Toàn Dân Vi Binh
Toàn Địa Vi Phòng
Toàn Tài Vi Dụng
Toàn Quốc Vi Chính
Việt Bào - Phạm Văn Bản
05/5/2025
Phù điêu Hội nghị Diên Hồng tại Đền thờ Đức Thánh Trần, Quận 1. Trong đó khắc họa rõ nét cảnh các vị bô lão thể hiện ý chí quyết đánh quân Nguyên
Người dân Việt chúng ta đang có việc làm trọng đại, mà xưa nay chưa thể hoàn thành, đó là Kết Hợp Toàn Dân hay đoàn kết dân tộc. Nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều đoàn thể đã từng đề cập và đòi hỏi trong những buổi hội thảo rằng phải có “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,” nhưng người ta thường lý luận việc kết hợp hay đoàn kết theo ý tưởng và đường hướng khác biệt với nhau.
Có người nói rằng, đoàn kết có nghĩa là tất cả tổ chức hiện hữu phải ngồi chung lại với nhau, làm chung một mục đích chống giặc cứu nước, nói chung một đường hướng lãnh đạo thống nhất, và nhìn chung một phương pháp hoạt động hữu hiệu là tự giải thể để sát nhập vào một cơ cấu tổ chức cầm quyền mới để có tầm mức vang vọng và rộng lớn hơn.
Có người lại cho rằng kết hợp, đoàn kết, hay ngồi lại với nhau thì các tổ chức đoàn thể đảng phái chính trị ấy, cần phục tùng một cộng đồng vốn sẵn vai trò lãnh đạo chỉ huy đang sẵn có ưu thế chính trị, quân sự, tài chánh, ngoại giao…
I. Kết Hợp Toàn Dân
Ðể có cái nhìn tổ chức và lãnh đạo chính trị thực tế hơn, mang ý nghĩa đúng đắn về việc làm Đoàn Kết Dân Tộc/ hay Kết Hợp Toàn Dân như Tổ Tiên Việt Nam đã thực hiện và thành công trong lịch sử, như Hội Nghị Diên Hồng thời Nhà Trần vào năm 1284 tại kinh thành Thăng Long khi triệu tập các Vị Bô Lão được lực lượng đông đủ Thanh Niên Việt Nam võng cáng các Cụ từ khắp làng mạc trên toàn cõi đất nước về Diên Hồng để trưng cầu dân ý là hòa hay chiến với đoàn quân xâm lăng Nguyên Mông hùng mạnh đã từng chiến thắng cả thế giới “da ngựa bọc thây!”
Cũng như Nguyên Lý Đồng Thuận (Principle of Consensus) của Toàn Dân Toàn Diện đã giúp cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ xây dựng đươc một nền kinh tế chính trị hùng cường thịnh vượng vào bậc nhất toàn cầu, thì Hội Nghị Diên Hồng của Việt Nam đã đạt Nguyên Lý Toàn Dân Toàn Diện gồm có 4 Nguyên Tăc là (1) Toàn Dân Vi Binh: mọi người là lính (2) Toàn Địa Vi Phòng: mọi nơi là lũy (3) Toàn Tài Vi Dụng: mọi tài được dùng (4) Toàn Quốc Vi Chính: Cả nước tham chính! Đây là đại cuộc kết hợp hệ thống Làng Xã Việt Nam.
Do đó chúng ta có thể quan niệm rằng, các tổ chức đoàn thể đảng phái chính trị của Cộng Đồng hiện nay như Kết Hợp Làng Xã của Tổ Tiên Việt Nam, thì mỗi Làng đã là một đơn vị độc lập có chủ quyền, không lệ thuộc hay không mang sắc thái riêng biệt từ hình thức cho đến nội dung, cơ cấu, luật lệ, phương thức sinh hoạt, chính sách, tài chánh, ngoại giao, tổ chức điều hành quản trị...
Và các Làng trong Nước đã không tạo ra đố kỵ tỵ hiềm, không bắt nhau phải giải thể giải tán... có chăng là sự thi đua, cạnh tranh để xây dựng, để phát triển trong làng... hầu mang lại đời sống hạnh phúc thịnh vượng cho toàn thể đồng bào trong làng, bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc.
Khi gặp loạn thì làng trở thành tiền đồn chống giặc, mọi người làm lính (toàn dân vi binh, toàn địa vi phòng, toàn tài vi dụng…) để bảo vệ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả, sự nghiệp ngàn đời của Ông Bà Cha Mẹ! Thời bình thì làng là đơn vị kinh tế, và gia tăng sản xuất để đóng góp công sức tài của cho quốc gia, cho quốc phòng.
Các làng gắn bó với nhau trong hệ thống tổ chức hàng ngang, đồng thời cũng thống nhất với nhau trong hệ thống tổ chức hàng dọc là xã, là nước.
II. Toàn Quốc Vi Chính
Trái với việc hành xử chính trị một cách lầm lẫn như trong chủ thuyết Duy Vật Duy Lợi, thì trong Học Thuyết Tiên Rồng: Toàn Quốc Vi Chính là làm chính trị bằng cách có ý thức, và thích hợp với từng vị trí của mỗi cá nhân trong Xã Hội Đồng Bào. Vì việc nước là Một Bọc Trăm Con, trăm người trăm việc và mỗi người một việc. Ðây là quyền hành xử công dân căn bản của xã hội Việt Nam.
Ngược lại trong xã hội chủ nghĩa hay chế độ độc tài cộng sản thì người dân không có Quyền Vi Chính, có chăng chỉ là cái thòng lọng chính trị áp bức bóc lột và đè đặt một chiều, độc tài toàn trị lên toàn thể mọi người.
Theo Học Thuyết Tiên Rồng, Vi Chính là quyền tối thượng, quyền làm dân, quyền công dân, quyền tự do cá nhân trong một quốc gia, tức là thể hiện khía cạnh quyền làm người, nhân quyền, nhân bản. Ví dụ, Hội Nghị Diên Hồng đã thể hiện rõ nét Quyền Vi Chính của Dân Tộc Việt Nam qua sự thể hiện việc Kết Hợp Toàn Dân, Làng Nước, Bô Lão và Thanh Niên Nam Nữ, nhân tước và thiên tước trong công cuộc phá giặc cứu nước.
Tổ Tiên vi chính một cách tích cực trong sinh hoạt tự do dân chủ của hệ thống Làng Xã ngang dọc. Các Ngài đã nhận thức sự liên hệ mật thiết giữa Nhà với Làng, và giữa Làng với Nước để mang tinh thần Toàn Dân Toàn Diện.
Làm việc cho làng mà cũng là đồng thời làm việc cho nước! Làm việc cho nước mà cũng là việc làm cho nhà! Ðây là chính sách chính trị rất đồng thuận và độc đáo mà chúng ta cần học hỏi nghiên cứu về Tinh Thần Diên Hồng. Người dân trong làng trực tiếp đóng góp xây dựng, điều hành quản trị làng như một tổ chức của một quốc gia thu hẹp.
Toàn thể dân làng đều có quyền lợi, bổn phận, nhiệm vụ bảo vệ làng. Ðặc biệt người dân trong làng không cần thành lập đảng phái để tranh cử bầu cử, vì việc quản trị điều hành làng không lệ thuộc chủ trương, quyền lợi riêng tư của bất cứ ai hay đảng phái phe nhóm nào, và cũng chẳng có cơ chế “xin cho/ duy vật/ duy lợi” như trong chế độ nhân loại hiện nay.
Trong làng, quyền làm dân làng cũng đồng nghĩa với quyền làm dân nước. Làng bảo vệ cho dân tránh khỏi sự quá phạm, lạm quyền của chính quyền trung ương cấp nước. Ðối lại, dân chúng tích cực tham gia việc làng để giữ vững cơ chế, cũng như được hưởng thụ cơ chế làng tặng hiến cho.
Ðó là điều khác biệt lớn lao giữa hai chế độ xã hội Ðồng Bào và xã hội chủ nghĩa, hay thể chế chính trị dân chủ (tạm gọi là Diên Hồng tính) khác với dân chủ cơ sở, dân chủ tập trung hay cơ chế xin cho là những điều mà nước ta hiện nay dẫn tới sự bất hợp tác chính tri của toàn dân, hải ngoại cũng bất hợp tác với người trong nước, cho dù trên hình thức người ta phải tuân theo vô số luật lệ nhà nước nhưng thâm tâm thì bất phục tòng.
Nói cách khác, nếp sống Việt Nam với các cơ chế thích đáng đã làm cho người dân phát triển quyền vi chính tới mức độ cao nhất, chính trị đối với người dân chẳng phải là điều xa lạ, mà lại là những việc làm cao cả, mang ý nghĩa Thịnh Nước An Dân, là hơi thở của toàn dân toàn diện.
Xin hỏi có gì cao qúy hơn là người dân làm việc cho làng lại cũng mang ý nghĩa làm việc cho nước và cũng cho nhà, trong cái điều gọi là ích nước lợi dân?
III. Mặc Cảm Chính Trị
Sở dĩ người Việt Nam hôm nay gờm tởm chính trị, sợ hãi chính trị hơn bất cứ chủng tộc hay sắc dân nào trên thế giới, và ngay cả chính trị khoa (political science) trong trường đại học Hoa Kỳ cũng hiếm người theo học như người viết bài này, vì rằng chính trị được hiểu là tù đày chết chóc, là tham nhũng thối nát, là đê tiện tồi tàn …như trong cơn quốc nạn “phi chính” do qúa trình Bắc thuộc, Tây thuộc và Cộng thuộc ngày nay đang gây ra.
Chữ “chính trị” thú thực nó đã để lại trong ký vãng của mọi người, rồi tlaji ruyền tử lưu tôn, và bị phóng đại tới mức đầy kinh hoang, sợ hãi, khiếp vía. Thí dụ như trong thời Cộng thuộc ngày nay, bất cứ người Việt Nam nào trong quân-cán-chính của Viẹt Nam Cộng Hòa, điển hình một Trung Úy Phi Công Phản Lực Cơ như tôi, mỗi khi nghe “học tập cải tạo” hay “chính trị hiện hành” là mặt mũi đã phải tái xanh, chân tay run rẩy, miệng lưỡi lắp bắp và không còn hồn vía, vì chữ “Chính Trị” nó có nghĩa là đi học tập cải tạo lâu dài mút chỉ, lao động vinh quang biền biệt tận nơi rừng thiêng nước độc, chẳng còn thấy mặt vợ con, và tuyệt tích trên chốn giang hồ!
Người Tàu sang đô hộ thì cấm cấm dân tộc Việt Nam không được “tòng tam tụ ngũ.” Người Tây tới cai trị thì cấm chúng ta không được “lập hội kín để bàn chuyện quốc sự.” Người Cộng khi cướp chính quyền vào Sài Gòn thì cấm toàn dân làm chính trị bằng cách lộ liễu nguyên dạng qua cụm từ “chính trị hiện hành.”
Ai tòng tam tụ ngũ, ai hội kín bàn quốc sự, và ai chính trị hiện hành… dù chỉ là muốn đóng góp chính kiến xây dựng đất nước thì đều đã bị đi học cải tạo tù đày, tra tấn đánh đập té lên gục xuống, báng súng cái nào cái nấy nện vào người đau thấu tim… trong 7 năm như tác giả đã từng gánh chịu, xin hỏi có ai mà không sợ chính trị?
Xin thú thật người viết cũng ngao ngán chính trị, vì từng bị đánh đập khảo cung, cũng may chưa tới mức ra bờ đìa mò tôm! Chính trị, từ đó trở thành cái chữ cay đắng nghẹn ngào... Ðó là cách giải quyết tiêu cực trong âm mưu thống trị của giặc, giúp giặc chiến thắng, ổn định tình hình vì giết chết con người chính trị Việt Nam hay kẻ sĩ Việt Nam, tiêu diệt quyền vi chính của dân tộc Việt Nam.
Tích cực hơn, các loại giặc lại đã tạo ra cả một chính trường màu mè lòe loẹt, đầy dẫy xôi thịt với đủ thứ tham nhũng bất công thối nát… Cũng như các loại giặc Tàu giặc Tây, thì giặc Cộng... cũng xách động quần chúng, cũng tuyên truyền lừa bịp qua những biểu ngữ bích chương, loa phóng thanh hay tiếng kẻng nhà tù… có nghĩa là “thượng vàng hạ cám” mà Việt cộng đã lấy từ mẫu quốc phương Tây phương Tàu du nhập vào Việt Nam, như xử dụng khoa bảng bằng cấp tiến sĩ giáo sư “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”… vì “đồng chí” chăn trâu học từ abc cho tới tiến sĩ chỉ mất hai năm!
Rồi đảng cầm quyền đem cán bộ “hồng hơn chuyên” đó mà xếp vào hệ thống quản trị điều hành chính quyền đất nước thì tha hồ mà tham nhũng, vì tham nhũng là căn bản của quyền lực! Theo tài liệu của gíao sư Hoàng Tụy thì số bằng cấp kiểu này trong giới quan chức nhà nước Việt Nam chiếm tới ¾ nhân số. Hèn chi thống nhất và cai trị đất nước đã hơn 50 năm nhưng trở thành “dân ngu nước nghèo,” thua kém và tụt hậu trong số các nước lân bang.
Ngày xưa nghị trường “Pháp Việt đề huề” thì toàn “nghị gật.” Ngay nay Quốc Hội Nhân Dân thì lại toàn một loại nghị gật, đảng cử dân bầu… để mà chống phá nền giáo dục dân tộc, bôi bác thuần phong mỹ tục như cấm chúc tết, cấm phúng điếu …. và chỉ biết tham ô qùa cáp, phản dân hại nước.
Hội đồng làng cũng vậy, chỉ toàn cái lớp “hồng hơn chuyên” do giặc đề cử… Ở quê tôi có vị trưởng ấp chỉ biết ký tên, chẳng cần học hành nghiên cứu gì cả, mà lại trị dân… tối ngày ông này lần mò tìm kiếm đồ nhậu trong dân! Ðó là câu trả lời chính trị sau 50 năm xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là như thế?
Chính trị bị bôi lọ, bóp méo, tuyên truyền xuyên tạc và làm cho lệch lạc ý nghĩa tốt đẹp của nó. Cho nên hai chữ "chính trị" đã phải tìm đường vượt biên, và tẩu thoát khỏi tâm tư của mọi người dân chúng Việt Nam.
Ngày còn trong tù cải tạo, người viết có nghe một bạn kể rằng, một con trâu bướng bỉnh không chịu ra đồng làm việc, cho dù bác nông dân kia đã dùng đủ mọi hình thức hay phương pháp khuyên nhủ, và ngay cả đến việc trừng phạt nó nhưng bác cũng vẫn phải chào thua.
Đang lúc đó thì có một cải tạo viên đựợc thả về quản lý tại địa phương, anh đi qua ghé tai con trâu nói nhỏ: “Không đi làm, bộ mi muốn đi học tập cải tạo?” Vừa nghe ý nghĩa của chữ "chính trị" thì con trâu giác ngộ và lồng lên đi làm! Người viết phá lên cười và trả lời, “Câu chuyện thật hay, đầy kịch tính nhưng thuộc cấp Holywood, mang điểm topten!”
Ðó là đặc điểm chiến thắng của giặc qua âm mưu và nỗ lực chống phá “quyền vi chính” của dân tộc chúng ta. Ðã trải qua bao thế hệ mỗi khi nhắc tới “chính trị” là người dân liên tưởng tới cải tạo, tù đày, chém giết, hay xôi thịt, lừa đảo, phản bội … chiếc nón cối “chính trị” từng chụp lên đầu, ngay cả các “đồng chí” công lao hãn mã của họ như Tướng Trần Ðộ, Tá Nguyễn Thanh Giang hay các bạn trẻ như bác sĩ Phạm Hồng Sơn… chớ đâu chỉ dành riêng cho nhóm “ngụy sài gòn thua cuộc” như người viết này.
Bởi thế, dân Việt ngày nay đã “phi chính,” đã quên bao trăm năm trước Tổ Tiên xử dụng “Vi Chính” một cách nghệ thuật, lương thiện để bảo đảm “an sinh” cho mình và cho mọi người. Có mấy ai tự hỏi không vi chính thì sao mà Nhà Trần lại đẩy lui được những đợt Nguyên xâm? Cộng xâm hiện nay?
IV. Kết Luận
Phục Hồi Con Người Chính Trị Trong Ðại Cuộc Kết Hợp Toàn Dân. Không vi chính thì không ý thức trách nhiệm, quyền lợi, bổn phận của người dân trong nước. Trái lại, không ý thức chính trị thì cũng chẳng có vi chính.
Tổ Tiên chúng ta sở dĩ phát triển được ý thức chính trị là nhờ vào cơ chế Làng Xã thích dụng cho mọi người, mọi giới trong xã hội tham gia. Ai cũng có thể đóng góp vào tổ chức và lại được Làng Xã che chở. Khi vượt qua cấp độ Làng, người dân ta mới chứng tỏ có được khả năng ở những cấp tổ chức cao hơn, cấp quốc gia.
Vấn đề hiện tại cần đặt ra là việc làm khuyến khích mọi người Việt Nam hãy gột rửa được mặc cảm chính trị, hãy thoát khỏi ngục tù tư tưởng do âm mưu thâm độc của giặc nước kìm hãm để mà tích cực vi chính. Ðang khi chúng ta cũng chưa có một cơ chế thích đáng để khuyến khích mọi người tham gia, nhưng dù sao sự mạnh dạn dám nói chữ chính trị, chấp nhận chữ chính trị, không còn sợ chữ chính trị… chớ chưa được làm chính trị, hưởng chính trị… thì thiết tưởng cũng là bước khởi đầu trong đại cuộc kết hợp toàn dân.
Muốn làm kết hợp, muốn làm đoàn kết thì trước tiên phải là việc phục hồi con người Chính Trị Việt Nam, Kẻ Sĩ Việt Nam. Ðó là điều cấp thiết, vì như chối bỏ hành động an sinh, thiếu vắng chính trị của mình, thì lại rơi vào tình trạng nô lệ biểu hiện nơi “đồng chí” xách động quần chúng đánh “Mỹ cút ngụy nhào” và chính trị trở thành vô nghĩa.
“Miếng giữa làng bằng sàng xó bếp” là câu mà Tổ Tiên nói với ý nghĩa đề cao hành động chính trị để tham gia việc làng, việc nước.
Tóm lại, muốn cho nước đẹp dân giầu như Tổ Tiên Việt Nam từng làm thì cần khởi sự với việc phục hồi và phục hoạt quyền Vi Chính cho lớp người Con Cháu Tiên Rồng để xây dựng Kỷ Nguyên Mới, Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age) sắp sang trang.
Việt Bào Pham Văn Bản
Mời đọc thêm:
Những điểm mới trong bình luận chung số 25 về điều Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) (UNHRC)
2.1. Mọi công dân được tham gia vào hoạt động quản lý
Điều 25 ICCPR ghi nhận và bảo vệ quyền của mọi công dân được tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quyền bầu cử, ứng cử và quyền được tham gia các cơ quan công quyền. Nó khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân. Cho dù theo thể chế chính trị nào thì các quốc gia thành viên cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo cho mọi công dân đều có cơ hội được hưởng các quyền này (đoạn 1).
Các quyền nêu trong Điều 25 có liên quan nhưng không đồng nhất với quyền tự quyết dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc quy định trong Khoản 1 Điều 1 ICCPR là quyền của cả một dân tộc được tự do quyết định thể chế chính trị của nước mình, trong khi đó, Điều 25 đề cập quyền của các cá nhân được tham gia vào quá trình quản lý các lĩnh vực công (đoạn 2).
2.2. Chủ thể quyền là mọi cá nhân
Không giống như các quyền và tự do khác được ghi nhận trong ICCPR mà có chủ thể của quyền là mọi cá nhân trong phạm vi lãnh thổ và thuộc quyền tài phán của một quốc gia, các quyền nêu ở Điều 25 chỉ dành riêng cho những người có vị thế "công dân" của quốc gia. Tuy nhiên, không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì bất kỳ lý do gì giữa các công dân trong việc thực hiện những quyền này. Kể cả sự phân biệt giữa những người được hưởng tư cách công dân một cách đương nhiên ngay khi sinh ra và những người có được tư cách công dân bằng việc nhập quốc tịch cũng là trái với Điều 25 (đoạn 3).
2.3. Quyền tự do biểu đạt
- Quyền tự do biểu đạt, hội họp và lập hội là những điều kiện quan trọng cho việc thực hiện có hiệu quả quyền bầu cử, do đó, cần được các quốc gia thành viên bảo đảm đầy đủ. Các quốc gia thành viên cần thực thi các biện pháp tích cực để khắc phục những trở ngại trong việc bảo đảm quyền này, cụ thể như tình trạng thất học, đói nghèo, những rào cản ngôn ngữ, những khó khăn trong việc đi lại mà cản trở những người có quyền bầu cử thực hiện có hiệu quả các quyền của mình. Thông tin và các tài liệu về việc bầu cử phải được chuẩn bị cả bằng những ngôn ngữ thiểu số. Các công cụ cụ thể như tranh ảnh hay biểu tượng cần được đáp 141 ứng để bảo đảm rằng, các cử tri mù chữ đều có được thông tin đầy đủ làm cơ sở cho sự lựa chọn của mình (đoạn 12).
Các quyền nêu ở Điều 25 có thể bị hạn chế nhưng mọi hạn chế phải hợp lý và khách quan. Ví dụ, một trong những hạn chế được cho là hợp lý là quy định cần phải đạt đến một độ tuổi nhất định mới được quyền bầu cử, ứng cử hay được bổ nhiệm vào những chức vụ cụ thể trong hệ thống chính quyền; hoặc quy định những người bị hạn chế năng lực hành vi có thể không được quyền bầu cử hay ứng cử (đoạn 4).
Quyền tham gia điều hành các công việc xã hội là một khái niệm rộng liên quan đến việc thực hiện quyền lực chính trị, cụ thể là thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nó bao gồm tất cả các khía cạnh của quản lý hành chính và việc xây dựng, thực hiện chính sách ở cấp độ quốc tế, quốc gia, khu vực và địa phương (đoạn 5). Công dân có thể trực tiếp tham gia điều hành các công việc xã hội khi thực hiện quyền lực với tư cách là thành viên của các cơ quan lập pháp hay nắm giữ các chức vụ hành pháp; thông qua việc trưng cầu dân ý hay quá trình bầu cử khác; thông qua việc tham gia vào các hội đồng dân cử có thẩm quyền quyết định các vấn đề của địa phương hoặc các vấn đề của một cộng đồng cụ thể; hoặc tham gia vào các cơ quan được thành lập để đại diện cho công dân trong việc tham vấn với chính phủ (đoạn 6). Công dân cũng có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước thông qua việc tự do lựa chọn các đại diện của mình trong các cơ quan dân cử (đoạn 7), và tranh luận, đối thoại công khai với các đại diện do mình bầu ra hoặc thông qua các cơ chế khác do công dân tự tổ chức (đoạn 8).
2.4. Một số điểm mới cơ bản khác
- Quyền bỏ phiếu tại các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý phải được quy định bởi pháp luật và chỉ phải chịu những hạn chế hợp lý, ví dụ như: quy định về độ tuổi tối thiểu được quyền bầu cử. Những hạn chế về quyền bầu cử được coi là không hợp lý nếu như chúng được đặt ra dựa trên tình trạng khuyết tật về thể chất hay những đòi hỏi về tài sản, giáo dục, khả năng biết đọc, biết viết, vị thế thành viên của các đảng phái...(đoạn 10). Nếu có những đòi hỏi về cư trú đặt ra trong việc đăng ký cử tri khi bầu cử thì những đòi hỏi đó phải hợp lý và không được nhằm loại trừ quyền bầu cử của những người không có chỗ ở. Pháp luật cần cấm mọi sự can thiệp có tính lạm dụng vào việc đăng ký hay vào quá trình bầu cử cũng như mọi sự đe doạ hay ép buộc các cử tri, và các quy định cấm đó cần phải được thực thi nghiêm chỉnh (đoạn 11).
- Quyền tự do biểu đạt, hội họp và lập hội là những điều kiện quan trọng cho việc thực hiện có hiệu quả quyền bầu cử, do đó, cần được các quốc gia thành viên bảo đảm đầy đủ. Các quốc gia thành viên cần thực thi các biện pháp tích cực để khắc phục những trở ngại trong việc bảo đảm quyền này, cụ thể như tình trạng thất học, đói nghèo, những rào cản ngôn ngữ, những khó khăn trong việc đi lại mà cản trở những người có quyền bầu cử thực hiện có hiệu quả các quyền của mình. Thông tin và các tài liệu về việc bầu cử phải được chuẩn bị cả bằng những ngôn ngữ thiểu số. Các công cụ cụ thể như tranh ảnh hay biểu tượng cần được đáp 141 ứng để bảo đảm rằng, các cử tri mù chữ đều có được thông tin đầy đủ làm cơ sở cho sự lựa chọn của mình (đoạn 12).
- Các điều kiện liên quan đến việc bổ nhiệm, lệ phí hay đặt cọc trong ứng cử cần phải hợp lý và không có tính phân biệt. Những căn cứ thay đổi những người nắm giữ chức vụ bầu cử cần được quy định bởi pháp luật dựa trên những tiêu chí khách quan và hợp lý và theo những trình tự, thủ tục công bằng (đoạn 16). Không được hạn chế quyền ứng cử một cách vô lý bằng cách đòi hỏi các ứng cử viên phải là thành viên của một đảng phái cụ thể nào. Nếu đòi hỏi một ứng cử viên phải có một số người ủng hộ tối thiểu để được chỉ định thì mức đòi hỏi này cần hợp lý và không được đặt ra để làm rào cản đối với việc ứng cử. Không được coi quan điểm chính trị là căn cứ để tước bỏ quyền tham gia ứng cử của cá nhân (đoạn 18). Cần xác định những giới hạn hợp lý về chi phí tranh cử để bảo đảm rằng, không cản trở sự lựa chọn tự do của cử tri, hoặc quá trình dân chủ không bị bóp méo bởi chi phí không tương xứng giữa các ứng cử viên hay các đảng phái (đoạn 19).
- Cần thành lập một cơ quan độc lập để giám sát quá trình bầu cử và bảo đảm rằng, việc bầu cử được tiến hành một cách bình đẳng, không thiên vị, phù hợp với pháp luật quốc gia và với Công ước. Cần có những biện pháp bảo đảm yêu cầu bí mật của việc bỏ phiếu, bảo vệ các cử tri trước mọi sự ép buộc hay cưỡng bức khi bỏ phiếu. An ninh cho các hòm phiếu cũng phải được bảo đảm và việc kiểm phiếu phải có sự chứng kiến của các ứng cử viên hay các đại diện của họ. Cần đảm bảo sự bí mật cả quá trình kiểm phiếu và việc xem xét lại về mặt tư pháp hoặc bằng các thủ tục liên quan khác để các ứng cử viên tin tưởng vào sự an toàn của các hòm phiếu và việc kiểm phiếu. Sự trợ giúp cho những người tàn tật, người mù, hay mù chữ cũng phải mang tính độc lập. Các ứng cử viên cần được thông tin đầy đủ về những đảm bảo này (đoạn 20).
- Mặc dù Công ước không quy định về một cơ chế bầu cử cụ thể nào nhưng mọi cơ chế bầu cử ở các quốc gia thành viên phải phù hợp với các quyền được ghi nhận tại Điều 25 và phải bảo đảm cho cử tri được tự do thể hiện ý chí (đoạn 21).
- Tiểu mục (c) Điều 25 liên quan đến quyền và cơ hội của công dân được tiếp cận một cách bình đẳng với các chức vụ quản lý nhà nước. Để bảo đảm quyền này thì tiêu chí và quá trình bổ nhiệm, thăng tiến, đình chỉ và sa thải công chức nhà nước phải khách quan và hợp lý và việc tham gia các chức vụ trong các cơ quan nhà nước phải dựa trên sự bình đẳng về cơ hội, những nguyên tắc chung về công trạng và quy định nhiệm kỳ có bảo đảm, để bảo đảm rằng những cá nhân nắm giữ chức vụ công không phải chịu những sức ép hay sự can thiệp vô nguyên tắc về chính trị (đoạn 23).
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)
Không có nhận xét nào