầm nhằm quốc tế hóa vấn đề miền Nam trên phần đất còn lại trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh của Mỹ.
Tuy nhiên tất cả những nỗ lực ấy không thành, bởi tương quan lực lượng tại miền Nam từ sau hiệp định Paris công bố nghiêng về phía Hà Nội.
Áp lực của Liên Xô, đặc biệt là Trung Quốc chưa đủ để Hà Nội giảm nhẹ cường độ quân sự “trừng trị lấn chiếm và vi phạm hiệp đinh Paris của Nguyễn Văn Thiệu”, và từ bỏ quyết tâm giải quyết vấn đề miền Nam bằng bạo lực cách mạng trong thời hạn ngắn nhất.
Về phía Mỹ, quyền lực thực sự lúc này (sau ký kết hiệp định Paris) không thuộc về chính quyền nữa mà thuộc về quốc hội và đông đảo quần chúng đã quá chán ngán cuộc chiến tranh không lối thoát và phi nghĩa. Một khi viện trợ bị quốc hội cắt giảm từ 2.1 tỷ năm 1972, xuống 1,4 tỷ năm 1973, rồi 700 triệu năm 1974, 300 triệu năm 1975 thì khả năng chấm dứt chiến tranh gần như là hiện thực. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và nền đệ nhị Cộng hòa không còn điều kiện để tồn tại.
Như ông (Chu Sơn) đã nói với tôi hồi giữa năm 1973, rằng Hà Nội đã tính tới ít nhất là hai giải pháp: Một là giải pháp quân sự “đánh cho Ngụy nhào” trong vòng ba bốn năm (1973 – 1976). Hai là giải pháp chính trị “chia thêm một lần” (lần thứ nhất là Hiệp định Genève – 1954), dừng thêm một chặng – đến Nha Trang hay Phan Rang gì đó, thủ đô của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam là Quảng Trị hay Lộc Ninh gì đó, và thời gian dứt điểm có thể là 10 năm, 15 năm. Có phải ông đã nói với tôi như thế không?
Sau những trận đánh thăm dò: Phước Long (tháng 1 năm 1975) và Ban Mê Thuột (tháng 3 năm 1975), Hà Nội thấy rằng Mỹ dứt khoát ra đi. Do vậy vấn đề miền Nam trở nên đơn giản, chỉ còn là giải pháp quân sự. Chính phủ liên hiệp ba thành phần chỉ tồn tại trên giấy, và lực lượng thứ ba chỉ còn là cái bong bóng.
Chu Sơn: Anh Tòng nhận định thế nào về nhân vật Dương Văn Minh? Có người nói Dương Văn Minh là lãnh tụ của lực lượng thứ ba?
Tổng thống cuối cùng của chế độ VNCH: Dương Văn Minh ngồi bên phải và nhà báo Börries Gallasch người Đức (ngồi bên trái) tại Dinh Độc Lập sáng 30-4-1975. Ảnh trên mạng
Huỳnh Văn Tòng: Ông Chu Sơn lui tới Sài Gòn lâu như vậy mà chưa biết câu nói cửa miệng của người miền Nam sao: Zậy mà không phải zậy. Dương Văn Minh là người thuộc “lực lượng thứ nhất” mà tâm không phải “thứ nhất”, có cái tâm “thứ ba” mà không làm được lực lượng thứ ba để thực hiện tâm tư hoài bảo của mình, cuối cùng Dương Văn Minh đành phải chấp nhận vai trò kẻ vác cờ trắng mà người này bảo là không nên, người kia bảo là không đáng, lại còn có kẻ (Cộng sản) bảo: “Chỉ là hành động của một tên tay sai cùng đường”.
Tình cảnh của Dương Văn Minh vào thời điểm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt – Mỹ (30 tháng 4 năm 1975) là như thế. Dương Văn Minh trở thành nạn nhân của hai phía, đồng thời là nạn nhân của chính mình. Người Mỹ sử dụng Dương Văn Minh làm nút chặn an toàn cho cuộc giải kết và “tháo chạy tán loạn”. Hà Nội sử dụng Dương Văn Minh làm công cụ giảm thiểu sự ác liệt, tổn thất và tăng cường hào khí, vinh quang cho chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng.
Chu Sơn: Anh Tòng có thể giải thích thêm những nhận định không giống ai mà anh vừa nêu được không? Tôi chưa được sáng tỏ lắm.
Huỳnh Văn Tòng: Người Mỹ bảo cuộc chiến tranh này là của họ. Người Cộng sản bảo đây là cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên đại thể những tuyên bố như thế đều là sự thật. Do vậy việc kết thúc chiến tranh cũng do hai phía: Mỹ và đảng Cộng sản quyết định. Có điều lúc tiến hành chiến tranh mỗi bên đều có công cụ riêng biệt: Phía Mỹ, công cụ là Việt Nam Cộng Hòa. Phía Cộng sản, công cụ là Mặt Trận Giải Phóng và chính phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Lúc kết thúc chiến tranh, cả hai phía, ngoài hai công cụ truyền thống, đều sử dụng cùng một công cụ là chính phủ Dương Văn Minh. Chính phủ Dương Văn Minh mang nhãn mác Việt Nam Cộng Hòa, nhưng đa phần các thành viên của chính phủ ấy không ít người tại miền Nam cho là thuộc về lực lượng hay thành phần chính trị thứ ba.
Vậy Dương Văn Minh là ai? Chính phủ Dương Văn Minh và những nhân vật bao quanh cá nhân ông Minh và chính phủ ấy là ai?
Dương Văn Minh là người miền Nam, gia đình thuộc tầng lớp trên: Địa chủ nhỏ và viên chức trong nhà nước thuộc địa, là sĩ quan trừ bị do Pháp đào tạo từ năm 1940, ở trong quân đội Liên hiệp do Pháp chỉ huy. Sau 1954, Dương Văn Minh là đại tá trong quân đội Quốc gia của Bảo Đại, rồi Việt Nam Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Là người chỉ huy chiến dịch Thoại Ngọc Hầu truy quét lực lượng giáo phái Bình Xuyên, Hòa Hảo, Dương Văn Minh nổi tiếng là người hùng, được Ngô Đình Diệm vinh thăng thiếu tướng, rồi trung tướng, nhưng không chịu làm gia nô, không theo đạo Công giáo, không vào đảng Cần lao nên bị Ngô Đình Diệm cho ngồi chơi xơi nước. Từ một người thần phục Ngô Đình Diệm, lần hồi Dương Văn Minh căm ghét chế độ Gia đình – Cần lao – Công giáo toàn trị.
Dương Văn Minh theo đạo Phật, có người em trai (Dương Văn Nhật – Chu Sơn) đi kháng chiến rồi tập kết ra miền Bắc, có bạn thân (bà Bùi Thị Mè – Chu Sơn) là nhân vật cao cấp của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam.
Năm 1963, trước tình hình chính quyền Ngô Đình Diệm ngày càng có nhiều dấu hiệu suy thoái, anh em nhà Ngô thẳng tay đàn áp phong trào Phật giáo đấu tranh đòi tự do và bình đẳng tôn giáo, Dương Văn Minh được các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa tôn làm minh chủ, cầm đầu cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm với sự ủng hộ và chỉ đạo gián tiếp của Mỹ. Dương Văn Minh trở thành Quốc trưởng.
Là một sĩ quan nhà nghề, chọn binh nghiệp làm lẽ tiến thân, bản chất trung thực hiền lành, sùng thượng văn hóa Pháp, hấp thụ giáo lý từ bi của đạo Phật, có thân nhân đang ở phía bên kia, Dương Văn Minh không đáp ứng các tiêu chí “chọn ngựa” của người Mỹ, không trở thành lãnh tụ chống Cộng cuồng nhiệt mà người Mỹ cần tuyển chọn, hầu thay thế Ngô Đình Diệm. Mỹ thay đổi chiến lược: Đổ quân, trực tiếp điều hành, đẩy mạnh chiến tranh trên cả hai miền Nam – Bắc.
Dương Văn Minh lần lượt bị tướt quyền, bị cho ra rìa, bị đẩy đi làm đại sứ (một hình thức lưu đày), được đưa lại miền Nam làm nhân vật đối trọng với “con ngựa nòi’ được Mỹ chọn đứng đầu chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Xuất thân như thế, sự nghiệp như thế, bản chất cá nhân như thế, bối cảnh xã hội, chính trị như thế, từng bước Dương Văn Minh chuyển dịch từ một trong những nhân vật hàng đầu của lực lượng thứ nhất (Việt Nam Cộng Hòa) qua một hình tượng tiêu biểu cho cái mà nhiều người gọi là lực lượng thứ ba.
Nơi Dương Văn Minh, đến thời điểm sau khi hiệp định Paris được công bố, tồn tại hai con người:
– Con người hình dung sắc tướng thuộc về lực lượng thứ nhất.
– Con người tâm thức thuộc về thành phần chính trị thứ ba.
Con người hình dung sắc tướng dễ nhìn, dễ nhận biết, bởi tất cả nhãn mác đều phô dán bên ngoài: Đại tướng, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
Còn con người tâm thức, con người thuộc thành phần – lực lượng thứ ba quả là phức tạp trước nhãn quan của nhiều người, đặc biệt đối với đảng Cộng sản – kẻ đã nhiều lần trong quá khứ (từ 1960 trở về sau) đã cử người tiếp xúc với Dương Văn Minh để điều đình nầy nọ…, kẻ đang chớp thời cơ đẩy mạnh cuộc tiến công quân sự nhằm giải phóng miền Nam bằng bạo lực cách mạng: “Đánh cho Ngụy nhào”.
Ngụy nhào tức là lực lượng thứ nhất bị tiêu diệt. Khi mà lực lượng thứ nhất bị tiêu diệt, thì, tất cả các thứ thuộc về thứ ba không còn lý do để tồn tại. Lực lượng thứ ba hay thành phần thứ ba đều như thế cả. Chanh vắt hết nước, vỏ bị vứt đi. Chính trị là như thế. Chính trị Mỹ hay chính trị Cộng sản đều như thế. Đặc biêt, người Cộng sản mô tả hành động vắt chanh bỏ vỏ bằng thuật ngữ hoa mỹ: “Chấm dứt nhiệm vụ lịch sử”.
Nói lời phải chăng (Phần 3)
Chu Sơn
21/4/2025
Phong trào Đồng Khởi bắt đầu năm 1960, là tiền đề cho đảng CSVN thành lập Mặt trận Giảo phóng miền Nam cuối năm 1960. Ảnh trên mạng
Chu Sơn: Theo anh Tòng thì (lực lượng) hay thành phần chính trị thứ ba hình thành, phát triển và tiêu vong ra sao?
Huỳnh Văn Tòng: Trong một cuộc chiến chống xâm lược thuần túy – không có xung đột ý thức hệ đi kèm – chắc chắn không có thành phần hay lực lượng thứ ba. Kháng chiến hay xâm lược, chỉ vậy thôi. Kẻ nào kháng chiến là yêu nước, kẻ nào theo xâm lược là bán nước. Không có vấn đề hòa giải. Chỉ có vấn đề hòa hợp, nếu cuộc chiến tranh kết thúc thắng lợi về phía dân tộc.
Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam (1954 – 1975) tiếp nối cuộc chiến tranh xâm lược (1858 – 1945), và cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp (1945 – 1954). Hai cuộc chiến này tiếp nối cuộc xâm nhập và xung đột kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa của phương Tây từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy (đầu thế kỷ XVII đến năm 1975) đạo Công giáo song hành cùng chủ nghĩa thực dân đế quốc.
Nhóm từ “thành phần chính trị thứ ba” chỉ xuất hiện vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt – Mỹ. Nó được đăng ký khai sinh qua văn bản hiệp định Paris. Nó là một thực tế phát sinh từ hai lực lượng chính quyết định cuộc chiến là Mỹ và Cộng sản Việt Nam. Để nhận biết thành phần chính trị thứ ba hình thành, phát triển và tiêu vong ra sao, chúng ta không thể không biết tới một cách sơ khởi tiến trình lịch sử của hai lực lượng thứ nhất và thứ hai trong tương quan lực lượng mới sau khi Mỹ rút.
Các từ Mỹ và Cộng sản đập mạnh vào tâm trí đại đa số người Việt ba sự hiện hữu đáng buồn là chiến tranh, thực dân đế quốc và bạo lực ý thức hệ Cộng sản.
Cuộc chiến tranh Việt – Mỹ (1954 – 1975) tiếp nối cuộc chiến tranh Việt – Pháp (1945 – 1954), cả hai cuộc chiến tranh này là hậu quả của gần một trăm năm (1858 – 1945) chiến tranh xâm lược và chống xâm lược giữa thực dân Pháp và nhân dân Việt Nam (dưới sự lãnh đạo của triều đình nhà Nguyễn, của các lãnh tụ nông dân, sĩ phu qua các phong trào kháng chiến Nam kỳ, Cần vương, Văn thân, Duy Tân và cuối cùng là các cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân đảng (1930) và Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 – 1975). Tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược, kháng chiến chống xâm lược và vận động cách mạng đó có gốc nguồn từ các cuộc xâm nhập mang tính bành trướng, thực dân vào Việt Nam của các thế lục phương Tây bắt đầu từ thế kỷ XVII, cụ thể là các thương đoàn các giáo hội Thừa sai, các hạm đội Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, cuối cùng là Mỹ.
Cuộc giao tiếp xúc chạm Tây – Việt dẫn đến tình trạng đầu rơi máu đổ, tàn phá đất nước cực kỳ tàn bạo và đau khổ ấy đã diễn ra trong bối cảnh một châu Âu chuyển mình từ thời kỳ trung cổ phong kiến qua thời kỳ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật hiện đại và chế độ dân chủ – Ky tô giáo bá quyền toàn cầu hóa. Và một Việt Nam (một nước nhỏ nhưng có vị trí địa lý quan trọng tại Đông nam Á) phong kiến, qua phân, nội chiến, Nam tiến, bị đô hộ… với nền kinh tế trọng nông ức thương và những giá trị dân tộc truyền thống (Việt – Nho, Việt – Phật, Việt – Lão) tuy đã định hình nhưng cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết tật, lỗi thời; và một Việt Nam khác với ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa (một cơ phận nhỏ của phong trào Cộng sản quốc tế) do đảng Cộng sản lãnh đạo và sự giúp đỡ có điều kiện của Trung Quốc và Liên Xô.
Như thế không đợi đến cuộc đụng đầu Mỹ – Việt, chiến tranh mới mang màu sắc ý thức hệ (Thánh chiến), mà ngay từ đầu, ý thức hệ đã là một trong ba yếu tố đồng hành: Kinh tế thương nghiệp, Ky tô giáo, binh bị và khoa học kỹ thuật. Ky tô giáo luôn gắn bó với kinh tế thương nghiệp và các cuộc chiến tranh thực dân đế quốc.
Về phía Việt Nam, các giá trị truyền thống và ý thức hệ Nho Việt là linh hồn của các cuộc đề kháng dân tộc ở thời kỳ đầu (đầu thế kỷ XVII đến một phần tư đầu thế kỷ XX) và ý thức hệ Cộng sản ở thời kỳ sau (1925 – 1975).
Sự hình thành, phát triển của lực lượng Thứ Nhất
Không phải chuyện tình cờ khi các Giám mục, Giáo sĩ thừa sai có mặt trên các hạm đội Pháp – Tây Ban Nha tấn công vào Đà Nẵng năm 1858 và tất cả các cuộc đánh chiếm Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ tiếp liền sau đó đến 1884 (triều đình nhà Nguyễn ký hàng ước Patenôtre, Pháp thiết lập cuộc đô hộ toàn phần lãnh thổ Việt Nam).
Không phải chuyện tình cờ khi triều đình An Nam do Pháp bảo hộ được cố vấn và lèo lái bởi các học giả, các thượng thư người Công giáo (Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả…). Cũng không phải chuyện tình cờ khi Bảo Đại, ông vua cuối cùng của triều đình An Nam (Nho – Phật) lại cưới một người phụ nữ đạo dòng làm vợ (Bà Nam Phương). Lại càng không phải chuyện tình cờ khi người đứng đầu hai thời kỳ Cộng Hòa tại miền Nam: Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, và ba phần tư tổng số các dân biểu nghị sĩ tại quốc hội Việt Nam Cộng Hòa là người Công giáo. Cũng không phải chuyện tình cờ khi Hồng y Giáo chủ Mỹ Spellman đến miền Nam tham dự vào công cuộc tác chiến tinh thần, cùng quân đội Mỹ và Đồng minh chống Cộng sản vô thần vào thời điểm cuộc chiến tranh Mỹ – Việt phát triển đến cao độ (Giáng sinh 1966).
Để thành đạt các mục tiêu thực dân và Công giáo hóa, các thế lực phương Tây đã kéo một bộ phận người Việt Nam về phía họ. Trong từng thời đoạn khác nhau, bộ phận người Việt Nam này tập họp dưới những tên gọi khác nhau:
– Giáo hội Công giáo (từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX.
– Triều đình An Nam (1984 – 1945).
– Chính phủ Nam kỳ tự trị (1946 – 1948)
– Chính phủ Quốc gia (1949 – 1955).
– Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (từ 1955 – 1975).
Bộ phận người Việt Nam này ban đầu bị sai khiến bởi các giáo sĩ Thừa sai, các đô đốc, tướng lãnh, sĩ quan cao cấp của thực dân trong các cuộc tiến công xâm lược. Khi chế độ thuộc địa được thiết lập và kiện toàn guồng máy cai trị, bộ phận người Việt Nam này đã sát cánh cùng soái phủ Nam kỳ, dinh toàn quyền Đông Dương, tòa khâm sứ Huế, tòa công sứ ở các tỉnh, các tòa giám mục thuộc các giáo hội Thừa sai, tòa khâm sứ của giáo hội La mã, tòa đại sứ và Phái bộ quân sự Mỹ trong tất cả các hoạt động quân sự, khai thác kinh tế, tuyên truyền chính trị, truyền bá Công giáo, xâm nhập văn hóa… nhằm đánh bại cái mà họ thường gọi là “bọn tà ma ngoại đạo, bọn bụt thần, nho quỉ, bọn gian dân loạn đảng và cuối cùng là bọn quỉ dữ Cộng sản vô thần”. Còn một bộ phận người Việt Nam bất đắc dĩ trở thành một phần của lực lượng thứ nhất đó là các đảng phái cách mạng Quốc gia (Quốc Dân đảng , Đại Việt…).
Từ sau Hiệp định Paris ký kết (1-1973), khi các thế lực phương Tây lần lược rút lui, bộ phận người Việt Nam này tập họp trong và chung quanh chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với người đứng đầu là Nguyễn Văn Thiệu. Đây là lực lượng thứ nhất. Nòng cốt của lực lượng thứ nhất là các tướng lĩnh, sĩ quan, công chức cao cấp, các giám mục, các nhà tư sản, trí thức thân chính và các lãnh tụ đảng phái. Đa phần trong số họ được giáo dục, đào tạo, huấn luyện trong các nhà trường, học viện thuộc địa hay chính quốc (Pháp – Mỹ – La Mã), và trong những mức độ khác nhau đều có gắn bó lợi ích tinh thần, vật chất với thế giới phương Tây, Hậu thuẫn truyền thống cho lực lượng thứ nhất vẫn là đa số giáo dân Công giáo.
Sự hình thành và phát triển của lực lượng thứ hai
Một phần tư đầu của thế kỷ XX qua đi với sự cáo chung vai trò lịch sử của các nhà nho, sĩ phu, quan lại đại diện cho ý thức hệ Nho giáo và các giá trị truyền thống.
Cuộc đấu tranh cho nền độc lập dân tộc được tiếp tục bởi các thanh niên trí thức tân học. Các nhà yêu nước tuổi trẻ này tập hợp trong những tổ chức chính trị, cách mạng có tên là chính đảng. Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu, đảng Thanh niên cao vọng của Nguyễn An Ninh trong Nam. Đảng Tân Việt ở Trung, Việt Nam Quốc dân đảng và Đại Việt ở Trung và Bắc. Cuối cùng là đảng Cộng sản được tổ chức đều khắp ba miền đất nước.
Các đảng Lập Hiến, Thanh niên Cao vọng, Tân Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt… lần lược chuyển hóa (đảng Lập Hiến trở thành một bộ phận đấu tranh nghị trường trong chính phủ thuộc địa Nam kỳ, đảng Tân Việt trở thành một bộ phận tiền thân của đảng Cộng sản) hoặc bị đánh phá, đàn áp, khủng bố (từ cả hai phía: Thực dân và Cộng sản) đến tan rã (Thanh niên cao vọng và Quốc Dân Đảng, Đại Việt).
Lực lượng thứ hai duy nhất còn lại chỉ là đảng Cộng sản nắm vững hai ngọn cờ: Giải phóng dân tộc và Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trước khi trở thành người Cộng sản, từ Hồ Chí Minh và các lãnh tụ thế hệ đầu, đến các đảng viên cấp dưới đều là người yêu nước cuồng nhiệt và giàu lòng trắc ẩn đối với đại đa số nhân dân cùng khổ. Họ đi Tây (Pháp và châu Âu), đi Đông (Trung Quốc, Nhật Bản) tìm đường cứu nước và thay đổi trật tự xã hội (cách mạng). Người trước kẻ sau, họ tìm thấy ở Nga – Liên xô và cuộc cách mạng tháng Mười nguồn cảm hứng, hy vọng và phương thuốc thần kỳ chắc chắn chữa trị được căn bệnh trầm kha của dân tộc và nhân loại: Nô lệ, tối tăm, nghèo đói. Đó là chủ nghĩa Mác – Lê nin vận dụng cho khế hợp với yêu cầu của cách mạng Liên Xô và thế giới. Đó là sự liên đới hữu cơ giữa phong trào Cộng sản Quốc tế (Quốc tế III), phong trào công nhân trong các quốc gia tư bản và phong trào độc lập tại các xứ thuộc địa.
Theo đó, từ Nguyễn Ái Quốc đến các lãnh tụ Cộng sản thế hệ đầu tiên nhận thức một cách đơn giản rằng Liên Xô và Quốc tế III hoàn toàn có thành ý và khả năng giúp đỡ các xứ thuộc địa (trong đó có Việt Nam, Đông Dương) lật đổ ách đô hộ, cai trị của thực dân, phong kiến và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản ngây thơ trong sáng ấy, đảng Cộng sản Việt Nam (hay đảng Cộng sản Đông Dương) có nghĩa vụ thực hiện các sự hỗ trợ ngược lại và tuân thủ các mệnh lệnh, chỉ thị từ Quốc tế III do Liên Xô đứng đầu.
Cái khác nhau giữa Nguyễn Ái Quốc và các lãnh tụ Cộng sản đầu tiên do Liên Xô giáo huấn, rèn luyện như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập… là có vận dụng, chắc lọc hay không các chỉ thị mệnh lệnh ấy trong quá trình vận động cách mạng của mình. Nguyến Ái Quốc bảo là có. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập bảo là không.
Hai từ có và không ấy quyết định thân phận, sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, của đảng Cộng sản, và đặc biệt của đất nước, dân tộc Việt Nam, và của cả Đông Dương từ khi đảng Cộng sản thành lập đến tận ngày nay.
Đối với Quốc tế III, chủ yếu là Stalin và phe cánh, Nguyễn Ái Quốc chỉ là người dân tộc chủ nghĩa đến với Liên Xô và cách mạng thế giới từ một vùng lãnh thổ xa xôi, nghèo đói và lạc hậu (Đông Dương) đang là thuộc địa của Pháp, đồng thời là đảng viên của một đảng Cộng sản thứ cấp (đảng Cộng sản Pháp). Theo đó, Cộng sản Liên Xô mới là đảng cao cấp, đầu tàu của các đảng Cộng sản khác trên toàn thế giới). Theo Stalin và phe cánh: không có một Việt Nam dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, mà chỉ có Đông Dương, một chi tiết nhỏ của guồng máy cách mạng thế giới cần được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ bởi các cán bộ đảng viên được giáo huấn đầy đủ, được kết nạp tại Liên Xô, được phái đi sau những công đoạn thử thách trong môi trường cách mạng Nga. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập… đáp ứng các tiêu chí của Quốc tế III và Stalin. Nguyễn Ái Quốc thì không, ông chỉ là cán bộ vòng ngoài của Quốc tế III.
Ông Chu Sơn có thể hình dung Stalin như một Giáo hoàng La Mã, chủ nghĩa Mác – Lênin như là kinh thánh, trường đảng Liên xô như một chủng viện, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà huy Tập… và những người được giáo huấn trong đó như những chủng sinh, được phái đi (…Đông Dương) như những Thừa sai của cuộc thánh chiến mới.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất các nhóm đại biểu Cộng sản từ trong nước ra. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập với luận cương có hai nội dung chính:
– Một là: Cách mạng Việt Nam có hai mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp lâu dài. Đấu tranh dân chủ kiểu tư sản dân quyền và đấu tranh công bằng xã hội như người cày có ruộng, giảm tô thuế cho nông dân, đòi tăng lương, giảm giờ làm việc, cải thiện đời sống cho công nhân…, là những sách lược góp phần thúc đẩy sự nghiệp giải phóng dân tộc và làm nền tảng cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lâu dài về sau. Nguyễn Ái Quốc không chỉ rõ khi nào bắt đầu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đó.
– Hai là: Lực lượng chính của cách mạng Việt Nam là liên minh công – nông do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Lực lượng này được xây dựng, phát triển trong khối đại đoàn kết toàn dân không phân biệt giai tầng, địa vị xã hội. Trí thức, tiểu chủ, phú nông, kể cả tư sản, địa chủ, quan lại đều được mời gọi, vận động tham dự vào công cuộc đánh đổ thực dân, phong kiến. Trung lập hóa các thành phần thuộc tầng lớp trên chưa bày rõ chính kiến. Chỉ loại bỏ những kẻ công khai đứng về phía kẻ thù, chống lại dân tộc và cách mạng.
Chủ trương, đường lối, sách lược này của Nguyễn Ái Quốc không làm vừa lòng Quốc tế III và Stalin.
Tháng 4 năm 1930, sau khi kết thúc chương trình học tập, huấn luyện tại trường đảng Liên Xô (Đại học Phương Đông), Trần Phú được Quốc tế III phái về Đông Dương mang theo những mệnh lệnh, chỉ thị mới. Trước đó, năm 1928, ông đã được kết nạp vào đảng Cộng sản Liên Xô, được Quốc tế III công nhận là đại biểu chính thức của phong trào cách mạng Đông Dương tại đại hội lần thứ VI(1928). Nguyễn Ái Quốc chưa bao giờ đươc thừa nhận như thế.
Tháng 5 năm 1930, phong trào cách mạng kiểu Xô Viết nổ ra tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Phong trào lan rộng và phát triển đến đỉnh cao vào tháng 9, bị đàn áp khốc liệt và tan rã vào tháng 10.
Tháng 10 năm 1930, Ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản họp ở Hồng Kông do Trần Phú chủ trì. Tại hội nghị này đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên là đảng Cộng sản Đông Dương, Trần Phú được bầu làm Tổng bí thư. Luận cương do ông soạn đọc trong dịp này trở thành đường lối sách lược của đảng, thay thế đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Từ đó nhân vật Nguyễn Ái Quốc không còn là lãnh tụ của cách mạng Việt Nam nữa, cho đến đầu năm 1941.
(Còn tiếp)
https://baotiengdan.com/2025/04/21/noi-loi-phai-chang-phan-3/
Không có nhận xét nào