Đài Loan với hiện tình chính trị năm 1992
Nhận định về tiến trình Dân Chủ Hóa Đài Loan của Ông Đỗ Quý Sáng Nguyên Bí Thư Việt Nam Quốc Dân Đảng Hải Ngoại trong chuyến công tác tại Đài Loan năm 1992.
Đài Loan 1992. Đỗ Quý Sáng thứ ba từ bên trái.
Khi Tưởng Thống Chế thất thủ Hoa Lục, ông dẫn quân Dân Quốc về Đài Loan xây dựng hòn đảo này một cách hữu hiệu trên mọi mặt và ngày nay đưa Đài Loan lên vị trí một trong 4 con rồng Á Châu.
Về địa lý, Đài Loan như hình chiếc lá, cuống nhỏ ở phía nam, dầu bằng hướng về phía Bắc, phình bụng lá về hướng lục địa. Eo biển Đài Loan rộng 200 cây số. Đảo rộng 13,900 dặm vuông tức là khoảng 36,000 cây số vuông. Chiều dài nhất của đảo là 386 cây số và chiều rộng nhất của đảo là 137 cây số. Đài Loan nằm ở phía Đông Bắc Hồng Kông, Tây Nam của Cao Ly và Nhật Bản.
Có đến 2/3 đảo là núi rừng nhiệt đới. Cao nhất là rặng Đông Bắc Á với đỉnh Ngọc Sơn Jade Mountain 3,50 mét. Khí hậu tương đối ôn hòa, mưa khoảng 60 inches mỗi năm, thuận lợi cho mùa màng trồng tỉa. Trên núi rừng có thác nước, suối, hồ tại nên phong cảnh nên thơ u nhã.
Đài Loan có 19.5 triệu dân. Thủ đô Đô Đài Bắc có dân số là 2.6 triệu. Có khoảng 323,000 thổ dân sống trên thôn bản xa xôi. Tổ tiên người Đài Loan đa số từ Phước Kiến chạy ra.
Từ thời Hán sử liệu đã đề cập tới hòn đảo này. Quan Thái giám nhà Minh, Trịnh Hổ, đã ra tới đảo và Minh triều đã cử quan chức cai trị Đài Loan. Khi nhà Mãn Thanh chiếm Trung Hoa, quan chức nhà Minh bất phục, chạy ra Đài Loan. Trịnh Thành Công đuổi người Hoà Lan ra khỏi đảo, xây dựng cơ sở kéo dài đại nghĩa Phản Thanh Phục Minh được thêm nửa thế kỷ cho đến năm 1684 thì chịu thần phục Mãn Thanh. Các ông Mạc Cửu, Trần Thượng Xuyên tương truyền cũng rời Đài Loan sang Việt Nam lập lại sự nghiệp.
Hai trăm năm sau, chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, Nhật Bản được nhà Mãn Thanh cắt cho đất Đài Loan vào năm 1895, lúc này Pháp đã đô hộ trên toàn cõi Việt Nam và được nhà Thanh thỏa thuận 10 năm rồi (Hiệp ước Thiên Tân).
Nhật đô hộ Đài Loan 50 năm làm bá chủ trên Đông Hải. Tưởng Thống Chế lãnh đạo quân dân Trung Quốc kháng chiến, trước hết phải hòa hoãn với Cộng sản đảng để cùng nhau chống trả ngoại xâm. Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, Trung Hoa Dân Quốc tiến lên địa vị cường quốc thắng trận vào năm 1945.
Trung Hoa Dân Quốc được phép giải giới quân đội Nhật tại Bắc Việt Nam. Tướng Lư Hán được trao trọng trách nhưng không thi hành minh bạch, lại còn nhận hối lộ của Hồ Chí Minh sau "tuần lễ vàng", do đó Cộng sản Việt Nam nắm được tiên cơ. Tại lãnh thổ lục địa, hồng quân tiếp tục thắng lợi. Năm 1949, Tưởng Thống Chế phải rời lục địa về xây dựng Đài Loan, tiếp tục danh nghĩa một nước Cộng Hòa Trung Hoa.
I/ VẤN ĐỀ QUYỀN LỰC
Điều khoản tạm thời của Hiến Pháp 1947 cho phép Tổng Thống Cộng Hòa Trung Hoa có nhiều quyền lực trong tình trạng khẩn cấp bởi sự khuấy phá của Hồng quân. Trên nguyên tắc quyền hành đất nước được trao cho 5 viện:
1. Viện Đại biểu Quốc dân (National Assembly Yuan)
2. Viện Lập Pháp (Legislative Yuan)
3. Viện Giám Sát (Control Yuan)
4. Viện Hành Pháp (Executive Yuan và người Hoa gọi là Hành chánh)
5. Viện Khảo Thí (Examination Yuan)
Vì muốn giữ tính cách đại diện Hoa Lục, các dân biểu đắc cử năm 1947 ở Đài Loan được tiếp tục giữ nhiệm vụ ấy gần như trọn đời. Mới đây, vào năm 1991, nhiệm kỳ của họ mới được chấm dứt do một quyết định của Tổng Thống.
Lý Tân Huy, một vị tân học (Ph.D., Cornell University, USA), gốc Đài Loan.
a/ CÁC CUỘC BẦU CỬ
Bắt đầu từ năm 1972, Tưởng Giới Thạch cho tổ chức các cuộc bầu cử bổ túc để lấy thêm vào nghị viện những người mới sinh trưởng ở Đài Loan. Quyền lực của Trung Hoa Dân Quốc Dân Đảng (THQDĐ) bị giảm dần và sinh hoạt dân chủ được từ từ cải tiến.
- Cuộc bầu cử bổ túc năm 1972, người ta thấy xuất hiện 2 đảng thiểu số, đó là đảng Thanh niên Trung quốc (Young China Party) và đảng Trung Quốc Dân Chủ Xã hội. Có 51 ghế dân biểu được tuyển bổ túc trong năm 1972. Quốc Dân Đảng chiếm 41 ghế (19 vị gốc Lục địa, 32 vị gốc Đài Loan), nhóm Độc Lập chiếm 9 ghế, Đảng Thanh niên Trung Quốc chỉ được 1 ghế. Tình trạng THQDĐ nắm vững quyền hành ở nghị viện được thực hiện tới khi Tổng Thống Tưởng Giới Thạch mãn phần vào năm 1975. Cuộc bầu cử năm 1975, trong số dân biểu bổ túc 52 ghế, Quốc Dân Đảng chiếm 42 ghế, đảng Thanh Niên Trung Quốc vẫn được có 1 ghế và nhóm độc lập vẫn giữ được 9 ghế.
- Cuộc bầu cử bổ túc năm 1980 dưới thời của Tổng Thống Tưởng Kinh Quốc, quốc hội lấy vào 97 ghế. Có 31 vị được bầu vào ghế lục địa và 66 vị gốc Đài Loan. Đảng Thanh Niên Trung Quốc được thêm 1 ghế, nâng tổng số lên 2 ghế, nhóm độc lập từ 9 ghế được đắc cử lên 16 ghế. Trung Hoa Quốc Dân Đảng (KMT - Kuo Min Tang) vẫn giữ được 79 ghế, cộng thêm các ghế của những dân biểu từ Đại Lục chạy ra vẫn còn sống.
- Cuộc bầu cử năm 1986 có màu sắc dân chủ hơn. Đảng Dân Tiến (Democratic Progressive Party) được hình thành như một đảng có vị thế đối lập. Từ khi có các dân biểu đảng Dân Tiến ở nghị viện, các cuộc bàn cãi trở nên sôi nổi và sóng gió hơn. Dân biểu Dân Tiến, không ngần ngại la ó, đập bàn đập ghế, bứt giây điện thoại hoặc ném vỡ bình bông chậu kiểng và thậm chí còn có lúc đi đến những màn thi triển quyền cước, hạ cẳng thượng cẳng tay nữa.
Với sự lớn mạnh của phe Dân Tiến đối lập phe độc lập bị thu hút. Đảng Dân Tiến từ thinh không đột xuất chiếm 12 ghế trong khi phe độc lập từ 16 ghế tụt xuống còn 6. Nói chung, Tổng Thống Tưởng Kinh Quốc nới rộng quyền của người bản xứ Đài Loan, bổ nhiệm Tiến sĩ Lý Tân Huy làm Bộ trưởng Nông nghiệp. Tưởng Kinh Quốc được học hỏi tại Liên Xô, tính người bình dị, từng trải qua các việc nhỏ trước khi thay thế thân phụ ở ngôi vị Tổng Thống. Ông nới lỏng dần việc xiết chặt kỷ luật của thời chiến và đem lại dân chủ cho Đài Loan nhất là sau cuộc thất bại ở Việt Nam, Đảng Dân Tiến chủ trương một nước Đài Loan độc lập, tức là trái với Hiến Pháp, nhưng vẫn được làm ngơ và được vào ngồi ở tòa nhà Lập Pháp. Cung cách nghị trường của các dân biểu Dân Tiến được coi là quá khích và lố lăng. Tuy vậy, nó đáp ứng được tâm lý bị kềm chế từ lâu của người gốc Đài Loan.
- Cuộc bầu cử năm 1952 xảy ra với nhiều sóng gió và đang được diễn ra trong tháng 12 này. Trong thời gian phái đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng thăm viếng thân hữu Đài Loan, chúng tôi đã được chứng kiến nhiều biến động và nhiều cuộc họp khẩn cấp với những lời tuyên bố bi thiết. Các cán bộ cao cấp của THQDĐ phải đối phó với tình thế nóng bỏng, thách thức kỷ luật Đảng như trường hợp Dân biểu Wu Tsu và vợ cũng là Dân Biểu Chen Che Nan. Cặp dân biểu này tái ứng cử trong tư cách đảng viên THQDĐ nhưng thách thức lập trường về quan niệm một Trung Hoa Thống Nhất. Hai vị này hô hào một Đài Loan độc lập, tức là tán thành lập trường của đảng Dân Tiến. Trung ương Đảng Bộ nêu lý do, quan điểm nếu Đài Loan độc lập là trái với hiến pháp và trái với cương lĩnh Đảng. Bộ Trưởng Nội Vụ Wu Poh-Hsiung đổ thêm dầu vào lửa bằng lời tuyên bố quan điểm Đài Loan độc lập chẳng những được cho phép phát biểu, lại còn được cho phép in trên bích báo và các tài liệu bầu cử. Bộ trưởng Tư pháp Lu Yu-Wen còn tiến xa hơn và nói rằng các ứng cử viên dân biểu được quyền có lập trường sách lược riêng về quan điểm "một Trung Quốc, một Đài Loan" và quan điểm này không trái với luật bầu cử miễn là họ không ép bức ai đi biểu tình đòi Đài Loan độc lập.
Trong kỳ bầu cử năm 1989 thì mỗi địa phương phản ứng khác nhau về việc cho phép quan điểm Đài Loan độc lập được in trên các tài liệu bầu cử. Nơi thì thuận nơi thì bác tùy theo ảnh hưởng chính trị của Quốc Dân Đảng ở mỗi vùng. Luật bầu cử năm nay được đa số các ủy viên Hội Đồng Bầu Cử tán đồng: "Cổ võ bằng miệng đề tài Đài Loan độc lập không vi phạm luật", nhưng phát thanh và truyền bình thì khác, chỉ có chính đảng được phát thanh quan điểm chứ cá nhân không được phép hành xử thẩm quyền chánh đảng. Nhưng nếu đảng Dân Tiến được cổ võ quan điểm Đài Loan độc lập trên băng tần và làn sóng truyền thanh truyền hình thì sao? Luật về tổ chức Hội đoàn (Civic Organization) bó buộc ngay cả chánh đảng rằng các tổ chức dân sự không được phép cổ võ chủ nghĩa Cộng sản và không được cổ võ quan điểm tách Đài Loan khỏi Trung Quốc.
Các cuộc họp sóng gió xảy ra trong Đảng và hai ứng cử viên Quốc Dân Đảng bị ngưng đảng tịch cũng như bị thu hồi các khoản tiền bạc do Đảng cung cấp ra ứng cử. Hai vị này tuyên bố họ vẫn tranh cử độc lập và không cần Đảng nữa!
Áp lực chính trị sôi nổi suốt thời gian phái đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng viếng thăm Trung Hoa Dân Quốc Đảng. Một đêm vào khoảng 8 giờ tối, các đại biểu hải ngoại ngưng ngay tiệc tùng rút về hội trường thảo luận việc đòi tiếp kiến Tổng Thống Lý Tân Huy, yêu cầu vị Tổng Thống gốc Đài Loan, Chủ tịch Trung Hoa Quốc Dân Đảng minh định lập trường. Ngày hôm sau, Tổng thống Lý Tân Huy phải trả lời rằng không bao giờ Đài Loan ngưng nghỉ nhiệm vụ tranh đấu cho dân chủ dân quyền cho nhân dân Hoa Lục.
Phát ngôn nhân của Trung Hoa Quốc Dân Đảng - James Chu - cho hay chính Tổng Thống trong phiên họp của Ủy ban Thường Trực Trung Ương Đảng đã đưa ra nghị quyết trừng phạt 2 vị dân biểu (phản đảng) Wu Tzu và Chen Che-Nan nói trên.
Khi chúng tôi bước xuống Đài Loan vào 6 giờ 45 sáng ngày thứ tư 11 tháng 11 năm 1992, cũng chính là ngày Trung Ương Đảng họp khẩn cấp cứu xét phải trừng phạt 2 vị dân biểu này. Tổng Thống Lý Tân Huy hai lần yêu cầu Ủy ban Thường Trực Trung Ương Đảng trì hoãn cuộc tranh cãi trong phiên họp này. Cung cách này bị giải thích là Tổng Thống không nghiêm chỉnh tin tưởng vào sách lược Đảng.
Phát ngôn viên của Đảng, ông Chu, kịch liệt phủ nhận lời giải thích này. Cũng cần nên biết rằng Bộ trưởng Tuyên truyền Trung Hoa Lục Địa (Trung Cộng) đã tuyên bố nảy lửa rằng Trung Quốc sẽ phản ứng mạnh mẽ bằng sắt thép máu lửa nếu Đài Loan ly khai khỏi lãnh thổ Trung Quốc. TT Lý Tân Huy nói rằng một Trung Hoa phải hiểu theo nghĩa một Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Phụ Tôn Dật Tiên thành lập năm 1911. Do đó, chủ trương "Một Trung Hoa, Một Đài Loan" phải nên hiểu theo nghĩa một nước Đài Loan Cộng Hòa Trung Hoa, TT Lý Tân Huy đề nghị.
Nhìn vào vấn đề, có thể nói rằng có hai nghĩa để hiểu quan điểm "Một Trung Hoa, Một Đài Loan". Nếu để riêng từng vế: "Một Trung Hoa" thì chắc chắn phải hiểu nghĩa về lãnh thổ chứ không thể giải thích theo nghĩa thể chế. Một nước gồm có đất, có dân và có chính quyền. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do Hiến Pháp 1947 phải di tản ra Đài Loan nhưng bắt nguồn từ sự hợp hiến do toàn dân Trung Hoa lúc ấy tín nhiệm thể chế. Do đấy khi sắp hai vế vào với nhau "Một Trung Hoa, Một Đài Loan" miễn cưỡng phải giải thích theo nghĩa chính quyền, nghĩa thể chế chính trị. Nếu để riêng vế "Một Đài Loan" thì rõ ràng hàm ý ly khai lãnh thổ.
Vấn đề là tại sao phải lấy khẩu hiệu mập mờ như vậy. Tại sao không đảo ngược lại khẩu hiệu "Nhất Đài Loan, Nhất Trung Quốc" để cho rõ nghĩa hơn vì như thế theo văn phạm Tây phương bổ túc từ Nhất Trung Quốc làm cho rõ nghĩa lập trường Nhất Đài Loan.
Cũng thêm một chi tiết nhỏ ở đây. Đó là vào dịp chúng tôi đến đặt vòng hoa tại Đài Kỳ Kỷ Niệm Tôn Dật Tiên tiên sinh. Chúng tôi chứng kiến một lão phụ phủ phục lạy dị tượng 3 lạy, xong rồi đứng lên khóc lóc thảm thiết nguyền rủa của những người ăn trái quên kẻ trồng cây. Bà ta vừa khóc vừa nói nếu không có Quốc Phụ Tôn Dật Tiên thì phong hóa và kinh tế Đài Loan này làm gì mà có. Dù bất cứ phát xuất từ động lực nào đi chăng nữa, cảnh lão phụ khóc lóc thảm thiết này rất gây xúc động cho cử tọa khán quan lúc ấy.
PHẨM CHẤT DÂN BIỂU TRUNG HOA DÂN QUỐC
Phẩm chất của dân biểu Trung Hoa Dân Quốc rất cao. Cuộc bầu cử năm 1989 đưa vào quốc hội 55% dân biểu có học học lực giáo dục cấp đại học ở Đài Loan. 23% có học vấn thêm ở Âu và Mỹ châu.
75% dân biểu thuộc thương gia hoặc có nghề nghiệp chuyên môn. Mặc dù vẫn còn 41 vị đại diện cho lục địa mà phần lớn được bầu gián tiếp do các hội đoàn chuyên nghiệp và các hội đoàn bang hội Trung Hoa Quốc Dân Đảng quốc ngoại. (Thường thường con cháu các vị ở lục địa chạy ra được cấp passports đại diện cho các tỉnh ở lục địa. Năm 1990 Hội đồng Đại Tư Pháp đã kêu gọi chấm dứt nhiệm vụ của 138 vị dân biểu Trung Hoa Lục Địa vào năm 1991).
Sự ủng hộ của địa phương và giới thương mại khiến cho các ghế dân biểu không còn lệ thuộc ở guồng máy Đảng. Chúng ta lại thấy số dân biểu độc lập vươn lên cao hơn ở mùa bầu cử 1989.
BÈ NHÓM TRONG ĐẢNG
Những người kỳ cựu từ lục địa ra vẫn còn ảnh hưởng dù học được yêu cầu chấm dứt nhiệm vụ dân biểu đại diện lục địa. Ảnh hưởng đó là các liên hệ thương mại tài chánh, mối liên hệ chặt chẽ với guồng máy Trung Hoa Quốc Dân Đảng Phong trào Đảng ngoại (Tang Wai) bắt nguồn từ vấn đề độc lập của Đài Loan trong thập niên 1970.
Cuộc bầu cử năm 1989 Đảng Dân Tiến bị thất lợi trong đề tài độc lập Đài Loan vì đề tài này gây bất ổn chính trị do áp lực của Trung Cộng và quan điểm 1 nước Trung Hoa duy nhất của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, Dân Tiến chỉ còn 18 ghế trong quốc hội. Người ta chờ xem cuộc diện mùa bầu cử 1992.
Các phe tân Quốc Dân Đảng trong quốc hội gồm:
- Trí Lư Hội (Wisdom Coalition): Lập ra từ tháng tư 1985. Trí Lư Hội ngày càng có thêm vây cánh, nay đã có 50 hội viên dân biểu. Họ là nhóm lớn nhất trong các khối dân biểu. Họ có lãnh đạo, có họp hàng tuần, có trụ sở họp.
Chủ Tịch: Huang Chu Wen
Phó Chủ Tịch: Lin Yu Hslang
Tổng Thư ký: Wu Tao
Họ có báo riêng. Có tài chánh hỗ trợ từ Evergreen (Cha'ang Jung) tổ hợp. Nhóm này có tới 6 nhóm chính trị thành viên hệ thuộc Quốc Dân Đảng.
Tổng Thống Lý Tân Huy ủng hộ nhóm này chủ trương canh tân và phần lớn là người sinh trưởng ở Đài Loan (48 vị).
Dầu vậy nhóm này không đi vào trung tâm quyền lực của Đảng và đối chọi với nhóm New Kue Min Tan Alliance (Liên Hiệp Tân Quốc Dân Đảng). Vì phiên âm khác nhau, không rõ Wu Tzu vừa bị ngưng đảng tịch có phải là Wu Tse, Tổng Thư Ký Trí Lư Hội hay không.
- Tân Quốc Dân Đảng Liên Hiệp
Thành lập năm 1990, chỉ có 14 vị dân biểu, họ có học vấn cao, là con cháu người gốc Đài Lục. Nổi tiếng có ông cựu Chủ tịch Chao Shao-K'ang hiện đã từ chức dân biểu để lãnh chức Tổng Giám Đốc Bảo Vệ Môi Sinh. Các ông dân biểu thành viên nổi tiếng như Yu Mu Ming và Li Sheng Feng.
Nhóm này chủ trương dân chủ hóa nội đảng, gặp nhau trao đổi quan điểm. Họ chỉ trích kịch liệt Viện Hành Chánh và chỉ trích đảng viên Quốc Dân Đảng cao cấp mặc dù họ có quan hệ mật thiết với lãnh đạo Đảng. Họ chủ trương một nước Trung Hoa thống nhất do đó chống lại nhóm Trí Lư Hội. Phê bình nhóm Trí Lư Hội theo đuổi tư lợi và tham vọng chính trị để cho tài phiệt ngoại vi sai khiến. Thật ra họ cũng có nhận hỗ trợ từ tổ hợp Hỏa Long và Thái Bình Dương (Hualung và Taiping Yang) mặc dù chủ trương trong sạch hóa quốc hội và chính trị của họ. Ở Đài Loan không tiền khó mà làm chính trị được.
Điển hình xung đột giữa hai nhóm Tân Quốc Dân Đảng Liên Hiệp và Trí Lư Hội là vụ lập hãng hàng không Evergreen ngoài hãng China Airlines.
NHÓM KIẾN THIẾT NGHIÊN CỨU HỘI (Reconstruction Research Club) là một nhóm thủ cựu nhất ở nghị trường. Nhóm này thành lập năm 1989 và có 40 hội viên.
Nhóm gồm các vị cao niên và được cử từ khối Hoa kiều hải ngoại. Đây là nhóm có liên hệ với lãnh đạo Quốc Dân Đảng. Những vị nổi tiếng là Chang P'ing Chao, Shen Shih Hsiung và Li Tsung Jen. Hai vị vừa kể ra sau là Phó Bí Thư Hội Đồng Phối Hợp Chính sách Đảng.
Nhóm này chủ trương nắm vững và ổn cố lãnh đạo Đảng. Nhóm này nhất trí ủng hộ Đảng vào năm 1990 chọn Lý Tân Huy làm Tổng Thống và đề cử Hau Pei Tsun (Hầu Bắc Tuấn) làm Thủ Tướng. Linh mục Nguyễn Lạc Hóa, 91 tuổi thuộc nhóm Kiến Thiết Nghiên cứu Hội này.
Nhóm Tái Thiết Nghiên Cứu Hội chủ trương đặt ra các bước thủ tục để thắt chặt áp lực lãnh đạo Đảng. Tuy nhiên, thành viên nhóm này cũng tham gia các nhóm nên công cuộc này chưa có hiệu lực.
TÂN TƯỞNG HỘI (NEW IDEA CLUB- NIC)
Tân Tưởng Hội lập ra vào năm 1990. Nhóm có 20 dân biểu gặp nhau hàng tuần và làm việc hăng sau, cộng tác chặt chẽ với Hiệp Hòa Hội.
Người đầu tầu là các ông Huang Ho Ch'ing, Wang Ling Lin và Ch'iu Chun Nam. Huang là một thương gia giầu kinh nghiệm nghị trường. Wang là một dân biểu độc lập, con cháu người lục địa.
HIỆP HÒA HỘI (HARMONY CLUB)
Nhóm này lập ra vào năm 1990 và có 30 hội viên, hội viên cũng liên lạc với các nhóm khác nữa. Họ thụ động quan sát nhiều hơn là hành động. Lãnh tụ là ông Liao Fu Pen vốn là Phó Bí Thư Trung Hoa Quốc Dân Đảng Hải ngoại Công tác Bộ. Nhóm có báo riêng. Kỷ luật của nhóm hơi lỏng lẻo.
Hai nhóm này có khuynh hướng ủng hộ lãnh đạo Quốc Dân Đảng. Liao có chân trong nhóm cố cựu từ lục địa chạy ra. Phái đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng đã tiếp kiến ông Liao Fu Pe trong dịp thăm viếng tháng 11 vừa qua. Ngoài ra, phái đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng tiếp kiến ông Vương Trúc Di, Bí Thư Trung Hoa Quốc Dân Đảng, Hải ngoại Công tác Bộ.
KHỐI DÂN TIẾN (DEMOCRATIC PROGRESSIVE PARTY CAUCUS)
Đây không phải là một nhóm mà là một khối trong Quốc Hội. Họ bắt đầu khởi sắc từ cuộc bầu cử 1986. Trong kỳ bầu 1989 họ có 21 dân biểu. Có hai vị mới đây bỏ đảng và 1 vị thất lộc.
Khối này bị coi là làm giảm nghiêm chỉnh kỷ luật nghị trường. Họ dùng bạo hành ví dụ như bứt dây điện thoại, đánh đấm quyền cước thực sự và cướp diễn đàn quốc hội bằng lối nói câu dầm không nghỉ (filibusters) để không cho bỏ phiếu gì cả cho đến khi thương thảo. Khối này ngăn chặn Quốc Dân Đảng đưa ra các đạo luật để thông qua tại quốc hội. Lãnh tụ nổi tiếng có khả năng là Lu Hsiu Yi, Ch'en Shui-Pieu và Chang Chun- Hsiung.
Khối này gồm có các dân biểu có học vấn cao, có óc học tập và rất hoạt động trong lãnh vực đối lập. Vì lý lịch của họ cũng không cách biệt những người trẻ trong Quốc Dân Đảng là mấy nên đã có những hợp tác giữa nhóm Dân Tiến và nhóm Trí Lư Hội. Họ hợp tác về những việc tranh đấu cho một số đề tài và có tính cách chiến thuật hơn là sự tách rời của Trí Lư Hội ra khỏi khối Quốc Dân Đảng.
Trong khối cũng có những lập trường khác nhau. Nhóm Tân Trào Lưu (New Tide) gồm có 8 dân biểu, ngoài ra có 10 vị khác chủ trương Mỹ Lệ Đảo (Formosa) do đó tự trọng khối gần như bị trung hòa. Họ bất đồng ở quan điểm độc lập của Đài Loan tách khỏi Trung Quốc.
Quan điểm độc lập của Đài Loan sẽ là 1 mối ưu tư và dằn vặt Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Từ quốc hội kỳ V, tháng 10- 1991, sự đối chọi này càng thêm sôi nổi và như ở trên chúng tôi đã thuật lại những sóng gió của mùa bầu cử 1992.
KHỐI ĐỘC LẬP
Từ cuộc bầu cử sơ bộ năm 1969, dân chúng bắt đầu bỏ phiếu cho nhóm độc lập không có liên hệ gì với Quốc Dân Đảng hoặc khối Dân Tiến mới đây. Họ dựa vào sự ủng hộ của địa phương và tự bản thân họ là những thương gia có tiền bạc.
Từ năm 1989, 13 vị dân biểu độc lập hợp tác với nhau gặp gỡ thường xuyên. Các nhân vật nổi tiếng là Ts'ai Sheng Pang, Huang Ming Ho, Lin Hung Tsung. Mới đây những dân biểu độc lập từ các viện liên kết thành Liên Minh Toàn Quốc Phi Chính Đẳng (All National Non Political Party Alliance). Khối này có ghi danh đăng ký ở Bộ Nội Vụ và do đó có quyền đề cử ứng cử viên vào các danh sách liên danh. Nghiễm nhiên họ đã trở thành đảng chính trị nhất là sau kỳ bầu cử Viện Đại Biểu Quốc Gia vào tháng 12- 1991.
Khối này yếu xét về phương diện sinh hoạt tổ chức của đảng và chỉ trích sự nhũng lạm trong các tổ chức đảng của cả hai đảng, Quốc Dân Đảng và Dân Tiến, mặc dù họ có liên hệ mật thiết với đảng cầm quyền. Do đó họ bỏ phiếu ở nghị trường gần với Quốc Dân Đảng hơn là Dân Tiến Đảng.
KẾT LUẬN
Chính trị Đài Loan sẽ bước vào sóng gió khi cao trào dân chủ hóa ngày càng được áp dụng. Đài Loan muốn khác với Hoa Lục phải thực thi dân chủ dân quyền. Đây cũng là một bó buộc thực hành Tam Dân Chủ Nghĩa. Đài Loan nhờ sự bảo vệ của Hoa Kỳ để tồn tại trong những thập niên 50, 60, 70. Đến thập niên 80, Hoa Kỳ vào năm 1982 đã bỏ người bạn đường để công nhận Trung Hoa lục địa. Mới đây Nhật Hoàng cũng viếng thăm lục địa và gián tiếp ngỏ lời xin lỗi với nhân dân Trung Hoa về những hành động của người Nhật trong thời chiến. Mặc dầu vậy Đài Loan vươn lên từ sự lạnh nhạt đồng minh và tạo cho mình một thế đứng kinh tế vững mạnh. Năm 1984, Trung Hoa Dân Quốc tham gia Thế vận hội dưới danh dạng "Trung Hoa Đài Loan" chứ không phải là Cộng Hòa Trung Quốc (Republic of China). Năm 1968, Trung Hoa Dân Quốc tham gia Ngân hàng Phát triển Á châu với danh nghĩa "Teipei, China" (Đài Bắc- Trung Quốc) mặc dù Bắc Kinh đã tham gia cơ quan này từ năm 1986. Năm 1989, Trung Hoa Dân Quốc gởi Bộ trưởng Bộ Tài chánh tham dự hội nghị Ngân hàng Phát triển Á Châu họp tại Bắc Kinh. Năm 1991, Trung Hoa Dân Quốc dưới danh dạng "Trung Hoa Đài Bắc (Chinese Teipei) ở tổ chức Phát triển Hợp tác Kinh tế Á châu Thái Bình Dương (Asia Pacific Economic Cooperation Organization (APEC). Đồng thời Trung Hoa Dân Quốc cũng tham gia làm thành viên của cơ quan GATT (General Agreement on Tariffs and Trade) với các danh dạng địa phương như Kim Môn, Mã Tổ, Bành Hồ (Penghu) v...v...
Vừa tham gia vào các tổ chức quốc tế, mặc dù đã mất ghế tại Liên Hiệp Quốc, Đài Loan vừa nỗ lực kinh tế và dùng sức mạnh tiền bạc để gây ảnh hưởng. Năm 1988, Đài Loan mở ra quỹ Phát triển và Hợp tác Kinh tế Quốc tế với ngân khoản 1 tỷ 2 Mỹ kim để giúp các nước chậm tiến (Third World Countries).
Sau khi Tổng Thống Tưởng Kinh Quốc mất vào năm 1988, qua năm sau 1989, một cơ quan được thiết lập mang danh Chiang Ching-Kue Foundation for International Scholarly Exchange cấp học bổng, trao đổi huấn luyện giáo dục ngân khoản lên tới 100 triệu Mỹ Kim. Đảng viên Quốc Dân Đảng trên thế giới có thể nộp đơn xin theo học ở Đài Loan trong ngân khoản này.
Hiện nay dự án 6 năm phát triển Đài Loan với tài khoản dự chi là 300 tỷ Mỹ kim đang làm các công ty lớn trên thế giới dồn công tác và kỹ thuật tiến bộ về Đài Loan. Mô hình phát triển đặt tại đài Kỷ niệm Tôn Dật Tiên gia tăng sự thăm viếng lễ đài này.
Giao thương với Hoa Kỳ cũng đem lại lợi nhuận cho Đài Loan về cán cân chi phó. Từ 81 đến 1991, giao thương giữa hai nước về xuất nhập cảng đã lệch hẳn về phía Đài Loan. Năm 1990 Đài Loan nhập cảng 12 tỷ Mỹ kim hàng hóa từ Mỹ nhưng đã xuất cảng khoảng 21 tỷ Mỹ kim hàng hóa sang Mỹ. Năm 1991 Đài Loan nhập cảng 14 tỷ Mỹ kim hàng hóa của Mỹ trong khi xuất cảng 22 tỷ Mỹ kim hàng hóa qua Mỹ. Mặc dầu vậy, sức mạnh kinh tế Đài Loan dựa vào Hoa Kỳ và áp lực của Hoa Kỳ vào Đài Loan vẫn mạnh mẽ.
Giao thương với lục địa trong thập niên vừa qua cũng khá hơn. Năm 1990 Đài Loan xuất cảng qua Hoa Lục khoảng 3 tỷ đô la hàng hóa trong khi nhập cảng từ Hoa lục vào khoảng 1 tỷ. Tới năm 1991 con số hàng hóa xuất cảng sang Hoa Lục lên tới 4 tỷ 2, trái lại Đài Loan chỉ nhập cảng chừng hơn 1 tỷ sản phẩm từ Trung Hoa lục địa. Đài Loan như thế phải đu giây giữ hai cặp bạc tình lang là Hoa Kỳ và Trung Hoa, phải đẩy nhiều hàng hóa sản xuất qua hai thị trường ấy. Nếu vì lẽ gì hai cặp bạc tình nhân này quất ngựa truy phong, người vợ nhỏ Đài Loan sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế và mất thị trường.
Đài Loan phải bắt quan hệ với nhiều nước khác và hiện nay Đài Loan đã đầu tư nhiều với Việt Nam dù Việt Nam hiện nằm dưới chế độ độc tài Cộng sản. Đài Loan đã cử lãnh sự sang Hà Nội và vì thế vai trò chống Cộng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng cũng đang bị duyệt xét. Trong đảng cũng có 2 khuynh hướng bảo thủ va canh cải. Một điều lý thú là các dân biểu Quốc Dân Đảng phần lớn giữ chức vụ nhỏ trong Đảng nhưng lại chính thức có quyền tại diễn đàn lập pháp. Dĩ nhiên Đảng dùng tiền bạc trợ cấp bầu cử và kỷ luật Đảng để áp lực các đảng viên dân biểu. Điều này có thể thực hiện được khi có một vị Tổng Thống cầm đầu viện Hành Chánh (ta gọi là Hành pháp) thật mạnh. Điều này gần như khó có thể sau khi gia đình họ Tưởng không còn giữ ngôi vị quyền lực và nền dân chủ hóa Đài Loan đã ở mức cao.
Đảng muốn giữ được quyền cai trị (ruling party) như một Đảng đa số, cần phần phối hợp giữa hệ thống chính quyền và hệ thống Đảng. Đảng viên cao cấp phải ra tranh cử ở những quận an toàn chắc thắng và do đó mới có thể nắm được trật tự hợp pháp ở Viện Lập Pháp. Dù muốn dù không, viện Quốc Dân Đại biểu sẽ là cơ sở bầu lên Tổng Thống. Làm sao để tư bản do Quốc Dân Đảng nắm giữ không rời bỏ Đài Loan vì thanh thế ngày càng lớn hơn của đảng đối lập Dân Tiến.
Một vấn đề then chốt nữa là làm sao Đài Loan giữ được sự ủng hộ của khối người Trung Hoa Hải ngoại và quan hệ với các đảng bạn Quốc Dân Đảng ví dụ như trường hợp Việt Nam. Đó là những vấn đề không phải chỉ là thực tiễn kinh tế, mà còn là vấn đề lương tri, vấn đề sinh tử của Quốc Dân Đảng Trung Quốc trong tương giao liên minh hải ngoại.
TIN GIỜ CHÓT
Kết quả cuộc bầu cử tháng 12-92 đã làm thức tỉnh các nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Đảng vẫn giữ được đa số tại quốc hội nhưng đa số đó bị rút xuống còn khoảng 60%. Đảng Tiến Bộ từ 8% tiến đến 39.5% và như thế đã nghiễm nhiên trở thành một khối độc lập thật sự. Hy vọng là với tư thế đó, các dân biểu Dân Tiến sẽ điều chỉnh lại cung cách nghị trường, bởi vì họ có thể nắm được Hành pháp nếu khối Quốc Dân Đảng tiếp tục phân hóa. Dân Tiến và Trí Lư Hội có thể bắt tay nhau và giữ được tu chính. Tổng Bí thư Trung Ương Tống Sở Nhi phải từ chức vì sự thất bại trong sách lược bầu cử. Sự lục đục và phân hóa cũng như sự thiếu mềm dẻo và thích ứng hóa với môi trường chính trị đã làm cử tri không tin tưởng vào Đảng. Tổng Thống Lý Tân Huy, mặc dù là Chủ tịch Đảng nhưng không giữ được sự ủng hộ của toàn Đảng, do đấy ghế Hành pháp trở nên một thế dầu giây và sự nhượng bộ cho Dân Tiến có khi còn phải đi xa hơn nữa.
Tuy nhiên trên bình diện lạc quan, cuộc bầu cử 1992 đã đưa Trung Hoa Quốc Dân Đảng đến 1 sinh hoạt lưỡng đảng. Quốc Dân Đảng đến 1 sinh hoạt lưỡng đảng. Quốc Dân Đảng không thế nêu cao ngọn cờ dân chủ nếu Đài Loan vẫn co rút vào thế độc đảng. So với chế độ Cộng sản đảng trị, mô thức Đài Loan sẽ trở nên hấp dẫn cho nhân dân Hoa Lục nhiều hơn và có thể là mô thức cho một Hồng Kông vào năm 1997.
Tuy nhiên muốn thế, cán bộ Đảng không thể ỷ y tọa hưởng kỳ thành công nghiệp của tiền nhân. Họ thật sự phải tỏa vào trong quần chúng, phát triển mạnh mẽ ở các thành phố và thật sự chấp nhận quy luật dân chủ bởi vì không thể nào có phát triển kinh tế thị trường mà không cải cách chính trị thật sự. Tệ nạn mua quan bán chức, đi cửa hậu và đưa hồng bao phải được hủy bỏ để nhân tài được trọng dụng hầu tránh bất mãn và tiêu cực chính trị.
Nếu Quốc Dân Đảng Trung Hoa đứng vững trước cơn thử thách này, sự nhả bớt quyền lực qua kỳ bầu cử 1992 vẫn có thể coi là 1 thắng lợi chứ không phải là thất bại.
ĐỖ QUÝ SÁNG
Không có nhận xét nào