Bài 2. Hết
Nguyễn Hạnh / Tạp chí Luật Khoa
16/5/2025
Nguồn ảnh: Vietnam - Reconstruction and the postwar economy; Newspapers. Đồ hoạ: Thanh Tường / Luật Khoa
Tháng 8/1979, tờ Washington Post đưa tin chính quyền Việt Nam đã đẩy người Hoa đến các khu kinh tế mới sau khi tịch thu tài sản của họ vào tháng 3/1978. [1]
Chính quyền Việt Nam được cho là sử dụng nhiều hình thức khác nhau đối với người Hoa như đuổi việc họ khỏi cơ quan nhà nước, yêu cầu họ phải cung cấp nhiều loại giấy phép kinh doanh, đóng cửa trường học của người Hoa, không cho con em người Hoa nhập học. [2] [3]
Một nhà ngoại giao nói với tờ Washington Post rằng các khu kinh tế mới vào lúc này đã được chính quyền sử dụng để đày đọa những người bất đồng với chính quyền. [4]
Hai thuyền nhân cho biết chính quyền đã yêu cầu họ lao động dài hạn trong các khu kinh tế mới dựa vào cấp bậc của họ trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Các nhà ngoại giao nói rằng những khu kinh tế mới với điều kiện khắc nghiệt đến nỗi không ai muốn sống ở đó. Và nó đã được dành cho một số các gia đình cựu quân nhân, công chức chế độ cũ. [5]
Từ năm 1976 – 1980 đã có 1,4 triệu người dân cả nước bị đưa đến các khu kinh tế mới. [6]
Năm 1981, một bài báo cho biết kế hoạch đẩy người dân đến các vùng kinh tế mới nhằm giảm dân số của Sài Gòn đã thất bại. [7]
Nhiều người dân đã quay trở lại và sống lang thang ở thành thị. [8]
Sài Gòn vẫn còn khoảng 3,5 triệu dân với 20% số dân thất nghiệp.
Một nhân chứng cho biết sau khi người dân rời bỏ các khu kinh tế mới, chính quyền đã yêu cầu họ phải quay trở lại. [9]
Nhà nghiên cứu Lâm Văn Bé cho rằng ngoài mục đích khai hoang thì các khu kinh tế mới còn nhằm phân tán thành phần dân cư tại Sài Gòn và các đô thị lớn, vốn là nơi cư ngụ của những người thân thuộc với chế độ cũ và có thể chống đối chế độ mới. [10]
Ông cho biết chính quyền sử dụng nhiều biện pháp để ép người dân “đi kinh tế mới” như thu hồi sổ hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và nhu yếu phẩm, không cho trẻ em nhập học, dùng lực lượng công an để khủng bố tinh thần.
Lao động “không công”
Nhưng đâu chỉ có bị cưỡng ép đến các khu kinh tế mới, lao động tập thể cũng là một nỗi ám ảnh đối với người dân miền Nam.
Hãng tin Copley dẫn lời một thuyền nhân tên Lê Văn Hai ở Vĩnh Long cho biết trong ba năm (1975 – 1978), ông bị bắt đi lao động tập thể sáu lần. [11]
“Chúng tôi làm việc từ 6:00 – 18:00 giờ trong 15 ngày liên tiếp, không có ngày nghỉ, không được trả công, phải ngủ ngoài trời và phải tự mang theo đồ ăn”, ông Hai nói và cho biết thêm khi ấy, mỗi xã phải cử từ 400 – 500 người đi đào kênh, nữ độc thân và nam giới từ 17 đến 45 tuổi sẽ được chọn để đi lao động.
Trẻ em 12, 13 tuổi cũng phải đi đào kênh.
Cán bộ giải thích rằng mỗi tuần mỗi trẻ em phải lao động nửa ngày để chuẩn bị cho cuộc sống ở tương lai. [12]
Sinh viên có thể sẽ phải dành cả ngày chủ nhật để lao động.
Trong những năm 1980, con em của quân nhân chế độ cũ cho biết chính quyền đã bắt họ đi “nghĩa vụ lao động” sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Một người có cha là binh nhì thời Việt Nam Cộng hòa nói rằng anh đã chọn lao động 1,5 năm với điều kiện gia đình tự túc đồ ăn thay vì ba năm nếu nhà nước nuôi cơm.
Nhưng cuối cùng, anh phải lao động đến 2,3 năm thì mới được trở về nhà. Lý do, thời hạn lao động không tính bằng thời gian mà tính bằng khối lượng công việc phải hoàn thành.
Không người bình thường nào có thể hoàn thành khối lượng công việc được giao như đào sáu mét khối đất mỗi ngày, trong khi đó, không phải lúc nào đất cũng khô, người dân phải phát hoang rừng, nhổ sạch rễ cây già cỗi đã cắm sâu vào trong lòng đất.
Một bài báo cho biết chính quyền đã đặt ra quy tắc 50% đối với hầu hết các xã. Đó là chỉ 50% số thanh niên được phép ở lại các xã, còn còn lại sẽ phải đi lính, đi lao động trong các đội xây dựng hoặc đi các khu kinh tế mới. [13]
Trôi ngược về quá khứ
Năm 1981, tờ The Economist cho biết mô hình khu kinh tế mới theo kiểu Liên Xô của Việt Nam đã thất bại. [14]
Sản lượng nông nghiệp không đủ để nuôi sống người dân trong nước.
Việt Nam là một trong sáu nước nghèo nhất thế giới.
Một năm sau, cán bộ phụ trách báo chí quốc tế tại TP. HCM (Sài Gòn được đổi tên thành TP. HCM vào năm 1976 – người viết) nói với phóng viên hãng AP rằng trong năm 1975 và năm 1976, chính quyền đã phạm phải những sai lầm khi vội vã đưa người dân đến các khu kinh tế mới. Tuy nhiên, chính quyền vẫn sẽ tiếp tục di dân đến các khu kinh tế mới nhưng sẽ làm chậm hơn. [15]
Năm 1982, chính quyền cho biết đã có 200 nông trường quốc doanh ở miền Nam, gần 300 hợp tác xã nông nghiệp, hơn 1.000 tập đoàn sản xuất. Tuy nhiên, điều này cũng không mang đến nguồn lương thực đủ ăn cho người dân. [16]
Tình trạng Việt Nam lúc này hết sức khó khăn. Trẻ em, người lớn suy dinh dưỡng hơn cả người dân Campuchia. [17]
Người dân không chỉ thiếu ăn mà còn thiếu cả quần áo. Một phóng viên quốc tế nói rằng người miền Nam đã nghèo hơn trước năm 1975 khi nhiều người phải mặc đồ vá. [18]
Những chiếc áo dài đẹp đẽ đã vắng bóng trên đường phố.
Năm 1984, những cựu quân nhân, công chức chế độ cũ sau thời gian ở trại cải tạo đã phải chuyển đến các khu kinh tế mới vì không còn lựa chọn nào khác. [19]
Ngoài ra, nhiều bà mẹ có con lai với quân nhân Mỹ cũng bị đưa đến các khu kinh tế mới. [20]
Cũng trong năm 1984, chính quyền TP. HCM nói rằng sẽ đưa 150.000 dân đi trồng cao su. [21]
Năm 1985, Ủy ban Quốc gia về Dân số và Kế hoạch hóa gia đình do Đại tướng Võ Nguyên Giáp lãnh đạo đưa ra kế hoạch tái định cư cho 10 triệu người miền Bắc vào Tây Nguyên và miền Nam. [22]
Ngay sau năm 1975, người dân miền Bắc đã di cư vào miền Nam nhưng đã sớm quay trở lại miền Bắc. [23] Lý do chủ yếu vì đất đai cằn cỗi, cây trồng không phù hợp với đất, thiếu phân bón, dụng cụ, máy móc làm nông.
Điều kiện sống ở của các khu kinh tế mới quá sức tưởng tượng đối với họ.
Vào lúc này, những người sống ở các khu kinh tế mới ở miền Nam cho biết thu nhập một tháng của họ là ba USD cộng với trợ cấp cấp thực phẩm từ chính phủ, bao gồm một ký thịt mỗi tháng. [24]
Năm 1986, chính phủ quyết định trong 5 năm phải đưa bảy triệu người dân miền Bắc vào miền Nam với lý do phân phối lại lực lượng lao động. [25]
Trong khi người dân miền Nam trước đây đã bị đưa đến các khu kinh tế mới gần như với hai hai bàn tay trắng, thì người dân miền Bắc lúc này được chính quyền chuẩn bị khá đầy đủ để Nam tiến.
Nam dưới 45 tuổi, nữ dưới 40 tuổi sẽ được chính quyền hỗ trợ di cư vào miền Nam.
Chính quyền sẽ hoàn trả tài sản của họ đã để lại ở miền Bắc và cho phép mang theo tối đa 300 kg hành lý.
Tại miền Nam, họ sẽ được cấp một ngôi nhà mới, chăn, giày, mũ, sáu tháng lương thực và sẽ được giữ lại toàn bộ sản lượng nông nghiệp trong năm đầu tiên.
Vào lúc này, dòng thuyền nhân rời khỏi Việt Nam đột nhiên tăng mạnh, đặc biệt là tại Hồng Kông.
Một bài báo của tờ The Age cho biết số thuyền nhân đến Hồng Kông đã tăng đến 87% vào năm 1986 và tiếp tục tục tăng thêm 20% nữa vào năm 1987. [26]
Số thuyền nhân là người miền Bắc lúc này chiếm đến 70%. Một số thuyền nhân nói rằng họ vượt biên để tránh bị đưa đến các khu kinh tế mới. [27]
Một số nghiên cứu ước tính rằng có hơn một nửa số người di dân đến các khu kinh tế mới đã không thể trụ lại. [28] Họ đã quay trở lại quê nhà hoặc đi tìm nơi sinh sống khác.
Giai đoạn cuối cùng
Năm 1989, chính quyền Việt Nam cho biết đã có hai triệu người đã di cư đến các khu kinh tế mới từ năm 1981. [29] [30]
Chính quyền vẫn cho rằng các khu kinh tế mới là cần thiết.
Năm 1992, một bài báo cho biết thuyền nhân tại trại tị tại Hồng Kông không muốn hồi hương do lo lắng bị đưa họ đến các khu kinh tế mới sau khi trở về Việt Nam. [31]
Năm 1993, TP. HCM đã lên kế hoạch tạo ra 555.000 việc làm trong các “khu công nghiệp mới” và “kinh tế mới”. [32]
Một năm sau, Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam sau 19 năm. [33]
Việt Nam chuyển hướng sang phát triển các khu công nghiệp nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, các chính sách di dân trong nước được nới lỏng nhằm tạo ra lực lao động giá rẻ để thu hút các nhà đầu tư và tạo việc làm cho người dân. [34]
Từ đây, các khu kinh tế mới không còn được báo chí quốc tế nhắc đến.
Dòng thuyền nhân rời khỏi Việt Nam cũng chậm lại.
Các nước Đông Nam Á và những nơi xa hơn như Hồng Kông đã hồi hương thuyền nhân trở về Việt Nam.
Một số nước đã đóng cửa các trại tị nạn, một số nơi vẫn cho thuyền nhân ở lại như Philippines.
Các khu kinh tế mới, lao động tập thể đã trở thành ký ức kinh hoàng của người dân sau năm 1975, bên cạnh trại cải tạo, phong trào đốt sách, thiếu thốn lương thực, thất nghiệp triền miên.
Đất nước đã trôi ngược về quá khứ sau ngày “giải phóng”.
https://luatkhoa.com/2025/05/di-kinh-te-moi-sau-ngay-giai-phong-noi-kinh-so-cua-dan-mien-nam-lan-mien-bac/
Không có nhận xét nào