KHG Dương Nguyệt Ánh quyết tâm giải oan cho chiến sĩ VNCH, giáo dục giới trẻ, không thể hòa giải với nhà cầm quyền VNCS
Song ngữ Việt Anh
03/5/2025
KHG Dương Nguyệt Ánh quyết tâm giải oan cho chiến sĩ VNCH, giáo dục giới trẻ, không thể hòa giải với nhà cầm quyền VNCS
Đã 50 năm qua kể từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản (CS). 50 năm là một thời gian đủ dài để cho những người Việt tha hương xây dựng lại mái nhà và một đời sống sung túc mới bên ngoài quê hương. Nhưng 50 năm vẫn chưa đủ dài và có lẽ sẽ không bao giờ đủ dài để chúng ta quên đi cái tang chung và quên được Việt Nam (VN), hay nói rõ hơn là quên được Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Những ngày tháng đầu đặt chân đến Hoa Kỳ (HK) tị nạn, tôi vô cùng ngỡ ngàng khi thấy truyền thông, báo chí, sách vở, phim ảnh và học đường HK mô tả chiến tranh VN khác hẳn với những gì chính tôi và gia đình tôi đã sống qua. Vì thiên tả và phản chiến, họ đã thiếu lương thiện hoặc mù quáng đến nỗi bóp méo sự thật và nhục mạ không chỉ quân đội VNCH mà cả binh sĩ HK của họ. Vì thế quần chúng HK nói riêng và thế giới nói chung có một hiểu biết rất sai lệch về chính nghĩa của miền Nam. Bao nhiêu năm sau khi miền Nam sụp đổ, tôi vẫn mang trong lòng một cái hận. Cái hận nước mất nhà tan chưa đủ, tôi còn mang thêm nỗi uất hận và cảm giác đau đớn bất lực khi thấy chiến sĩ của mình tiếp tục bị hàm oan và sỉ nhục. Những người quân nhân HK thì bị vơ đũa cả nắm là những tên sát nhân phụ nữ và trẻ thơ. Những chiến sĩ VNCH vào sinh ra tử trong đó có anh ruột tôi thì bị vu khống là hèn nhát. Cả quân đội VNCH bị bỏ rơi và cuối cùng bị ra lệnh đầu hàng vào 30 tháng 4 mà tại sao bị đổ tội làm cho mất nước.
Hôm nay, tôi vẫn còn mang trong lòng sự tức giận này nhưng tôi không còn cảm thấy bất lực nữa. Trong khi tôi từ một người tị nạn buồn tủi năm xưa trở thành một công dân HK với đầy tự tin hôm nay thì tôi cũng đã học hỏi và nhận ra được nhiều điều. Tôi nhận ra rằng chính chúng ta phải tự giúp mình, chính chúng ta phải lên tiếng phản bác lại bọn truyền thông thiên tả, phải tự giải oan và không trông chờ vào ai khác. Ở những quốc gia tự do dân chủ như HK, ai cũng có thể lên tiếng tranh đấu hay bênh vực cho bất cứ một điều gì. Ngày nay với những sách báo điện tử và những trang mạng xã hội, truyền thông dòng chính không còn giữ độc quyền hướng dẫn dư luận nữa, và tiếng nói của thiểu số như chúng ta sẽ không sợ bị át giọng, miễn là ta có đủ quyết tâm.
Là thế hệ tị nạn đầu tiên chúng ta đã tạm lo xong chuyện cơm áo, đã thành công rực rỡ trên quê hương mới ở nhiều phương diện, và đã dựng lên những cộng đồng Việt trù phú ở khắp nơi. Bây giờ là lúc chúng ta đủ phương tiện và kinh nghiệm để dồn nỗ lực vào việc trả lại sự thật cho lịch sử. Chính chúng ta phải phục hồi danh dự cho chiến sĩ của mình và chính chúng ta phải giáo dục quần chúng về chiến tranh VN và chính nghĩa của quân dân VNCH, nhất là cho thế hệ con cháu của chúng ta. Với tình trạng thiên tả ở các học đường HK, từ sách vở tài liệu giảng huấn cho đến khuynh hướng chính trị của giáo sư, chính con cháu chúng ta cũng sẽ hiểu biết sai lệch nếu cha mẹ không giải thích.
Hậu quả là con cháu chúng ta không những sẽ không biết hãnh diện mà có thể còn mặc cảm về nguồn gốc VNCH của họ, cho rằng cha ông chỉ là những kẻ thua trận cay cú nên mới chống chính quyền VNCS. Từ đó họ không tha thiết đến việc tìm biết thêm về cái gốc của mình, không tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt quốc gia (CDNVQG), và thờ ơ với những vấn đề liên quan đến sự trường tồn của dân tộc VN. Còn nếu họ có lòng và vẫn quan tâm đến VN thì chính vì họ xa lạ với CDNVQG, họ sẽ dễ nhiễm tuyên truyền và dễ ngả về phía CSVN.
Một trong những chiêu bài bọn tay sai CS ở hải ngoại dùng nhiều nhất là kêu gọi hòa hợp hòa giải và hợp tác với chính quyền VN. Đã gọi là hợp tác tức là phải có một mục đích chung. Mục đích của chúng ta là bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia của VN, là tạo tự do, cơm no áo ấm cho người dân VN. Mục đích của họ chỉ là củng cố quyền lực cho đảng và giai cấp tư bản đỏ, bằng mọi giá và bất chấp mọi hậu quả cho dân tộc và tổ quốc VN, như đã được chứng minh bằng những hành động dâng đất dâng biển cho Trung Cộng và ăn cắp tài nguyên quốc gia làm của riêng. Mục đích của họ và của ta không những không thể dung hòa mà còn đối kỵ nhau nên người Việt quốc gia hải ngoại không thể hợp tác hay hòa hợp hòa giải gì với nhà cầm quyền VN được.
30 tháng 4 không thể chỉ là một ngày tang buồn với những hồi tưởng và nước mắt. Khi nhớ đến những cái chết bi hùng của chiến sĩ VNCH và những tai ương đã đổ lên đầu quân dân miền Nam, chúng ta cần có những bước tới tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa, để trả lại sự thật cho lịch sử, để giáo dục tuổi trẻ VN và dư luận thế giới về chiến tranh VN và phục hồi danh dự cho quân dân VNCH.
Tôi xin nhân dịp này bầy tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những ai đã từng tranh đấu và hy sinh cho chính nghĩa tự do của miền Nam VN, những chiến sĩ đã bỏ mình, và những thưong phế binh đang sống tủi cực ở quê nhà. Nhờ chiến sĩ mà hôm nay tôi được sống tự do và bình an, được có cơ hội để theo đuổi những hoài bão riêng và mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình. Tôi mãi mãi không quên ơn chiến sĩ.
Dương Nguyệt Ánh
April 2025
***
Bản Anh ngữ do AI Grok3 dịch:
Dương Nguyệt Ánh’s Resolve to Clear the Name of RVN Soldiers, Educate the Youth, and Reject Reconciliation with the Vietnamese Communist.
It has been 50 years since South Vietnam fell into the hands of the communists (CS). Fifty years is long enough for Vietnamese exiles to rebuild their homes and establish prosperous new lives outside their homeland. But 50 years is not long enough, and perhaps never will be, for us to forget the collective loss or to forget Vietnam—more specifically, the Republic of Vietnam (RVN).
In my early days as a refugee arriving in the United States (US), I was utterly shocked to see how American media, books, films, and schools portrayed the Vietnam War in a way that starkly contradicted what my family and I had lived through. Driven by leftist and anti-war sentiments, they were either dishonest or blindly distorted the truth, defaming not only the RVN military but also their own American soldiers. As a result, the American public and the world at large developed a deeply flawed understanding of the South’s just cause. Years after the fall of South Vietnam, I carried a lingering resentment. The pain of losing our country and homes was not enough; I also bore the anguish and helpless frustration of watching our soldiers continue to be wrongfully accused and insulted. American soldiers were unfairly branded as murderers of women and children, while RVN soldiers, including my own brother who risked his life, were slandered as cowards. The RVN military was abandoned and ultimately ordered to surrender on April 30, yet somehow blamed for the loss of the nation.
Today, I still carry this anger, but I no longer feel powerless. From a sorrowful refugee of the past, I have become a confident U.S. citizen. Through the years, I have learned and realized many things. I’ve come to understand that we must help ourselves, that we must speak out to counter the leftist media, clear our own name, and not rely on anyone else. In free and democratic countries like the U.S., everyone has the right to speak out, advocate, or defend any cause. Today, with electronic books, social media, and other platforms, mainstream media no longer holds a monopoly on shaping public opinion. The voices of minorities like us will not be drowned out, as long as we have the determination to speak.
As the first generation of refugees, we have largely settled our basic needs, achieved remarkable success in our new homeland in many fields, and built thriving Vietnamese communities worldwide. Now is the time for us to have the means and experience to focus our efforts on restoring the truth to history. We must restore the honor of our soldiers and educate the public about the Vietnam War and the just cause of the RVN’s people and military, especially for our children and grandchildren. With the leftist bias in American schools—from textbooks to the political leanings of professors—our own descendants risk developing a distorted understanding if we, as parents, do not explain the truth.
The consequence is that our children and grandchildren may not only fail to take pride in their RVN heritage but may even feel ashamed of it, believing their ancestors were merely bitter losers who opposed the Vietnamese communist regime. This could lead them to lose interest in learning about their roots, disengage from the activities of the Vietnamese national community (VNC), and become indifferent to issues concerning the survival of the Vietnamese nation. Even if they care about Vietnam, their disconnection from the VNC makes them vulnerable to communist propaganda and more likely to lean toward the Vietnamese Communist Party (VCP).
One of the most common tactics used by communist sympathizers overseas is to call for reconciliation and cooperation with the Vietnamese regime.
Cooperation implies a shared goal. Our goal is to protect Vietnam’s territory, sovereignty, and to bring freedom, prosperity, and security to the Vietnamese people. Their goal is to consolidate power for the Party and the red capitalist elite, at any cost and regardless of the consequences for the nation and homeland—as proven by their actions of ceding land and sea to China and plundering national resources for personal gain. Their goals and ours are not only irreconcilable but fundamentally opposed, making it impossible for overseas Vietnamese nationalists to cooperate or reconcile with the Vietnamese regime.
April 30 cannot merely be a day of mourning filled with memories and tears. When we recall the heroic sacrifices of RVN soldiers and the tragedies that befell the people of South Vietnam, we must take more proactive and resolute steps to restore historical truth, educate Vietnamese youth and the global public about the Vietnam War, and reclaim the honor of the RVN’s people and military.
On this occasion, I express my deepest gratitude to those who fought and sacrificed for the cause of freedom in South Vietnam, to the soldiers who gave their lives, and to the wounded veterans living in hardship back home. It is because of these soldiers that I live in freedom and safety today, with the opportunity to pursue my personal aspirations and seek happiness. I will forever be grateful to them.
Dương Nguyệt Ánh
April 2025
Nguyet Anh Duong – The Bomb Lady
Nguyet Anh Duong (Dương Nguyệt Ánh; born 1960 in Saigon) is a Vietnamese American scientist responsible for the creation of the Thermobaric weapon.
During the Vietnam War, her family left their homeland on April 28, 1975, right before the Fall of Saigon
Becoming one of the Vietnamese boat people, they eventually arrived in the Philippines. From there, they were assigned to a refugee camp. Her family then contacted the Embassy of the United States, Manila and were given political asylum in the United States. She graduated from the University of Maryland, College Park with both a B.S. degree in Chemical Engineering and a B.S. degree in Computer Science.
In 1983 she started working as a Chemical Engineer at the Indian Head Naval Surface Weapons Center. From 1991-1999, she managed all Navy basic, exploratory research and advanced development programs in high explosives. From 1999-2002, she managed all NSWC Indian Head’s technical programs in Explosives and Undersea Weapons, from concept through engineering development to production and demilitarization.
She successfully assembled and led a team of scientists and engineers to develop a Thermobaric bomb. They then proceeded to limited production and delivery to the Air Force, all in an unprecedented period of 67 days
Since 2002, Nguyet Anh has been the Director of Science and Technology of Naval Surface Warfare Center, U.S. Department of Defense, where she was responsible for Indian Head’s overall technical investment strategies, guiding and overseeing research and development programs in all areas of science and technology and focusing these efforts toward the creation of future weapon generations for the United States.
Since 2009, Duong has been the Director for the Borders and Maritime Security Division within the United States Department of Homeland Security Science and Technology Directorate.
Dương Nguyệt Ánh (sinh năm 1960) là một nữ khoa học gia người Mỹ gốc Việt. Bà cùng gia đình tị nạn tại Mỹ năm 1975 sau khi cộng sản đánh chiếm Việt Nam Cộng hòa.
Dương Nguyệt Ánh rời Việt Nam năm 1975 cùng với gia đình bằng trực thăng, trong làn sóng người Việt tỵ nạn Cộng sản vào cuối Tháng Tư và đến được Philippines. Sau một thời gian ở trại tạm cư ở Pennsylvania, Hoa Kỳ, gia đình được định cử ở vùng Washington, DC.
Dương Nguyệt Ánh tốt nghiệp Đại học Maryland ngành kỹ sư hóa học, khoa học điện toán và quốc gia hành chánh rồi được tuyển vào làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu của Hải Quân Maryland.
Trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ Dương Nguyệt Ánh nhậm chức Giám đốc Khoa học và Kỹ thuật (Director of Science and Technolgy) của chi nhánh Indian Head Division thuộc Trung tâm Vũ khí Hải quân Hoa Kỳ (Naval Surface Warfare Center) tại Maryland, tiểu ban chất nổ với nhiều giải thưởng. Bà từng là người đại diện cho Hoa Kỳ trong lãnh vực chất nổ tại Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO). Bà cũng là tác giả của bom áp nhiệt (thermobaric bomb).
Năm 2005, bà được cử về Bộ Quốc phòng Mỹ làm cố vấn khoa học cho phó Đề Đốc Hải Quân Hoa Kỳ về thông tin và chiến thuật tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2008 bà được bổ nhiệm làm Giám đốc An ninh Biên giới và Lãnh hải (Director of the Borders and Maritime Security division) thuộc nha Khoa học và Kỹ thuật (Science and Technology Directorate) của Bộ Nội an Hoa Kỳ (Department of Homeland Security)
Không có nhận xét nào