Header Ads

  • Breaking News

    Thuyền nhân Việt Nam: không phải là quá khứ xa xôi

    Khải Huyền/Tạp chí Luật Khoa

     

     29/07/2025

     

     0


    Cuốn sách “Vietnam’s Modern Day Boat People: Bridging Borders for Freedom” và bản tiếng Việt “Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại: Vươn Tới Tự Do”. Ảnh bìa sách: McFarland, Quill Hawk Publishing.

    Cuốn sách “Vietnam’s Modern Day Boat People: Bridging Borders for Freedom” và bản tiếng Việt “Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại: Vươn Tới Tự Do”. Ảnh bìa sách: McFarland, Quill Hawk Publishing.


    “Thuyền nhân” không chỉ là khái niệm gợi lên thân phận cay nghiệt của những người Việt Nam trong thế kỷ trước, mà ít ai ngờ rằng, danh từ ấy vẫn còn được dùng để kể về những câu chuyện đầy nước mắt của ngày hôm nay.


    Cuốn sách Vietnam’s Modern Day Boat People: Bridging Borders for Freedom ra mắt độc giả năm 2023, là một công trình nghiên cứu đầy tính nhân văn về thảm kịch thuyền nhân của thời hiện đại. Tác giả công trình này là Shira Sebban, một hậu duệ của những người Do Thái tị nạn, một ký giả, nhà văn, chuyên gia về di trú, đồng thời cũng là một nhà hoạt động xã hội sinh sống tại Úc. Bản dịch tiếng Việt của cuốn sách đã được xuất bản năm 2025, với nhan đề Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại: Vươn Tới Tự Do

    Cuốn sách kể lại câu chuyện có thật của những gia đình người Việt quyết định lênh đênh trên biển để tìm kiếm tự do. Trong cuộc hành trình không chỉ đầy sóng gió mà còn đầy cảnh lao lung ngục tù ấy, họ đã may mắn được những tình nguyện viên sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ họ tìm được bến đỗ tương lai. 

    Ẩn đằng sau những hải trình chìm nổi, lênh đênh, câu chuyện trong sách phản ánh khát vọng tự do và lòng dũng cảm của những người dân hết sức bình thường. Bên cạnh đó, những mẩu chuyện còn là pho tư liệu về hiện thực thực thi nhân quyền ở Việt Nam, thứ hiện thực đã buộc con người phải đánh cược: tìm đường sống trong cõi chết. Và đâu đó, vẫn có những tia sáng cuối đường hầm của lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng xuyên biên giới. 

    Vào năm 2016, truyền thông Úc có một bài báo về bốn đứa trẻ sắp bị gửi đến trại mồ côi sau khi cha mẹ chúng bị trừng phạt vì cố gắng trốn khỏi Việt Nam. Cùng với người mẹ ấy là hàng chục người Việt khác bôn ba vượt biển trên hai con thuyền đánh cá. Không may, khi đến bờ an toàn sau một tháng lênh đênh trên biển với khao khát được xin tị nạn, họ đã bị hải quân Úc chặn lại và bị đưa trả về Việt Nam, nơi mà sự trả thù nghiêm khắc đang chờ đợi họ. Điều gây ngạc nhiên là, cũng chính nước Úc đã từng cưu mang hơn 60.000 thuyền nhân người Việt ở thế kỷ trước. Bài báo này đã gây ra một làn sóng phản ứng gay gắt từ người dân yêu chuộng công lý khắp nơi trên thế giới, và là nguồn cảm hứng thôi thúc mạnh mẽ ngòi bút cùng nỗ lực hành động của tác giả Shira Sebban. 

    Bà mẹ trong câu chuyện vừa nêu trên cũng chính là nhân vật chính trong cuốn sách và nghiên cứu của Shira: bà Trần Thị Thanh Loan, người đã dẫn dắt cuộc vượt biển năm 2015.

    Theo lời bà Loan kể, có ba nguyên nhân quan trọng để gia đình bà quyết định bán hết tài sản, thậm chí vay mượn thêm của người thân bạn bè để thực hiện một chuyến vượt biển một đi không trở lại Đầu tiên, vì là người Công giáo, bà Loan và gia đình phải đối mặt với sự phân biệt đối xử liên tục tại một quốc gia không có tự do tôn giáo. Nghiêm trọng hơn, bà Loan bị nhà nước tuỳ tiện tịch thu mảnh đất của gia đình bà mà không hề có khoản đền bù nào, một điều vốn cũng không hiếm gặp ở đất nước này. 

    Việc mất đất, kéo theo mất kế sinh nhai vốn đã khiến cuộc sống của bà và người thân rơi vào cảnh lao đao. Nhưng chưa hết, cơn ác mộng ập đến khi chồng bà, một ngư dân, bị lực lượng hải quân Trung Quốc tấn công và cướp bóc sau khi đánh cá ở khu vực tranh chấp gay gắt trên Biển Đông. Giữa những trớ trêu và oan trái ấy, gia đình bà đã quyết định tìm kiếm lối thoát: vượt biên, bằng đường vượt biển. Nhưng nghiệt ngã thay, tưởng đã thành công, thì cả nhà bà bị chính phủ Úc khước từ và cưỡng chế đưa về Việt Nam.

    Dù được hứa hẹn từ phía chính quyền Việt Nam rằng sẽ không bị trả thù, hai vợ chồng bà vẫn bị bắt và bị kết án vì trốn khỏi Việt Nam phi pháp. Cả hai lao động chính trong gia đình phải chịu cảnh tù tội. Gia đình bà vốn thuộc diện hộ nghèo, mất đất đai, không có nhà ở, lại còn bị toà án phạt gần 300 triệu đồng. Bốn đứa con của bà có nguy cơ bị gửi vào trại trẻ mồ côi khi cha mẹ đều phải đi tù. Động thái của chính quyền là một hành vi đi ngược với cam kết quốc tế, với phía Úc, lẫn cam kết ban đầu với những người vượt biển bị trả về nước. 

    Hãy tưởng tượng nếu bà Loan vượt biên thành công và trở thành một công dân Úc, thì có lẽ một ngày nào đó bà sẽ được coi là một Việt kiều yêu nước, được nhà nước hoan nghênh trong những chuyến về thăm. Nhưng vì chuyến đi không thành, bà đã trở thành một tội đồ và phải chịu án phạt hà khắc. Trong khi đó, quyền được tị nạn là một quyền chính đáng được ghi nhận tại Điều 14 trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (UDHR), và được đảm bảo thực thi bởi Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 cùng bản Nghị định thư phái sinh từ công ước này ban hành năm 1967. Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) là cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo thực thi những quy định này.

    Bị lay động bởi những bài báo đưa tin về tình cảnh của bà Loan cùng những thuyền nhân thất bại trong chuyến vượt biên sang Úc, nữ ký giả Úc châu Shira Sebban đã quyết định nhập cuộc, tìm kiếm sự hỗ trợ cho những cá nhân không may mắn này. Ban đầu, Shira Sebban đã vận động quyên góp trên mạng xã hội để những đứa con thơ của bà Loan được ăn học đầy đủ trong ba năm khi ba mẹ ở tù. Trong số những người ủng hộ tiền trong chiến dịch quyên góp này, có cả những người Việt vượt biên trong thế kỷ 20, những thuyền nhân thế hệ “tiền nhiệm”. 

    Vụ án của bà Loan đã được xét xử mà không có bất cứ tình tiết giảm nhẹ nào, dù các con của bà đều dưới 16 tuổi. Nhưng bà (cùng những thuyền nhân khác) không hề bị khuất phục bởi số phận. Khi án tù được tạm hoãn một năm để tạo điều kiện cho bà chăm sóc cho các con trong lúc chờ người chồng mãn hạn tù (sự tạm hoãn này có được là nhờ áp lực quốc tế), bà Loan đã quyết định bí mật vượt biên lần thứ hai cùng bốn người con nhỏ, với quyết tâm: thà chết trên biển cả tự do còn hơn ở lại quê hương để chịu cảnh tù đày, cả về thân xác lẫn tinh thần. 

    Trong bối cảnh ấy, Luật sư Võ An Đôn, người bị chính quyền Việt Nam tước giấy phép hành nghề vì hỗ trợ dân oan và cũng là người đã bào chữa cho vài vụ dân nghèo vượt biên bị chính quyền bỏ tù, chính là người đã kết nối những nạn nhân khác trong sự kiện vượt biển này với tác giả của cuốn sách. 

    Trở lại với chuyến vượt biển lần hai của bà Loan. Sau một hành trình nguy hiểm, gia đình bà đến Indonesia, nơi họ – giống như nhiều người trước đó – có thể phải bị giam giữ trong một nơi giống như nhà tù suốt một thời gian dài. Thế nhưng khác với những người tị nạn khác tại đây, gia đình bà Loan đã được Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) tại Jakarta công nhận là người tị nạn, sau khoảng thời gian xử lý hồ sơ nhanh kỷ lục. Theo tác giả, việc bà Loan và gia đình nhanh chóng được xác định là những người tị nạn, không thể bị trục xuất về Việt Nam, căn cứ trên những nỗi sợ hãi có cơ sở của họ về sự trả đũa của chính quyền cố xứ. Chính phán quyết này là bằng chứng rõ nhất cho thấy quy trình mà chính quyền Úc thực hiện khi tiếp nhận, xử lý những người vượt biển năm đó đã hời hợt, chóng vánh như thế nào. 

    Chính phủ Úc đã để những con người tị nạn bất hạnh trở về nước, không mảy may quan tâm đến số phận của họ sẽ bị chính quyền địa phương định đoạt thế nào. Bảy năm nghiên cứu câu chuyện của những gia đình thuyền nhân Việt Nam thế kỷ 21 đã cho tác giả nhận thấy, những thành công vẻ vang trên mặt báo chí trong lĩnh vực chống tệ nạn buôn người của nước Úc, dường như còn đến từ cả những quyết sách cứng nhắc, thiếu đi tình người. 

    Bà Loan sau đó phải tiếp tục chờ đợi cơ hội được tiếp nhận ở một đất nước thứ ba. Quá trình xét duyệt phức tạp và kéo dài, đặc biệt dài thêm trong thời điểm đại dịch Covid diễn ra. Cánh cửa tiếp đón của những nước phát triển đang ngày càng hẹp lại, nhưng nhờ sự hỗ trợ của Shira và nhóm tình nguyện, cuộc đời bà Loan đã bước sang trang mới khi được Canada chấp thuận tiếp nhận gia đình bà vào năm 2022, tức 6 năm sau chuyến vượt biên lần đầu. 

    Sau những nỗ lực vận động hỗ trợ miệt mài, Shira Sebban đã kết luận một cách chua xót: “Có thể cần cả một ngôi làng để nuôi dưỡng một đứa trẻ, nhưng theo kinh nghiệm của chúng tôi, cần cả một mạng lưới toàn cầu để hỗ trợ một người tị nạn”. Bà Sebban và các cộng sự ở nhiều nước trên thế giới đã làm được điều mà thậm chí các chính phủ không làm được, hay đơn giản là không muốn làm. Nhóm trợ giúp này, ngoài tác giả Shira, còn có những thông dịch viên, luật sư, nhà báo, nhà hoạt động xã hội cùng những tổ chức đại diện cộng đồng. 

    Qua câu chuyện của những người vượt biên giữa kỷ nguyên “vươn mình” của đất nước, người đọc nhận ra nghèo đói không phải là nguyên nhân chính khiến họ phải chọn con đường tha hương. Họ, ẩn đằng sau những chuyến giong buồm, đã bị đàn áp trước, trong và sau khi ở tù. Họ, đã phải vào tù vì những hành xử khắc nghiệt, oan khiên của giới cầm quyền. Vào thời điểm rời đi, lần đầu, cũng như lần kế, họ đã xác định rõ sẽ có thể phải đối mặt với những án phạt nặng hơn, đặc biệt là khi Bộ luật Hình sự (giai đoạn 2015 – 2017) đang tiến hành sửa đổi. 

    Khi cuốn sách đang trong quá trình xuất bản, gia đình của bà Loan đã sắp trở thành công dân của Canada. Khép lại sau đó là những tháng ngày nỗ lực không ngừng nghỉ của chính gia đình bà cùng những người đã tin vào công lý và tình người để hỗ trợ cho bà. Cuốn sách ra đời như một ngọn hải đăng soi sáng cho người đọc những điều luật quốc tế về người tị nạn, về vận động nhân quyền cho người tị nạn, và hơn hết, về lòng nhân ái vượt lên mọi ranh giới địa lý. 

    Dẫu câu chuyện có một cái kết có hậu, một chiến thắng của công lý cho những mảnh đời nghiệt ngã, người đọc vẫn không khỏi đau xót bởi lẽ: gần 50 năm sau chính sự kiện vượt biên đã dấy lên hồi chuông cảnh tỉnh toàn cầu về cuộc khủng hoảng nhân quyền mang tên “thuyền nhân”, thì giữa thế kỷ 21, vẫn còn có những người chọn con đường tử sinh trên biển để tìm kiếm tự do. 

    Chuyến đi của bà Loan dù đã kết thúc, nhưng có thể vẫn còn những chuyến đi kế tiếp. Hàng loạt câu hỏi sẽ còn mãi được đặt ra, dù không biết ai là sẽ là người đáp: Nếu còn hy vọng sống tử tế ở quê hương, liệu họ có chọn con đường sẵn sàng liều chết ấy? Và vì sao người bảo vệ họ, không phải là chính quyền ở quê hương, mà là những nhà vận động nhân quyền ở những nơi xa xôi, không cùng dòng máu?


    Thuyền nhân Việt Nam: không phải là quá khứ xa xôi


    Không có nhận xét nào