Thiên Lương /Tạp chí Luật Khoa
19/7/2025
Công nhân ở một công ty dệt may. Nguồn ảnh: Báo Công Thương.
Với ngành xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào các doanh nghiệp FDI và nguồn nội lực về con người lẫn công nghệ còn nhiều hạn chế, liệu hàng gắn nhãn “Made in Vietnam” có thực sự “nội địa”? Và khi đó mức thuế 20% của Mỹ có phải là con số dễ chịu?
Tối ngày 2/7 (theo giờ Việt Nam), cuộc đàm phán thuế quan giữa Mỹ và Việt Nam đã chính thức khép lại. Tổng thống Trump đăng tải lên mạng xã hội Truth Social, thông báo đã đạt được thỏa thuận thuế quan với Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế 20% cho hàng hóa sản xuất nội địa và 40% cho hàng hóa trung chuyển. Đổi lại, phía Việt Nam sẽ phải mở toang cánh cửa thị trường nội địa để đón hàng Mỹ vào với mức thuế 0%.
Kết quả này đã đến sớm hơn kỳ hạn 90 ngày hoãn áp thuế, vốn sẽ kết thúc vào ngày 7/7. Trước khi có kết quả một ngày, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã đích thân có cuộc điện đàm lần thứ hai với ông Trump để thương thảo thuế quan. Vì mục đích này, đoàn ngoại giao của Chính phủ Việt Nam cũng từng có ba lần sang Washington để đàm phán trực tiếp với Mỹ.
Những ngày qua, chính quyền Trump tiếp tục công bố các mức thuế thương mại đối ứng cho nhiều nước, như Brazil (50%), Sri Lanka (30%), Algeria (30%), Thái Lan (36%), Libya (30%), Philippines (20%), và Indonesia (19%).
Nhìn chung, so với các nước khác thì mức thuế 20% mà Mỹ áp cho hàng hóa nội địa Việt Nam không phải là cao. Tuy nhiên, với mức thuế này, Washington dường như đang đặt ra một bài toán khó khăn khác: liệu với một quốc gia có ngành xuất khẩu phụ thuộc hơn 70% vào các doanh nghiệp FDI cùng phần lớn nguyên vật liệu phải nhập khẩu, thì mức thuế 20% có phải là “dễ chịu”?
Tỷ lệ hàng nội địa thấp, ngành sản xuất còn phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu
Từ sau khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế, nhất là khi có Luật Đầu tư vào năm 1987, dòng vốn đầu tư FDI bắt đầu đổ vào Việt Nam và liên tục tăng trưởng trong hơn 30 năm qua.
Kể từ đó, FDI đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và là nhân tố chính, thúc đẩy nền sản xuất công nghiệp, đóng góp hơn 50% giá trị sản xuất toàn ngành. Trong đó, dòng vốn này chủ yếu chảy vào các lĩnh vực then chốt như công nghiệp chế biến, linh kiện máy móc, may mặc.
Dữ liệu năm 2023 cho thấy, các doanh nghiệp FDI đã xuất khẩu lượng hàng hóa có trị giá gần 260 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 73,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Con số này tiếp tục duy trì trong năm 2024 và đầu năm 2025, dao động quanh mức 72 – 74%, và tạo ra thặng dư trong thương mại với nhiều nước. Tuy vậy, 89% nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam là nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó hơn 50% là từ Trung Quốc. Điều này đồng nghĩa, chỉ có khoảng 11% nguồn nguyên liệu là do các doanh nghiệp nội địa cung ứng.
Lấy ví dụ về ngành hàng dệt may của Việt Nam. Dù là một trong số các ngành hàng mũi nhọn với các con số xuất khẩu hàng năm luôn thuộc loại dẫn đầu, tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá toàn ngành chỉ chiếm gần 47%. Điều này không chỉ tạo ra một “điểm nghẽn cổ chai” trong toàn chuỗi cung ứng, mà còn khiến cho tính bền vững và hiệu quả kinh doanh thực tế của ngành này hết sức bấp bênh.
Còn đối với ngành hàng điện tử, tỷ lệ nội địa hoá ước tính chỉ đạt khoảng 5% – 10%. Đồng nghĩa, ngành này phải nhập khẩu tới 90% linh kiện điện tử từ các nhà cung cấp nước ngoài. Trong đó, có đến 80% là nhập khẩu từ Trung Quốc.
Đối với ngành ô tô, tình hình cũng tương tự. Đến nay, ngành ô tô Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt 7 – 10%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 40 – 45% của Chính phủ. Công đoạn sản xuất trong nước chỉ giới hạn ở các bộ phận đơn giản của xe như ghế ngồi, kính xe; trong khi các bộ phận giá trị cao hơn như động cơ, hộp số, hệ số phanh thì phải nhập khẩu khoảng 80% từ nước ngoài.
Trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), bà Trương Thị Chí Bình, tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, chỉ ra nguyên nhân chính của vấn đề tỷ lệ hàng nội địa Việt Nam còn thấp đến từ việc mất cân bằng trong các chính sách mà cơ quan nhà nước ban hành.
Theo bà Bình, trong suốt nhiều năm, các chính sách của nhà nước đã quá tập trung vào việc tạo thị trường, cụ thể là nỗ lực ký kết 17 hiệp định tự do thương mại (FTA) và thu hút FDI. Còn đối với các chính sách để nâng cao năng lực sản xuất và cung ứng của các doanh nghiệp nội địa thì thực ra “chưa bao giờ tốt cả” hoặc thực hiện “chưa tới nơi”.
Việc mất cân bằng này đã khiến các doanh nghiệp FDI, với vai trò là bên mua nguyên liệu đầu vào, chỉ tìm đến các doanh nghiệp Việt Nam khi không còn lựa chọn nào khác.
Một thực tế khác cũng cần nhìn nhận, đó là doanh nghiệp Việt Nam đang phải cạnh tranh hết sức khó khăn với rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp đến từ Trung Quốc. Sức ép này càng khiến cho các doanh nghiệp nội địa không có nhiều dư địa để tham gia vào chuỗi cung ứng.
Nhiều hàng hóa của Việt Nam không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế khi xuất khẩu
Mặc dù Việt Nam đã đạt được đà tăng trưởng mạnh mẽ về xuất khẩu trong nhiều năm liền, thế nhưng tình trạng hàng “Made in Vietnam” không tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn hay truy xuất nguồn gốc vẫn diễn ra, đặc biệt ở các ngành nông – thủy sản, dệt may và điện tử – thuộc nhóm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Một tàu chở container hàng hóa xuất khẩu gần cảng Hải Phòng, Việt Nam. Nguồn ảnh: Reuters.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, từ năm 2010 – 2020, Việt Nam có tổng cộng 5.483 lô hàng xuất khẩu khẩu bị từ chối trên toàn cầu. Trong đó, hàng xuất đi Mỹ chiếm tỷ lệ cao nhất với 42% tổng số bị từ chối, kế đó là Trung Quốc chiếm 18%, Nhật Bản chiếm 16% và Liên minh châu Âu (EU) là 14%.
Trong năm 2024, hệ thống cảnh báo an toàn thực phẩm của EU đã phát đi 130 lần cảnh báo cho hàng hóa từ Việt Nam, tăng gấp đôi năm 2023. Đến đầu năm 2025, hệ thống này lại tiếp tục phát đi 12 cảnh báo đối với hàng nông – thủy sản đến từ quốc gia hình chữ S.
Đơn cử, hai nước EU là Đức và Áo đã phát hiện ra các sản phẩm như hạt é khô và cà thịt ốc bươu từ Việt Nam không đạt tiêu chuẩn EU nhưng đã nhập khẩu vào các quốc gia này mà không qua cấp phép. Hay như mặt hàng bít tết cá ngừ bị phát hiện chứa hàm lượng acid ascorbic (E300) vượt mức 513mg/kg, trong khi mức tối đa cho phép là 300mg/kg.
Một số doanh nghiệp từ Việt Nam còn cố tình khai báo sai thành phần sản phẩm trong nhãn dán. Ví dụ như sản phẩm tôm tẩm bột đông lạnh trên nhãn không khai báo có chứa chất gây dị ứng, hay bột điều hữu cơ không đề cập có chứa thành phần đậu phộng. Kết quả, các sản phẩm này đều bị giới chức các nước EU trả về.
Đồng thời, Việt Nam cũng từng bị cáo buộc là điểm trung chuyển hàng hóa của Trung Quốc, trở thành nơi “hô biến” các mặt hàng có nhãn mác từ “Made in China” sang “Made in Vietnam”, trước khi xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Mỹ, EU, Nhật Bản hay Úc v.v. để được hưởng mức thuế ưu đãi hơn. Cáo buộc này đặc biệt có tần suất xuất hiện nhiều hơn kể từ khi Mỹ phát động chiến tranh thương mại với Trung Quốc.
Hàng Việt có thực sự do người Việt?
Việt Nam từ lâu nổi tiếng với thương hiệu là một quốc gia có “nhân công giá rẻ”, nguồn nhân lực trẻ dồi dào và có nhiều chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài khi đặt chuỗi giá trị sản xuất tại Việt Nam.
Tuy vậy, sự tham gia của lao động Việt Nam vào các chuỗi sản xuất này chủ yếu chỉ tập trung ở các khâu đơn giản, không đòi hỏi tay nghề cao và chuyên môn sâu. Cụ thể, khoảng 65% nguồn nhân lực Việt Nam chỉ tham gia vào các công đoạn lắp ráp đơn giản cuối cùng cho các doanh nghiệp nước ngoài. Các công việc này bao gồm đóng gói, gắn mã vạch hay đóng kiện, vận chuyển, v.v.
Một kiện hàng hóa xuất khẩu có dán nhãn “Made in Vietnam”. Nguồn ảnh: Cosmosourcing.
Bên cạnh đó, các báo cáo từ OECD cũng chỉ ra sự tham gia của Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu thông qua “liên kết ngược” (backward linkages), tức là Việt Nam chỉ việc nhập khẩu các hàng hóa có giá trị cao từ nước ngoài, sau đó gia công, lắp ráp đơn giản lại rồi xuất khẩu.
Đồng nghĩa, các mặt hàng của Việt Nam khi xuất khẩu ra quốc tế, tuy được gắn nhãn mác “Made in Vietnam” nhưng thành phần lõi bên trong không được tạo nên bởi trí tuệ của người Việt. Hoặc nói cách khác, đóng góp thật sự của người Việt trong đa số sản phẩm gắn mác Việt, thực ra chỉ chiếm số ít.
Trong bài phát biểu của mình tại Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam vào ngày 15/1, Tổng bí thư Tô Lâm thừa nhận rằng các số liệu được báo cáo về kết quả xuất khẩu “ấn tượng” của Việt Nam chỉ là sự tự “ngộ nhận”, tự “huyễn hoặc”, hay tự “ru ngủ mình”.
Trong khi thực tế, năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam vẫn còn yếu, đặc biệt là ở lĩnh vực công nghệ, và vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nguồn lực từ bên ngoài.
“Chúng ta đã thực sự nhìn vào bản chất chưa? Chúng ta đóng góp bao nhiêu phần trăm trong chuỗi giá trị đó. Một cái áo bán ra mà thiết kế, vải, nhuộm, chỉ, cúc đều của người khác thì mình được bao nhiêu? Có chăng chỉ là công lao động và sự ô nhiễm môi trường? […].
[…] Tại Bắc Ninh, có tới 164/176 đối tác cấp một là doanh nghiệp nước ngoài, tại Bắc Ninh thì có 55/60 doanh nghiệp. Còn phía doanh nghiệp Việt Nam thì chỉ chủ yếu cung cấp các dịch vụ cơ bản như an ninh, suất ăn công nghiệp hay xử lý chất thải v.v.
[…] Tôi muốn nêu rõ những bất cập này để chúng ta nhìn thẳng vào sự thật rằng doanh nghiệp của chúng ta đang đứng ở đâu trong chuỗi giá trị toàn cầu cũng như trong năng lực cạnh tranh quốc tế để mà cố gắng.” – ông Tô Lâm đặt vấn đề.
Liệu rằng, sau các vấn đề thực tế mà Việt Nam đang phải đối mặt như đã nêu ở bên trên, mức thuế nào sẽ tính trên hàng hóa Việt Nam khi xuất khẩu sang Mỹ – 20% hay 40%?
https://luatkhoa.com/2025/07/my-ap-thue-20-hang-made-in-vietnam-co-thuc-su-noi-dia/
Không có nhận xét nào