Đỗ Thái Nhiên
Mời nghe toàn vở kịch thơ:
A. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
Lịch sử là những di biến động của xã hội. Những di biến động này đã rơi hẳn vào quá khứ. Những di biến động này đang nằm lặng lẽ trong tủ sách tại các loại thư viện.
Lịch sử là thế giới của câm nín, của tuyệt đối không âm thanh. Tuy nhiên, nếu người-đọc-sử có một tâm hồn thư thái, nhất là, nếu lịch sử được tìm hiểu bởi những tấm lòng tha thiết yêu Quê Hương, chúng ta sẽ nghe tiếng nói vang vọng từ lịch sử.
Câu chuyện “Lịch Sử Nói Với Chúng Ta” được trình bày như sau: Cuối thập niên 1980 hệ thống Cộng Sản thế giới đã tự nó hoàn toàn vỡ vụn. Chủ nghĩa Marx Lenine bị loài người triệt để loại bỏ.
Từ đó đến nay Cộng sản Việt Nam phải đương đầu với cuộc khủng hoảng tư tưởng triền miên. Tại quốc nội, những ngòi bút chống CSVN chỉ tố cáo vô số sai lầm của Marx Lenine.
Họ không đưa ra được một đường lối tư tưởng thích nghi cho việc hồi sinh và phát triển quốc gia.
Trong số bài chống đối vừa kể đôi khi chúng ta tìm thấy một vài nguyên tắc đạo đức của Khổng học. Thế nhưng, những nguyên tắc này thiếu hẳn phần phương pháp luận. Vì vậy, chúng trở nên vá víu và bất khả thi.
Tìm ở đâu để có được đáp số của bài toán bế tắc tư tưởng hiện nay tại Việt Nam?
Đáp số đó nằm ngay trong dòng lịch sử.
Thực vậy, thông thường ngôn ngữ là phương tiện giúp con người truyền đạt tư tưởng. Tuy nhiên ở vào rất nhiều hoàn cảnh, tư tưởng đã được gói ghém trong mắt nhìn thân mến hoặc bằng những quả đấm căng đầy giận dữ. Đó là ngôn ngữ của hành động. Lịch sử là sự kết nối của vô vàn hành động tập thể.
Tiếng nói của lịch sử là tiếng nói của hành động. Lịch sử muốn nói gì với hậu thế? Thưa rằng lịch sử đã nhiều lần khẳng định: xã hội nào bế tắc tư tưởng chỉ có nghĩa là xã hội đó đã có những vận hành chệch ra ngoài hoặc đi ngược lại với hướng phát triển Quyền-Làm-Người của Con Người.
Với quả tim nghe được tiếng nói huyền diệu của lịch sử, với bộ óc hiểu biết tinh thế nội dung của tiếng nói đó và nhất là với tấm lòng tha thiết muốn mang lại đáp số cho vấn đề bế tắc tư tưởng tại Việt Nam; tháng 07 năm 1997 tác giả Đường Sơn đã hoàn tất kịch tác phẩm “Lời Thề ở Đền Hùng”.
B. TIẾNG NÓI CỦA LỊCH SỬ
Hiệu kỳ cuộc khởi nghĩa Yên Báy năm 1930
“Lời Thề ở Đền Hùng” là một vở kịch thơ được xây dựng căn cứ trên những sự thực của lịch sử. Lúc bấy giờ là giai đoạn Việt Nam Quốc Dân Đảng đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa Yên Báy ngày 10 tháng 2 năm 1930.
Một trong những người tích cực hàng đầu của công việc chuẩn bị này là nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Giang. Thái độ vô cùng tích cực của Nguyễn Thị Giang trên đường cống hiến hoàn toàn sinh mệnh của mình cho Quê Hương và cho cách mạng Dân Tộc đã dẫn đến hai hệ quả.
Thứ nhất là Nguyễn Thị Giang, nữ đảng viên đầu tiên được ban lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng long trọng kết nạp vào Đảng.
Lễ tuyên thệ nhập đảng tổ chức ở Đền Hùng.
Thứ hai là liên hệ giữa anh hùng Nguyễn Thái Học và liệt nữ Nguyễn Thị Giang trở thành mối liên hệ tổng hợp giữa tình ái và lòng yêu nước.
Ở Đền Hùng họ đã cam kết với nhau: cứu nước là ưu tiên, hôn nhân là hẹn ước. Như vậy Lời Thề ở Đền Hùng là thề gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng và thề hôn nhân chỉ đến với đôi trai tài gái sắc chừng nào giặc ngoại xâm thực sự bị giải trừ.
I. THÀNH NHÂN VÀ TAM DÂN
Lời Thề ở Đền Hùng là sự kiện nổi danh trong lịch sử Việt Nam cận đại. Lời Thề ở Đền Hùng không là câu chuyện xa lạ đối với quần chúng Việt Nam.
Tác giả Đường Sơn đã vững vàng và khéo léo biến cái nổi danh và cái không xa lạ vừa kể thành các lời giải đáp rõ ràng và dễ cảm dành cho tình huống bế tắc tư tưởng hiện nay của CSVN. Biến thái của căn bệnh bế tắc tư tưởng là nạn tham ô nhũng lạm.
Qua lời phát biểu của nhân vật Nguyễn Thị Giang, Đường Sơn đã mạnh mẽ khẳng định với CSVN rằng tham ô bao giờ cũng bị bạo lực của quần chúng đẩy chế độ rơi vào hố tử vong. Đó là chân lý hằng cửu của lịch sử. “Tàu năm xưa, loạn Thái Bình Thiên Quốc, Bùng mạnh lên mãnh liệt vì tham quan” Làm thế nào CSVN thoát khỏi hố tử vong?
Làm thế nào có sự hợp tác chân thành giữa quần chúng và nhà cầm quyền? Làm thế nào kết hợp được toàn dân trên con đường hồi sinh và phát triển quốc gia?
Trả lời các câu hỏi vưà nêu, theo Đường Sơn, CSVN không còn con đường nào khác hơn là con đường qui hàng lực lượng Dân Tộc.
Con đường này đòi hỏi CSVN phải thực tâm tôn trọng Độc Lập của Dân Tộc, Tự Do của Dân Quyền và Hạnh Phúc của Dân Sinh.
Đặc biệt, ý nghĩa của độc lập cần được nhấn mạnh rằng: độc lập trên bang giao quốc tế có nghĩa là các quốc gia trong xã hội quốc tế phải hợp tác với nhau trên căn bản bình đẳng và hữu nghị.
Phải thành thực tôn trọng lẫn nhau về các vấn đề thuộc thẩm quyền nội bộ của mỗi quốc gia. Trong phạm vi quốc nội, dân tộc độc lập có nghĩa là nhân dân là chủ nhân ông tối cao và duy nhất của quốc gia.
Nhà cầm quyền phải tuyệt đối tôn trọng quyền của nhân dân được sử dụng lá phiếu để tuyển chọn thành phần lãnh đạo quốc gia. Độc lập dân tộc còn có nghĩa nhà cầm quyền không được phép vận dụng các phương tiện giáo dục thông tin nhằm bóp méo hiểu biết của người dân, gây nguy hại cho đời sống tư tưởng tự giác của mỗi cá nhân công dân.
Một khi Dân Tộc Độc Lập được tôn trọng theo ý nghĩa tròn đầy như vừa kể thì Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc sẽ đến với xã hội dân tộc như một hệ quả tất nhiên.
Nói cách khác Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc là ba cạnh của một tam giác đều.
Thiếu đi một cạnh xã hội sẽ bất ổn định. Sau đây là suy nghĩ của một bà cụ bán nước chè tươi về Tam Dân: “Hoa Tự Do?... đầu đuôi như thế này:
Tự do là cứ đi lại đó đây Chẳng xin phép... chẳng thằng Tây nào cấm Cờ độc lập lấy máu đào mà tẩm Hoa Tự Do tưới đậm máu anh hùng Không hy sinh, không trả giá... sao thành công. (Lời Thề ở Đền Hùng) Lời lẽ của bà cụ hàng nước tuy mộc mạc nhưng hàm chứa cả một quyết tâm đòi hỏi độc lập tự do. Mặc dầu bà cụ không nhắc đến dân sinh hạnh phúc nhưng đi kèm với độc lập, tự do thì dân sinh hạnh phúc sẽ là một sự kiện tất yếu.
Thái độ tha thiết của Người dân đối với Tam Dân là một biểu tỏ rằng: Tam Dân là lý tưởng sống của mọi dân tộc. Từ Đông qua Tây, tử Cổ chí Kim, chân lý này là chân lý hằng cửu. Vì vậy Tam Dân không hề là sản phẩm tư tưởng của riêng tác giả nào. Điều quan trọng là con người đã lý luận như thế nào về Tam Dân.
Kế đó là con người đã xây dựng được hay chưa một phương-pháp-luận thích nghi về Tam Dân. Trên địa bàn lý luận triết học, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phối hợp cuộc đời đấu tranh của Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học với tư tưưng ái quốc của Chủ tịch Danh Dự Phan Bội Châu để xây dựng thành các luận điểm nền tảng cho triết học Tam Dân.
Tuy nhiên, lý luận triết học của Việt Nam Quốc Dân Đảng đối với Tam Dân là trọng tâm của một đề tài khác.
Bài viết này chỉ xin tập trung giới thiệu Đường Sơn như là một tác giả đã tài tình trong việc sử dụng kỹ thuật và nghệ thuật của thi ca để biến lý tưởng Tam Dân thành hành động sống cụ thể. Đó là nội dung cốt lõi của phương pháp luận. Điều kiện tiên quyết để một người có thể mang Tam Dân đi vào đời sống xã hội là người đó phải hiểu biết vững vàng và yêu tha thiết chữ NHÂN trong đời người. Xin nhắc lại rằng: trước ngày cuộc tổng khởi nghĩa Yên Báy bùng nổ, ban lãnh đạo VNQDĐ đã thấy rõ hy vọng chiến thắng rất mong manh. Thế nhưng, VNQDĐ vẫn cương quyết tiến bước.
Lý do của hành động ngoạn mục này được Đường Sơn trình bày qua lời lẽ tâm tình của Anh Hùng Nguyễn Thái Học nói với nữ Chiến sĩ Nguyễn Thị Giang:
“Đường đi tới thấy toàn là vỡ lở Chỉ còn mong bùng nổ một tiếng vang Thức tỉnh tim gan ngàn vạn thiếu niên Thế hệ mới phải tới phiên gánh vác Anh muốn nói hôm nay ta bàn bạc Thế thua cầm phần chắc ở trong tay Mà anh em đồng chí vẫn hăng say Cùng thề chết như đời Trần... sát Đát Toàn tổng bộ đã mật thề sát Pháp Không thành công thì dũng nghĩa THÀNH NHÂN Mời Em chào thần chết... lại ngại ngần Thân phận gái...” (Lời thề ở Đền Hùng)
Chính vì chữ Nhân mà VNQDĐ sẵn sàng đổ máu chỉ để “Thức tỉnh ngàn vạn thiếu niên.” Trong số “ngàn vạn thiếu niên” đó có chúng ta ngày nay. Có con cháu của chúng ta ngày mai. Và có cả tương lai thăm thẳm của lịch sử.
Thức tỉnh có nghĩa là quyết tâm chống độc tài áp bức, chống bất công xã hội. Vấn đề không là: chống Pháp và chống Cộng là hai giai đoạn khác nhau của lịch sử. Vấn đề chính là Pháp ngày xưa và Cộng bây giờ đều giống nhau ở điểm độc tài áp bức và tham ô nhũng lạm. Có khác chăng là khác ở sự thể rằng kỹ thuật độc tài áp bức và mức độ tham ô nhũng lạm của CSVN hiện nay cao vượt hẳn so với thực dân Pháp trước kia.
Vì vậy chống Pháp trong quá khứ và chống Cộng ở hiện tại đều là nghĩa vụ của lương tâm ái quốc.
Không thể có bóng dáng của hai chữ “lỗi thời” trong những hành động xuất phát từ lương tâm ái quốc.
Lương tâm ái quốc và hướng phát triển của lịch sử bao giờ cũng tìm tới Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc.
Vì vậy anh hùng Nguyễn Thái Học mạnh mẽ kêu gọi: “Ta sẵng sàng vì đại nghĩa hy sinh Tận lực mình đi bất kể bại thành Đường dân tộc... gieo nhân trồng mai hậu!” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Từ yêu chữ Nhân đến sống theo chữ Nhân là cả một công trình tu tính và tu mệnh. Người sống theo chữ Nhân là người biết tự thắng. Tự thắng trong tình yêu nam nữ là lãnh vực tự thắng khó khăn nhất của thế giới tự thắng. Ái tình không hề là môi trường đồi trụy như người Cộng sản thường lớn tiếng tố cáo một cách đạo đức giả. Chẳng những ái tình không đồng nghĩa với đồi trụy mà nó còn là yếu tính hàng đầu của nhân tính. Nhờ vào hoạt động ái tình, con người có được một đời sống quân bình và minh mẫn giữa tâm lý và sinh lý. Điều quan trọng là con người biết tự chế để cho nhu cầu ái tình được phát triển đúng nơi, đúng lúc và đúng chừng mực. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam có lẽ cuộc tình giữa Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang là một cuộc tình nhiều tính người nhất nhưng cao cả nhất; buồn thảm nhất nhưng vinh quang nhất; lãng mạn nhất nhưng cách mạng nhất. Họ yêu nhau nhưng không thấy mái ấm gia đình, chỉ thấy:
“Ngày độc lập tất nhiên rồi phải đến Ngày khởi nghĩa bại thành không thể đoán Thế tiến lui ta rõ ta mà thôi Em cùng Anh... đám cưới ư trên trời Em biết thế... vẫn vinh quang đón nhận!” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Họ dũng cảm chiến đấu nhưng không thấy chiến thắng, chỉ thấy: “Sống làm dũng tướng... chết thành Thần Liễu Hạnh ngày nay vẫn khói hương Hội Thánh Phủ Giầy, đền Kiếp Bạc Lòng sông cọc đóng vỗ vang vang!” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Trong các lẽ vi diệu của cuộc sống có có không không như đã trình bày ở trên, anh hùng Nguyễn Thái Học và Cô Giang đã có một mẩu đối thoại mà kịch bản “Lời Thề ở Đền Hùng” diễn tả như sau:
“Nguyễn Thái Học: (cảm khái) Nướcc mắt hân hoan mà lòng còn bâng khuâng Hôm nay cầm tay, mai đây người một phương Hẹn nhau thành thân trong một ngày vinh quang Không dưới nhân gian nhưng trên trời mênh mang! Cô Giang (xúc cảm):
Gặp nhau trong tang thương nhưng không duyên bẽ bàng Yêu thương trong không gian xác tan dành dâng non sông Ai mơ đâu ngày vui vu qui, hồn ta trên đài hoa Tìm nhau trên không trung, ngút trầm hương Đền Hùng” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Lời lẽ trích dẫn ở trên là lời lẽ của đôi tình nhân. Họ nói cho nhau nghe về tình họ yêu nhau và về lòng họ cùng nhau yêu nước. Đây là cuộc tao ngộ cảm động tuyệt vời giữa ái quốc và ái tình. Trong hoàn cảnh quốc phá, gia vong, ái tình đã ngoan ngoãn nhường bước cho ái quốc. Sự việc nhường bước này đã làm cho liên hệ giữa Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang trở nên rất quấn quyện nhưng tách ly, rất kỳ lạ nhưng quen thân, rất say đắm nhưng thanh thoát. Từ những “rất” và “nhưng” như vừa kể tác giả Đường Sơn đã lột tả được một cách tài hoa ý niệm thành nhân. Thành nhân là người chiến không cần thắng. Chỉ cần hành động đúng theo tiếng gọi của lương tâm ái quốc.
Thành nhân là người thấy được chiều dài của lịch sử, thấy được sức vươn lên của “ngàn vạn thiếu niên”ở mai hậu. Thành nhân là người rất xem trọng tình yêu nam nữ nhưng bao giờ cũng sẵn sàng đi vào cõi chết để tìm đường sống cho Tổ Quốc: “Nào anh em cùng hãy bắt tay vào Giờ là lúc phải lao đầu quyết tử Chính ở chỗ nổi bùng lên khói lửa Lại là đường sinh lộ cho tương lai!” (Lời Thề ở Đền Hùng)
II. PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA TAM DÂN
Với ý nghĩa thành nhân như đã trình bày, với cuộc đời sống và chết cho Quê Hương, anh hùng Nguyễn Thái Học đã để lại cho hậu thế một thông điệp cực kỳ quan trọng, cực kỳ quí giá. Thông điệp này là phương pháp luận mang đến hạnh phúc và thịnh vượng (gọi theo văn chương triết học là Tam Dân) cho nhân dân.
Phương pháp luận đó khi mang vào thực tế Việt Nam ngày nay đã trở thành những lời cảnh báo nghiêm chỉnh và đanh thép đối với Cộng sản Việt Nam. Sau đây là những luận điểm căn bản của phương pháp luận vừa nêu, dưới ngòi bút của Đường Sơn:
1/ Cách mạng và phản cách mạng:
Cách mạng là tất cả những nói và những làm nhằm mang lại Tam Dân cho nhân dân. Phản cách mạng là tất cả những hành động đi ngược lại quyền lợi của nhân dân. Không có sự chối cãi rằng CSVN là một chế độ cực kỳ độc tài, cực kỳ ngu dốt và cực kỳ tham ô.
Theo đúng qui luật lịch sử CSVN không thể không bị nhân dân lật đổ: “Tàu năm xưa, loạn Thái Bình Thiên Quốc Bùng mạnh lên mãnh liệt vì tham quan” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Người Việt Nam rất hiếu hòa nhưng cũng rất hiểu lẽ Kinh, Quyền. Kinh là chung sống hòa bình trong công bằng và lẽ phải. Quyền là vận dụng bạo lực của quần chúng để tìm tới công bằng và lẽ phải. “Đường hiếu hòa không chuyển được thời cơ, Vì đầu óc của thực dân ngoan cố ... Thì ta cứ cũng đi theo một phép Dùng súng Tây giao để bắn vào Tây” (Lời Thề ở Đền Hùng) CSVN hiển nhiên là loại thực dân bản xứ.
Chúng ta không còn phương pháp nào khác hơn là dùng Cộng Sản để đánh Cộng sản.
Đánh triệt để, đánh không khoan nhượng.
Nhưng sau khi chế độ Cộng sản bị triệt hạ, VNQDĐ không chủ trương báo thù, không có ý định lập các “trại tập trung cải tạo”. Những người đã dựa vào thế lực của đảng CS trước đây để phạm tội ác sẽ bị xét xử theo các luật lệ và thủ tục thích nghi.
Ngoại trừ thành phần tội phạm vừa nói, VNQDĐ sẽ tạo cơ hội cho những cựu đảng viên Cộng sản được tái hội nhập vào cộng đồng dân tộc để cùng toàn dân đẩy quốc gia lên hàng phú cường: “Anh nhất định lấy máu đào tuẫn quốc Tưới lên hoa thơm ngát hương tự do Cờ nửa vàng nửa đỏ của dân ta Sẽ rực rõ phất ngang trời Yên Bái Vàng và đỏ chéo đều trên khổ vải Giống da vàng máu đỏ phải tương liên Chống ngoại thù giữ độc lập vững bền” (Lời thề ở Đền Hùng) Ngoại thù ở đây bao gồm tất cả những người (kể cả CSVN) chống lại quyền lợi của dân tộc. Độc lập trong hiện tình Việt Nam là quyền độc lập của nhân dân đối với nhà cầm quyền.
2/ Sử quan của VNQDĐ:
Duy Vật Sử Quan của người Cộng sản cho rằng: lịch sử là lịch sử của đấu tranh giai cấp. Hướng tiến của lịch sử là hướng toàn thắng của giai cấp vô sản, đảng CS các loại sẽ thống trị thế giới. Không cần phải tranh luận dông dài.
Sự tan vỡ của hệ thống Cộng sản thế giới đã cho thấy: Duy Vật Sử Quan đã sai lầm đến độ ngớ ngẩn.
Dưới lăng kính của THÀNH NHÂN, VNQDĐ khẳng định hướng tiến của lịch sử là hướng tìm đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Những thế lực chống lại lý tưởng Tam Dân đều bị lịch sử đào thải. Những đấu tranh cho lý tưởng Tam Dân có thể nhất thời thất bại.
Nhưng hiển nhiên là những cuộc đấu tranh đó đã góp phần hối thúc lịch sử tiến nhanh hơn về hướng Tam Dân: “Ngày độc lập tất nhiên rồi phải đến Ngày khởi nghĩa bại thành không thể đoán Thế tiến lui ta rõ ta mà thôi” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Lịch sử quan đối với công cuộc bảo vệ và phát triển quốc gia chẳng khác nào hải bàn trên biển cả. Nó giúp cho quốc gia nhanh chóng tiến tới phú cường và ổn định.
3/ Mục tiêu của giáo dục:
Giáo dục cung cấp nhân sự cho cách mạng. Giáo dục của Cộng sản nhằm sản xuất ra “cháu ngoan bác Hồ”, Đoàn thanh niên Cộng sản, sau cùng là đảng viên Cộng sản.
Giáo dục ở một số quốc gia tư bản chỉ nhằm cung cấp chuyên viên khoa học kỹ thuật cho nhu cầu văn minh vật chất. Môn học đạo đức làm Người bị xem là một loại xa xỉ phẩm tinh thần. VNQDĐ chủ trương một guồng máy giáo dục lấy mẫu người trí thức nhân bản làm mục tiêu chủ yếu của công dân giáo dục.
Chuyên viên là những người có nghề nghiệp riêng để sinh sống. Trình độ của chuyên viên tuy có khác nhau về cao thấp nhưng họ giống nhau ở điểm xem tiện nghi vật chất là ưu tiên hàng đầu của đời sống. Nói cách khác trí thức là người vừa có khả năng của chuyên viên vừa hiểu biết tường tận và sống tích cực cho nghĩa vụ làm người: yêu bản thân mình, yêu gia đình, yêu Tổ Quốc và yêu Nhân Loại.
Chính vì yêu tổ quốc nhà trí thức Nguyễn Thái Học đã “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Chúng ta hãy theo dõi một mẩu đối thoại khúc giữa Nguyễn Thái Học và Cô Giang:
“Cô Giang: Trước kia lúc tiến lui chưa chọn lựa Anh đang là Cao Đẳng bậc sinh viên Trình thư xin cải cách với Toàn Quyền Sau đổi ý,... chọn con đường thiết huyết là bởi vì đâu? Nguyễn Thái Học: ...
Vì nhiệt tâm bốc lửa Thế cờ bí đã không còn chọn lựa.”
4/ Đoàn kết dân tộc Cách mạng hay phản cách mạng, sử quan Tam Dân, quan điểm nghiêm chỉnh về người trí thức...
Tất cả các yếu tố vừa kể sẽ trư nên bất động, nếu chúng ta không tạo được đoàn kết dân tộc. VNQDĐ chủ trưĩng đoàn kết dân tộc trên các căn bản kể sau: - Đoàn kết giữa các thế hệ già và trẻ: “Già chỉ mong sao được độc lập liền Còn mơ ước nhân quyền nhường tuổi trẻ” (Lời Thề ở Đền Hùng)
- Đoàn kết giữa Đạo và Đời. Sư Trạch phát biểu: “Vì hồn phách của sinh linh ngàn thuở Vì công ơn quốc tổ đã khai sinh Đạo tu hành nhàn nhã một riêng mình Xa lánh tục chỉ là quên trách vụ Đức Phật dạy phải đại hùng, đại lực Mới viên thành quảng đức... đại từ bi Nếu mà ta... tự thủ... mặt quay đi Mặc ác bá, Tây di ngồi độc chiếm Thì nghìn tóc là trăm nghìn cái tội Cạo trọc đầu... tội ấy hết được sao?” (Lời Thề ở Đền Hùng)
Đoàn kết giữa mọi khuynh hướng tư tưởng. Ngoại trừ tư tưởng phản tự do dân chủ.
Đa nguyên đa tư tưởng, đa đảng được Đường Sơn nhìn thấy trên màu vàng và đỏ của lá cờ tổng khởi nghĩa Yên Báy: “Cờ nửa vàng nửa đỏ của dân ta Sẽ rực rỡ phất ngang trời Yên Bái Vàng và đỏ chéo đều trên khổ vải Giống da vàng máu đỏ phải tương liên Chống ngoại thù giữ độc lập vững bền” (Lời Thề ở Đền Hùng)
C. KẾT LUẬN
Qua câu chuyện Lời Thề ở Đền Hùng, lịch sử đã nói với chúng ta nhiều lời nhắn nhủ rất cụ thể và quí giá. Tuy nhiên có hai điều quan trọng nhất mà lịch sử muốn nói:
- Thứ nhất là nói với người Cộng sản: Duy Vật Sử Quan đã cực kỳ sai lầm. Chế độ CSVN chắc chắn sẽ sụp đổ trong tham ô. Đảng CSVN không còn con đường nào khác hơn là con đường qui hàng lực lượng Dân Tộc, con đường chân thành phục vụ lý tưởng Tam Dân.
- Thứ hai là nói với những ý kiến cho rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng vốn chỉ là một đảng cách mạng chống Pháp. Thời kỳ chống pháp nay đã qua, Việt Nam Quốc Dân Đảng nay đã trở thành một chánh đảng vang bóng một thời. Một chánh đảng đã lỗi thời.
Bằng vào những sự thực trong Lời Thề ở Đền Hùng lịch sử muốn nhấn mạnh rằng: tư tưởng triết học được diễn tả bằng chính đời sống là tư tưởng chính xác nhất phù hợp với đời người nhất, và rằng ý niệm Thành Nhân là ý niệm đã lớn mạnh từ trong xương máu của ciến sĩ VNQDĐ.
Lấy Thành Nhân làm tư tưởng xuất phát, VNQDĐ có lý luận triết học riêng biệt cho Tam Dân. Sau phần lý luận triết học là phần phương pháp luận. Tác giả Đường Sơn nghe được tiếng nói của lịch sử từ Đền Hùng đã diễn đạt tiền đề Thành Nhân và phương pháp luận vừa nói một cách vô cùng nghệ thuật và vô cùng dễ hiểu.
Trong cái nghệ thuật và cái dễ hiểu đó chúng ta nhận ra rằng: do những hoạt động cách mạng đặc biệt của VNQDĐ, lý tưởng Tam Dân được trình bày và được áp dụng theo cung cách hoàn toàn Việt Nam. Điều này có nghĩa là VNQDĐ lấy lòng yêu nước làm nền tảng của lý luận và lấy Tam Dân làm đối tượng phục vụ với sự nhấn mạnh: độc lập cần được hiểu hai mặt.
Mặt quốc nội, độc lập chính là quyền độc lập của người dân đối với nhà cầm quyền.
Độc lập hoàn toàn đồng nghĩa với tự do dân chủ là hai tư tưởng không bao giờ lỗi thời. Với căn bản tư tưởng không bao giờ lỗi thời như vừa kể VNQDĐ lúc nào cũng sát cánh với các đoàn thể bạn trên con đường tái thiết và phát triển quốc gia.
Hai điều quan trọng nêu trên được chuyển gửi đến chúng ta nhờ khả năng nghe được tiếng nói của lịch sử của Đường Sơn cũng như nhờ vào thi pháp bay bổng và trữ tình của ngòi bút đã tạo ra kịch phẩm Lời Thề ở Đền Hùng.
Bài viết này xin chấm dứt bằng cách kính gửi đến tác giả Đường Sơn lời khen ngợi nồng nhiệt và lòng biết ơn chân thành của những người yêu Quê Hương và rất quan tâm đến tiếng nói của lịch sử.
ĐỖ THÁI NHIÊN
Không có nhận xét nào