(Đọc sách mới của Phan Thúy Hà)
16/5/2025
"... Chuyện “Con tàu hòa bình” kể về vợ chồng ông Rupert Neudeck, từ năm 1979 sáng lập ra Ủy ban Cap Anamur - một con tàu cho Việt Nam, đi cứu những người Việt Nam vượt biển gặp nguy hiểm trên biển Đông. Biết bao là bi kịch, nước mắt…
Đọc “Những ngày tháng năm” rất mệt, tôi nói thật, nhưng cứ xong rồi thì đọc lại. Khóc. Em gái tôi kể cô ấy đã xem đi xem lại 3 lần, bởi đó là cuốn sách không thể không đọc trong đời.
Không hiểu sao, tôi cứ đinh ninh tin rằng, về sau, nhắc đến văn chương hậu chiến xứ này, người ta nhớ ngay đến cái tên Phan Thúy Hà chứ không phải ai khác".
Vừa mới đây, cả nước nhộn nhịp kỷ niệm 50 năm “ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Năm mươi năm, nửa thế kỷ trôi qua, dài dặc mà như thoáng chốc.
Một nước gần thế kỷ đánh nhau hết cuộc này cuộc khác, chiến tranh như nỗi ám ảnh, muốn quên cũng chả được, nhất là những người đã trải qua nó. Hôm trước, bác cựu binh bên thắng cuộc gần nhà tôi ngậm ngùi bảo, phải đợi thế hệ tôi và ông chết đi, trôi vào cõi âm u, chỉ còn bọn trẻ không biết gì về súng đạn bom thì may ra mới bớt ùng oàng như vừa rồi. Nhắc tới chiến tranh, hãi lắm, tự hào làm gì.
Vậy nhưng vẫn có người nặng nợ về chiến tranh - cô Phan Thúy Hà.
Trong suy nghĩ của tôi và nhiều người từng đọc sách của Hà, cô không phải nhà văn, mà là người chép sử. Sử được Hà chép/ghi/biên lại hoàn toàn khác với thứ sử chính thống, sử quốc doanh, một chiều, ta thắng địch thua, vinh quang, vẻ vang… mà ta thường đọc trong sách giáo khoa dạy học trò, trong những hội nghị hội thảo rùm beng đầy thỏa mãn, những diễn văn mua vài tràng vỗ tay.
Sử trong sách Hà được lấy từ sự thật, con người thật, từ mọi chiều mọi góc, nhiều nhất là từ những bi kịch của dân tộc cũng như cá nhân mà sử quốc doanh cố tình lờ đi, giấu kín.
Sự thật chiến tranh được Hà dùng văn chuyển tải, nhưng không phải thứ văn ta thường đọc suốt mấy chục năm qua. Thứ văn mà cụ Hoàng Ngọc Hiến đặt tên “văn học phải đạo”, cụ Nguyễn Minh Châu từng đề nghị “ai điếu cho nền văn nghệ minh họa”, ta thắng địch thua, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được hư cấu, tưởng tượng đúng theo tinh thần của tuyên giáo tuyên huấn.
Những “Hòn Đất”, “Dấu chân người lính”, “Người mẹ cầm súng”, “Vùng trời”, “Chúng tôi ở Cồn Cỏ”, “Mẫn và tôi”, “Cửu Long cuộn sóng”… chỉ cung cấp cho người đọc cách nhìn phải đạo (cách mạng), thiên lệch, về ta thắng địch thua; giờ bình tĩnh đọc lại thấy khác xa sự cảm nhận thuở trước. Người ta không mặn mà nữa bởi nó là sản phẩm của trí tưởng tượng, hư cấu, giả tạo.
Phan Thúy Hà đi theo con đường khác: Dùng văn học phi hư cấu dựng lại cuộc sống, con người, bản chất chiến tranh đúng như vốn có, không né tránh, không thêm thắt hư cấu, nhất là không để cảm xúc, thái độ, suy nghĩ cá nhân mình can thiệp vào, chen vào. Sách của Hà không phải dạng sáng tác, không giống thứ văn chương phải đạo rất phổ biến lâu nay.
Hà như người làm sử không chuyên, cặm cụi ghi chép, biên lại tỉ mỉ người thật việc thật chuyện thật từ những nhân chứng - những chứng nhân có khi chỉ chậm vài ba năm nữa không còn tồn tại trên cõi đời này, hoặc trí nhớ trở về số 0.
Sách viết về chiến tranh qua sự “chép sử - biên văn” của Hà thoáng đọc cảm thấy khô khan, dính vào rồi thì không dứt ra được. Chỉ có thể tạm ngưng con mắt khi lòng dậy lên nỗi buồn, khổ đau, thương xót. Buông tiếng thở dài, thương cho đất nước, con người, nhất là những người bị đẩy, bị cuốn vào vòng xoáy dữ dội, tang thương.
Những cuốn sách biên chép phi hư cấu, văn là sử, sử là văn của Hà về chiến tranh, như “Đừng kể tên tôi”, “Tôi là con gái của cha tôi”, “Những trích đoạn của các anh”, và mới nhất “Những ngày tháng năm” gợi ngay những lời đau xót “Ngẫm từ dấy việc binh đao/Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu” (Nguyễn Du), “Nghĩ cho cùng/mọi cuộc chiến tranh/Phe nào thắng thì nhân dân đều bại” (Nguyễn Duy).
Hà không làm được thơ đúc rút cô đọng về chiến tranh như vậy, nhưng những cuốn sách, trang viết phi hư cấu về chiến tranh của Hà đã thành dẫn chứng ghê gớm về sự khủng khiếp của chiến tranh. Chúng na ná như “Bên thắng cuộc” của Huy Đức từng khiến nhiều nhà sử quốc doanh phải bẽ bàng. Thật tiếc lúc này không có Huy Đức viết vài dòng về “Những ngày tháng năm” như anh từng làm ở mấy cuốn trước.
Những biên niên sử “Đừng kể tên tôi”, “Những ngày tháng năm”… giúp người đọc làm cuộc nhận thức lại một cách chính xác về chiến tranh, cuộc nội chiến (chữ dùng của ông Lê Duẩn) Bắc - Nam 21 năm trời. Bao nhiêu màu mè, giả dối, tô vẽ, một chiều từng tồn tại lâu nay bị phơi bày bởi sự thật. Văn của Phan Thúy Hà là sự thật, sự thật, sự thật.
Rồi sau này, “năm tháng qua đi, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét”. Không cần gợi chiến tranh bằng những kỷ niệm này nọ nữa bởi người ta cứ nhớ tới chiến tranh lại rùng mình ghê sợ, cầu mong nó đừng bao giờ xảy ra, thì có lẽ sách của Phan Thúy Hà đã hoàn thành nhiệm vụ.
Trên bìa cuốn “Những ngày tháng năm” Hà vừa gửi cho tôi, có dòng thẳng hàng chữ nhỏ li ti như con kiến, nếu không để ý sẽ chẳng thấy, rằng “cuốn sách cuối cùng về chiến tranh”. Có lẽ tác giả đã quá mệt mỏi về thứ mà các nhà văn muốn né tránh này. Đó là sự buồn, thiệt thòi cho bạn đọc. Và có thể sự mệt mỏi do nguyên nhân khác.
Tôi để ý, bìa sách thoạt nhìn như không có tên tác giả, săm soi mới thấy cái tên Sơn Khê nhỏ xíu, mờ nhạt, như có như không (ảnh chụp kèm theo để so sánh với những cuốn trước). Ra được “Những ngày tháng năm” là cả sự đoạn trường, vất vả? Dòng chữ con kiến có thể sinh ra từ đây chăng?
Cái tên cũng mất, nhưng tôi đảm bảo cô gái Hà Tĩnh bé con con ấy và những cuốn sách của cô sẽ bám chắc khừ, in đậm mãi trong nền văn chương xứ này về sau, chứ không như thứ văn chương phải đạo, minh họa.
Làm văn tử tế ở xứ ta khó vô cùng.
NGUYỄN THÔNG 07.05.2025
vendredi 16 mai 2025
Nguyễn Thông - Văn thời hậu chiến (2)
(Đọc sách mới của Phan Thúy Hà)
Cầm cuốn sách “Những ngày tháng năm” của Phan Thúy Hà, cũng không đến nỗi dày, chỉ 263 trang, tôi tần ngần mãi.
Chẳng phải không muốn đọc, dù chính tôi đã đọc nó rồi khi còn bản thảo, mà sợ rơi vào tâm trạng ghê sợ chiến tranh. Cả cuốn sách là nỗi buồn chiến tranh, phơi bày thực chất chiến tranh mà lâu nay người ta cố giấu trong các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Tôi đã đọc nhiều, có thể nói hầu hết tác phẩm dòng phi hư cấu của Hà, thậm chí có những cuốn được tác giả tin cậy cho đọc trước khi xuất bản. Nhưng chưa lần nào để viết đôi dòng về sách lại dùng dằng, khó, vất vả như với cuốn này.
Sách của Hà luôn chứa đựng những nỗi buồn vốn sẵn trong đời sống, nhất là hoàn cảnh chiến tranh. Buồn muốn hét lên, như khi đọc “Gia đình”, “Đừng kể tên tôi”, “Qua khỏi dốc là nhà”, “Đoạn đời thơ ấu”… Vậy mà cuốn “Những ngày tháng năm” này buồn hơn, buồn đến mức câm lặng ngậm ngùi, không thèm hét nữa, chỉ chôn chặt trong lòng sự căm ghét chiến tranh, thương cho đất nước, dân tộc, con người bị tai ách chiến tranh, khiến “nhân dân đều bại”.
Như đã nói, Hà cặm cụi ghi chép, dựng lại cuộc sống, con người, số phận, những bi kịch chiến tranh bằng thứ văn phi hư cấu. Đọc xong, tự mình cảm nhận và đánh giá, bởi văn Hà không hề có ý ép buộc ai.
Đó là chuyện xảy ra ở làng Hạ Lội gần quê Hà, tháng 8.1968. Ông Trần Đình Trọng chủ tịch xã kể việc được cấp trên giao làm đường mới cho xe ô tô thoát túi bom. Ông nhớ lại hôm 13.8 sau khi hứa với cấp trên: “Đầu óc tôi căng thẳng. Nhiệm vụ đã nhận. Nói sao cho bà con nghe. Trước hết phải có khẩu hiểu hành động. Khẩu hiệu thế nào cho lọt tai. Vừa tốc lực đạp xe tôi vừa nghĩ, nghĩ câu này rồi bỏ, nghĩ câu khác. Cuối cùng, tôi ưng nhất với khẩu hiệu “Xe chưa qua nhà không tiếc”. Tôi nhẩm đi nhẩm lại khẩu hiệu trong đầu.
Họp xã, tôi nói tình hình nguy cấp lắm rồi. Vì thế, trên giao cho làng ta một vinh dự, là đêm nay bà con ta phải hy sinh nhà cửa để làm đường cho xe đi vào miền Nam kịp thời.
Bà Đinh Thị Trí giơ tay xin nói, giọng run rẩy: Nhà tôi nhà tre vách đất, tháo đi cũng không góp được mấy, trong nhà không có gì để hiến, tôi có bốn tấm ván để dành đóng hòm, nghe anh Trọng nói vậy, tôi xin được hiến đem đi làm đường, nhờ ai đến lấy giúp chứ sức tôi không đưa đi được”.
Tối ấy cả làng dỡ hết nhà cửa, cả nhà thờ họ, miếu làng để lấy gỗ đá gạch lót đường cho xe đi, chấp nhận ngủ bờ ngủ bụi. Không chỉ màn trời chiếu đất, mà còn là: “Sáng 14.8, máy bay tìm mục tiêu. Một quả bom rơi vào con mương, nơi mẹ con chị Chung Huấn đang nằm ngủ. Đêm qua, tháo nhà xong, chị Chung Huấn bụng bầu sắp sinh gánh đồ đạc và hai đứa con ra ở tạm con mương ngoài đồng, sát bên sông Già”.
Đó là chuyện chị Thân, lấy chồng là anh Quý, vừa lấy nhau được vài hôm thì anh lên đường, từng năm trôi đi, 1, 2, 3, 5, 7 năm cứ chờ đợi mong ngóng, lúc nào cũng “Không biết khi mô anh Quý về. Không biết khi mô anh Quý về để có con. Nghĩ đến là nước mắt. Năm 1970. Khi giấy báo tử đến nhà, chị Thân không còn tí sức nào trong người nữa. Chị nằm liền ba ngày”.
Chuyện chị Liên chồng đi bộ đội vào Nam, nhà trai tổ chức đám cưới vắng anh. Chị cứ vò võ chờ chồng bảy năm, được cả xã đề cao giỏi việc nước - đảm việc nhà - chung thủy với chồng. “Liên là chiến sĩ thi đua trong đội dân quân tự vệ, bắn súng giỏi, thi bắn súng hội thao luôn đạt giải nhất; tận tụy, hiếu thảo với bố mẹ chồng. Rồi chồng chị trở về. Anh không nhận Liên là vợ, bởi vì cưới vắng mặt anh. Anh lấy người khác. Liên khăn gói về nhà mẹ đẻ. Hết duyên rồi. Sau đó Liên ngậm ngùi làm vợ một ông già đã góa vợ có đàn con nhỏ”.
Chuyện chị Vương, “Thấy xung quanh nhiều người nhận tin chồng báo tử, sợ sẽ quá tuổi không sinh con được nữa, sau 6 năm chờ, Vương chấp nhận sự gièm pha của người đời, có con. Thì vừa năm đó chồng Vương về”.
Người kể chốt lại “Tôi chồng hy sinh, khóc. Liên, Vương chồng về cũng khóc”.
Chuyện “Một gia đình ở Khe Sanh” mấy thế hệ người Pháp, thật đau lòng. Nhân vật “tôi” kể những ngày xảy ra cuộc đánh nhau ở Khe Sanh - nơi trước đây được văn nghệ cách mạng ca ngợi thật đẹp thật hùng, chẳng hạn “Khe Sanh năm xưa anh đã về đây/Non sông nơi nơi dâng lên niềm vui/Nghe pháo nổ rền vang trời/Bao bốt đồn giặc tơi bời” (Bài ca đường 9 chiến thắng, nhạc sĩ Văn Dung).
Cả gia đình gắn bó với mảnh đất Khe Sanh, họ là con cháu của người đầu tiên đem cây cà phê đến trồng vùng này, cùng các vị linh mục chăm sóc cả vật chất lẫn linh hồn cho người Bru bản địa. Bỗng chốc chiến tranh, gia đình tan nát bởi pháo dập “tơi bời”.
Người con còn sống sót kể “Ngày 13.2.1968, bố tôi nghe một tin kinh hoàng: Cha Pierre Poncet và cha Créssonnier bị bắn chết. Ông Linarès, người đi cùng với hai cha, cho biết: cha Pierre Poncet tháp tùng cha Cressonnier tới chỗ các nữ tu ở Phủ Cam đang gặp nguy hiểm để tìm cách cứu họ. Trên đường trở về, đến gần sông thì một loạt súng tiểu liên từ trong bụi rậm nhằm vào các ngài”.
Chuyện “Con tàu hòa bình” kể về vợ chồng ông Rupert Neudeck, từ năm 1979 sáng lập ra Ủy ban Cap Anamur - một con tàu cho Việt Nam, đi cứu những người Việt Nam vượt biển gặp nguy hiểm trên biển Đông. Biết bao là bi kịch, nước mắt…
Đọc “Những ngày tháng năm” rất mệt, tôi nói thật, nhưng cứ xong rồi thì đọc lại. Khóc. Em gái tôi kể cô ấy đã xem đi xem lại 3 lần, bởi đó là cuốn sách không thể không đọc trong đời.
Không hiểu sao, tôi cứ đinh ninh tin rằng, về sau, nhắc đến văn chương hậu chiến xứ này, người ta nhớ ngay đến cái tên Phan Thúy Hà chứ không phải ai khác.
NGUYỄN THÔNG 16.05.2025
https://thuymyrfi.blogspot.com/2025/05/nguyen-thong-van-thoi-hau-chien-2.html
Không có nhận xét nào