Header Ads

  • Breaking News

    Phụ nữ viết văn thời Việt Nam Cộng Hòa

    Kỳ 2: Mảnh đất mầu mỡ cho văn học

    Trùng Dương /Tạp chí Luật Khoa

    17/04/2025 


    Đồ hoạ: Thanh Tường / Luật Khoa. 


    Bài viết gốc được đăng trên trang của Trung tâm Nghiên cứu Việt – Mỹ (Đại học Oregon) ngày 27/12/2020. Với sự đồng ý từ trung tâm, Luật Khoa tạp chí biên tập và giới thiệu lại bài viết của nhà văn Trùng Dương – một hồi tưởng sâu sắc về thời các nữ nhà văn miền Nam trước 1975 viết văn, sống bằng văn, và sống cùng tự do.


    Việc người cầm bút có thể sinh sống bằng nghề viết văn trong thời Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) không chỉ diễn ra trong số các nhà văn nữ mà cả nam giới. Nhưng trong giới cầm bút phái nam thì không thể gọi là hiện tượng vì trong quá khứ, như trong thời tiền chiến (1930-1945), thời kỳ văn chương chữ Quốc ngữ nở rộ lần đầu, đã có nhiều nhà văn sống bằng ngòi bút của mình, qua các bộ môn tiểu thuyết, phóng sự, ký sự. Chỉ khi người phụ nữ vốn lâu nay chỉ sáng tác như một trò tiêu khiển, và nếu có lúc nào kiếm được lợi tức nuôi con cái thì không thể bằng ngòi bút, đã dùng ngòi bút để mưu sinh mới gọi là hiện tượng. Có nhiều lý do dẫn tới hiện tượng kể trên, mà tôi sẽ đề cập tới sau.

    Nói chung về sự kiện văn học miền Nam nở rộ và tỏ ra phong phú hơn cả thời văn học tiền chiến, căn bản hơn cả vẫn là chế độ chính trị tại miền Nam tương đối tự do lúc ấy, trong đó có việc miền Nam mở ra đón nhận các luồng tư tưởng thời đại quan trọng của thế giới thay vì khép kín như nửa phần kia của đất nước. Điều kiện căn bản này đã giúp dung dưỡng sự phát triển các sinh hoạt văn học nghệ thuật nói chung, và việc xuất hiện của nhiều cây bút phái nữ nói riêng. 

    Thụy Khuê, có thể kể là nhà phê bình nữ đầu tiên của văn học Việt, trong bài biên khảo về văn học miền Nam, nêu ra thêm hai yếu tố căn bản nữa làm nền tảng cho sự bùng phát dù ngắn ngủi song phong phú, đa dạng của văn học miền Nam. [1] Theo chị, ngoài một thể chế chính trị tự do, hai yếu tố căn bản đó là: 

    • miền Nam còn được nuôi dưỡng bởi nền văn học bằng chữ Quốc ngữ phong phú của miền Nam (đã sử dụng loại chữ này trước miền Bắc gần nửa thế kỷ);

    • nền văn học này được thừa hưởng cái gia tài văn học tiền chiến đã cùng “di cư” với hàng trăm ngàn người Bắc vào Nam (trong khi bị khai trừ ở miền Bắc từ sau 1954). 

    Nền tảng – không khí tự do, kho tàng chữ Quốc ngữ lâu đời hơn ở miền Nam, và gia tài văn học thời tiền chiến mang vào từ miền Bắc – đóng vai trò như của một chiếc kiềng ba chân vững vàng, trên đó nền văn học miền Nam phát triển.

    Hiện tượng nhiều người cầm bút phái nữ dần dà trở thành nhà văn chuyên nghiệp – nghĩa là có thể mưu sinh bằng ngòi bút – diễn ra bắt đầu từ khoảng giữa thập niên 1960 là nhờ một số yếu tố.

    Về phương diện chính trị, từ sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963), miền Nam mất tới bốn năm trải qua nhiều xáo trộn chính trị do các tướng lãnh mải tranh chấp tranh giành quyền hành đảo chính chỉnh lý lẫn nhau, cho mãi tới năm 1967 mới tạm ổn định khi nền Đệ nhị Cộng hòa được thiết lập. 

    Trong thời kỳ giữa hai nền Cộng hòa, báo chí miền Nam vốn bị kềm kẹp dưới thời nhà Ngô bỗng bùng phát chưa từng thấy trong lịch sử, hầu như không bị kềm tỏa. Có một lúc, vào khoảng một năm sau cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963, số nhật báo xuất bản là 91 tờ, đấy là không kể tạp chí, còn gọi là báo định kỳ. [2] 

    Hầu như mỗi đảng phái, mỗi nhóm đều cảm thấy phải có một cơ quan ngôn luận của riêng mình. Còn tạp chí, mỗi nhóm, phe, đoàn có một tờ tạp chí riêng làm nơi tụ họp, viết lách, xuất bản. Đây cũng là thời kỳ xẩy ra những vụ ám sát các nhân vật có tai mắt, tên tuổi của miền Nam, trong đó là hai vụ nổi tiếng trong giới báo chí, đó là vụ ám sát ký giả Từ Chung của nhật báo Chính Luận, và vụ ám sát hụt nhà văn nhà báo Chu Tử lúc ấy là chủ nhiệm báo Sống, vào giữa thập niên 1960. Tôi có viết lại vụ Chu Tử bị ám sát hụt trong bài viết nhân tưởng niệm ngày giỗ thứ 38 của ông. [3]

    Con số các nhật báo này theo thời gian và các biến đổi thời cuộc, tới 1967 thì hạ xuống còn khoảng 47. Sau biến cố Mùa hè đỏ lửa 1972, và với sự ra đời của Luật Báo chí mới 007/72 nhằm thắt chặt việc kiểm soát báo chí hơn nữa của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đặc biệt với điều luật đòi mỗi nhật báo phải ký quỹ 20 triệu đồng, báo định kỳ 5 triệu đồng, con số nhật báo giảm xuống còn 29 tờ, gồm 17 tờ tiếng Việt, 11 tờ tiếng Hoa và một tờ tiếng Anh. 

    Về tạp chí, còn gọi là báo định kỳ, từ con số hàng trăm xuống chỉ còn năm tờ có khả năng và đã đóng ký quỹ 5 triệu đồng. Số còn lại hoặc xin được miễn đóng ký quỹ, hoặc chuyển sang dạng “tuyển tập”, như tạp chí Văn, một hình thức của sách, không phải nạp ký quỹ, nhưng vẫn phải nạp kiểm duyệt qua hệ thống kiểm duyệt sách vốn khác với báo chí.

    Mặc dù nhiều nhà biên khảo, phê bình thường tách báo chí ra khỏi văn học, nhưng tôi nhận thấy báo chí Việt ngữ ngay từ khởi thủy đã là nơi nuôi dưỡng nhiều tác phẩm văn học, hoặc sáng tác hay phóng tác, và cả dịch các tác giả nước ngoài đang ăn khách (như Kim Dung, Quỳnh Dao, chẳng hạn), nên việc tách rời này có phần nào gượng ép, nếu không nói là hơi kiêu kỳ về phía giới chuyên về văn chương. 

    Điều này càng đúng với giai đoạn 20 năm văn học miền Nam, đặc biệt từ sau 1963. Qua các báo, cả nhật báo lẫn tạp chí, người mới viết văn gửi bài, thường là truyện ngắn, nếu được chọn đăng, sau vài truyện được đăng báo, nếu đặc sắc, được một nhà xuất bản in và phát hành, thành nhà văn. 

    Khi đã tạo được một tên tuổi nào đó, nhiều nhà văn được các nhật báo mời viết truyện từng kỳ, gọi là feuilleton. Đây là một đặc điểm của báo chí miền Nam dạo ấy: dù là báo hàng ngày, song một trong những cách giữ chân độc giả là tiểu thuyết đăng từng kỳ.

    Báo chí miền Nam từ sau 1963 bùng phát như kể trên, ngoài một số là cơ quan của các nhóm hay đảng phái, một số ít có khuynh hướng chuyên nghiệp thực sự thì chú trọng vào thông tin và bình luận thời cuộc, còn thì phần lớn có tính cách thương mại. 

    Dù chủ trương đường lối thế nào thì chủ báo nào cũng muốn báo sống. Muốn báo sống thì ngoài nhu cầu kiếm quảng cáo là nhu cầu giữ chân độc giả, có giữ được độc giả thì khách hàng quảng cáo mới thêm tín cậy để mua quảng cáo để nuôi báo. Và như đã nói ở trên, một trong những cách giữ chân độc giả là đăng tiểu thuyết, hay hồi ký, truyện phóng tác từng kỳ, hoặc truyện dịch.

    Vào nửa sau của thập niên 1960, những cây bút như Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã thành danh, như là những viên ngọc hiếm, với văn phong hồn nhiên, và nội dung khai phá những góc cạnh thâm sâu của đời sống và tâm tình phái nữ lâu nay người cầm bút phái nam chỉ có thể tưởng tượng, do đấy có sức lôi cuốn độc giả. 

    Các chị trở nên “đắt khách”, được mời viết feuilleton tới tấp. Mỗi người có khi viết tới hai, ba cái feuilleton. Thụy Vũ thường đùa là mình “đi khách” ở những tòa báo khác nhau, vì chị thường chạy từ tòa báo này qua tờ báo khác mỗi sáng, tìm một cái bàn trống ngồi viết vài trang mỗi ngày để nạp cho tờ báo đó.

    Ngoài ra, việc các cây bút phái nữ trở nên “ăn khách” cũng do những đun đẩy của thời cuộc nữa, mà tác giả Võ Phiến, trong cuốn Văn học miền Nam tổng quan đã nghịch ngợm mệnh danh đây là “Thời gian ủng hộ hồng quần.”

    https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/04/image-5.png


    Nhà văn Võ Phiến (1925-2015). Nguồn ảnh: Quê Việt. 

    “Nhớ có lần, trên tạp chí Bách Khoa, Nguyễn Mộng Giác từng để ý đến hiện tượng ấy. Ông đặt ra một mốc thời gian: Đó là khoảng những năm 1965, 1966,” Võ Phiến viết trong Văn học miền Nam tổng quan

    “Trước đó lớp người chủ động trên văn đàn toàn gồm nam phái. Sau năm 1966, nữ phái xuất hiện ngày một nhiều: Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, v.v. Tên tuổi họ có mặt thường xuyên trên các tạp chí, nhật báo; có năm họ chiếm cả ba giải của Giải thưởng Văn học Nghệ thuật toàn quốc; họ dẫn đầu số sách phát hành. Vào những năm cuối cùng của thời kỳ, hàng ngũ của họ lại được tăng thêm nữa: Trần Thị NgH, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Du Li, Vô Ưu, v.v.

    “Tại sao vậy? Lại vẫn chiến tranh!” Võ Phiến viết tiếp. “Trong thời giặc giã làm thân trai chỉ có một đường, là chúi đầu vào sách vở, học liên miên, học ráo riết. Nhà nước ấn định số tuổi tối đa được hưởng hoãn dịch vì lý do học vấn, đến tuổi ấy mà không lên đến lớp ấy thì phải xếp sách đi vào quân trường. Cho nên con gái được phép hỏng thi, con trai thì không. Con trai hỏng thi có thể hỏng cả một đời. Văn chương thơ phú con trai không dám nghĩ tới, làm sao mà ra đời thành văn thi sĩ được. 

    Đầu năm 1975 nha Sinh hoạt Học đường thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên có tổ chức một cuộc thi dành cho báo Xuân học đường. Giải nhất về tay trường Gia Long (Sài Gòn), giải nhì trường Bùi Thị Xuân (Đà Lạt): toàn trường nữ cả! Trong tổng số sáu giải thưởng, trường nữ chiếm hết bốn. Từ lớp 12 tiến lên thành cô tú, rồi ra đời, mấy chốc. Các cô tú lấn át các cậu tú mạnh đến thế, cứ đà này tương lai văn nghệ miền Nam thuộc về nữ phái là cái chắc.” (tr. 55-57, Văn học miền Nam tổng quan)

    Mỗi tiểu thuyết từng kỳ như vậy có thể đem về cho tác giả từ 15.000 đến 20.000 đồng mỗi tháng (vào cuối thập niên 1960, một đồng Mỹ kim trị giá 400 đồng Việt). Nếu “đi khách” (chữ của Thụy Vũ) đôi ba nhật báo thì sống khá ung dung thời đó. Trong Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến có dành khoảng bẩy trang, từ 57 tới 63, viết về mức sống của các nhà văn thời ấy, với những chi tiết độc đáo, vẽ lại khung cảnh sống và sáng tác của giới cầm bút miền Nam.

    Ở đây tôi không bàn tới nội dung hay nghệ thuật của loại tiểu thuyết đăng từng kỳ trên báo, mà chỉ muốn nói tới khía cạnh thực tế, đó là việc viết tiểu thuyết đăng báo từng kỳ giúp cho nhà văn phương tiện sống và vẫn có thể đồng thời tiếp tục viết. 

    Đối với một người thích viết, thì việc có dịp viết mà không bị ai cấm cản hay chỉ đạo này kia, đã là một cái thú, mà lại viết ra tiền để sống, không phải làm một “nghề tay trái” để nuôi ngòi bút, như trường hợp của tôi và một số văn hữu khác, thì càng thú vị hơn, phải không?

    Thú vị tới một lúc nào đó, đó là chuyện khác.

    Ta hãy nghe Túy Hồng kể trong một bài phỏng vấn sau này ở hải ngoại khi đã có đủ một thời gian dài nhìn lại quãng đời cầm bút trước 1975: “Tôi viết nhiều: truyện ngắn, truyện dài, viết tiêu đề nhạc, viết phiếm luận, tạp ghi, bình luận. Một năm rưỡi sau khi lập gia đình [năm 1967] là thời gian sanh sản. Và cũng là thời gian tôi viết nhiều nhất. Cứ cầm bút là tôi ngoáy như cầm đũa vậy. […] Truyện vừa viết xong, mực nhà báo chưa ráo, đã vội đưa cho nhà in, vì nhà xuất bản đã đặt mua từ cả năm trước. Lúc đó, tôi viết văn siêu thị, có lượng mà không có phẩm.” Có lúc Túy Hồng viết tới năm truyện dài, tức là “năm bài cho năm truyện dài đăng trên các báo.” [4]

    “Thời gian đó, tôi xin nghỉ dạy vì nhiều khi phải viết thêm truyện ngắn hoặc các loạt bài khác,” Túy Hồng kể tiếp. “Có mấy cuốn sách in xong, tôi cũng không có thì giờ coi cái bìa ra sao, sách in xấu đẹp, sai đúng chỗ nào. Thường thường, các nhà xuất bản đưa cho mười cuốn sách để tôi tặng các thân hữu Thanh Nam ra lệnh, em ký tặng ông này một cuốn, bà kia một cuốn, em biếu ông Tổng giám thị trường Mạc Đĩnh Chi một cuốn để lỡ em có đi dạy trễ, học trò làm ồn, ông ấy che chở cho em… Trong bốn năm viết feuilleton đó, nhiều lúc tôi đã ao ước có được một tuần lễ quẳng cây bút qua cửa sổ ngồi ôm con xem ti vi và nói chuyện tầm phào với các chị em tôi.”

    Hỏi thế viết văn và viết báo, tức feuilleton, khác nhau ra sao, thì Túy Hồng dứt khoát: “Viết feuilleton là viết báo, mà cũng là viết văn.”

    Châu về Hợp Phố: Nguyễn Thị Thụy Vũ

    Sau năm 1975, như bao người cầm bút miền Nam khác ở lại quê hương, Thụy Vũ ngưng viết. Chị làm đủ mọi nghề có thể để nuôi ba đứa con còn nhỏ, từ bán vé xe đò đến buôn thúng bán bưng, rồi cuối cùng đem con cái về quê sống với mẹ và làm rẫy. Cha của lũ nhỏ, nhà thơ Tô Thùy Yên (1938-2019), sau khi đi tù cải tạo về thì được nhận cho sang Mỹ định cư với gia đình chính thức của anh.

    Trong đám con của Thụy Vũ có một cô bé bị liệt não từ khi mới hai tuổi sau khi bị té dập đầu. Vào giữa thập niên 1990, nhân một dịp theo một chị bạn của Thụy Vũ về quê thăm mẹ con chị, nhà văn Văn Quang khám phá ra Thụy Vũ có cô con tật nguyền này. Nghe chuyện thương tâm, Văn Quang viết về chuyến viếng thăm này, mô tả hoàn cảnh của mẹ con Thụy Vũ, và không quên kêu gọi bà con ở hải ngoại giúp đỡ mẹ con chị. Việc bà con hải ngoại đáp lại lời kêu gọi này thật cảm động. 

    https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/04/image-2.png


    10 tác phẩm được tái bản của Nguyễn Thị Thụy Vũ, đánh dấu sự trở lại của tác giả vào năm 2017. Nguồn ảnh: Báo Tuổi trẻ. 

    Kết quả nhà văn nữ nhận được trên 20.000 Mỹ kim trợ giúp từ những tấm lòng hải ngoại. Chị dùng tiền đó để làm ăn buôn bán nuôi dựng các con nên người.

    “Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…” Thụy Vũ tâm sự gần đây với một nhà báo. [5]

    Song niềm vui không dừng lại ở những đồng Mỹ kim ân tình mà người hải ngoại, trong đó nhiều người là độc giả của chị trước năm 1975, gửi giúp mẹ con chị trong cơn khốn khó.

    Niềm vui lớn và bất ngờ của Thụy Vũ là khi nhà xuất bản Hội Nhà văn và Phương Nam Books ở Sài Gòn, vào đầu năm 2017, đã xin chị cho phép tái bản bộ 10 tác phẩm viết từ trước 1975 của chị — những đứa con tinh thần tưởng đã chìm vào quên lãng của thời gian và dâu bể. Những tác phẩm này gồm ba tập truyện ngắn và bẩy truyện dài, trong đó có truyện Khung Rêu, giải Văn học Nghệ thuật toàn quốc năm 1971. Là nhà văn nữ gốc miền Nam duy nhất trong năm chị em chúng tôi, Thụy Vũ có cái kho kinh nghiệm đặc thù miền Nam, cái đơn sơ mộc mạc và giọng nói đặc Nam khiến chị dễ hòa mình với các cảnh ngộ của đời sống bình dân xung quanh, mà chị đã đem vào tác phẩm. 

    Độc giả miền Nam, xưa cũng như mới đây, nhìn thấy qua các tác phẩm dù xuất bản đã trên bốn thập niên trước, hình ảnh về một quá khứ thân yêu đã không còn. Và họ đã đón nhận chị nồng nhiệt. Chị kể với tôi, nhân chuyến tôi ghé thăm chị cách đây trên hai năm, là hôm ra mắt sách chị ký tên từ 2 giờ chiều tới tận tám giờ tối mới dứt. “Nhiều người mua sách thuộc giới trẻ”, chị nói.

    https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/04/image-3.png


    Thụy Vũ, 80 tuổi, trong buổi ra mắt sách đợt đầu của bộ 10 tác phẩm gồm ba tập truyện ngắn và bẩy truyện dài viết trước 1975 và được nhà xuất bản Hội Nhà văn và Phương Nam Books ở Sài Gòn tái bản, ngày 20 tháng 3, 2017. Ở mỗi bìa sách, trong một ô tròn trên góc trên tay trái đều ghi “Một trong năm nữ nhà văn nổi tiếng nhất của miền Nam trước 1975”. Nguồn ảnh: Tuổi trẻ Online. 

    “Phần lớn cuộc đời tôi kiếm tiền nuôi con bằng việc viết feuilleton trên các nhật báo,” Thụy Vũ kể với tác giả bài tường thuật buổi ra mắt bộ sách xuất bản thời Cộng hòa song đã tiếp tục được đón nhận nồng nhiệt hơn bốn thập niên sau.

    “Mỗi sáng tôi tới tòa soạn, viết tay trên mấy tờ giấy có kẻ ô, đưa nộp cho họ rồi chạy ù sang toà soạn khác, viết tiếp cái feuilleton khác. Ba chỗ như vậy. Nhuận bút rất cao, đủ cho tôi nuôi mỗi bà vú cho mỗi đứa con,” Thụy Vũ kể.

    “Tôi bắt đầu bằng những truyện ngắn được đăng trên tạp chí Bách Khoa. Đó là những truyện viết cẩn thận ý tứ nhất của tôi, so với các feuilleton sau này. Những truyện feuilleton đó đều được in thành sách nhưng tôi phải chỉnh sửa rất nhiều. Bởi trong đó ngoài vô số lỗi chính tả còn có chuyện lẫn lộn các nhân vật trong các feuilleton khác nhau. Tôi vẫn coi truyện ngắn in trên Bách Khoa là mẫu mực, giống như người chồng chính thức trong gia đình, còn các feuilleton khác thì giống như chuyện ngoại tình, khó mà so sánh chúng cùng nhau.”

    https://luatkhoa.com/2025/04/phu-nu-viet-van-thoi-cong-hoa-ky-2-manh-dat-mau-mo-cho-van-hoc/


    Không có nhận xét nào