Ts. Phạm Đình Bá
16/8/2025
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7, diễn ra ngày 7/8, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết: “Chúng ta đã chủ động, kiên quyết và đồng bộ triển khai các nhiệm vụ, giải pháp để bộ máy mới vận hành thông suốt, hiệu quả sau khi sắp xếp lại địa giới hành chính hai cấp chính quyền địa phương; thúc đẩy phát triển kinh tế, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 8,3-8,5%; chủ động ứng phó với những biến động của thị trường thế giới.”
Theo báo cáo, nhiều số liệu chính thức trong 7 tháng cho thấy tình hình kinh tế Việt Nam tích cực, bao gồm kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 514,7 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, xuất siêu 10,18 tỷ USD; vốn FDI đăng ký đạt 24,09 tỷ USD, tăng 27,3%; vốn FDI giải ngân đạt 13,6 tỷ USD, tăng 8,4%; Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,6%; có 174.000 doanh nghiệp đăng ký mới hoặc quay trở lại hoạt động, tăng 22,9%.
Câu chuyện mà các quan chức không nói với người dân thường trên đường phố là gì?
Trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 514,7 tỷ đô la trong bảy tháng đầu năm 2025, khoảng 354,39 tỷ đô la (68,9%) có thể được quy cho các hoạt động Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI), trong khi 160,31 tỷ đô la (31,1%) đến từ nền kinh tế trong nước.
Xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu do khu vực FDI chi phối. Các doanh nghiệp FDI tạo ra 194,96 tỷ đô la (74,3% tổng kim ngạch xuất khẩu). Các doanh nghiệp trong nước tạo ra 67,48 tỷ đô la (25,7% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Sự thống trị áp đảo của khu vực đầu tư nước ngoài trong xuất khẩu phản ánh vai trò của Việt Nam là một trung tâm sản xuất và lắp ráp lớn cho các tập đoàn đa quốc gia. Chỉ riêng các công ty như Samsung đã chiếm khoảng một phần năm tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Cơ cấu nhập khẩu thể hiện một cơ cấu cân bằng hơn. Khu vực FDI chiếm khoảng 159,43 tỷ đô la (63,2% tổng kim ngạch nhập khẩu). Khu vực trong nước chiếm khoảng 92,83 tỷ đô la (36,8% tổng kim ngạch nhập khẩu).
Mô hình nhập khẩu cho thấy mặc dù các công ty FDI chiếm ưu thế, nhưng các doanh nghiệp trong nước lại có tỷ trọng nhập khẩu tương đối lớn hơn so với xuất khẩu, phản ánh nhu cầu tiêu dùng trong nước và đầu vào công nghiệp cho sản xuất trong nước.
Cần tìm hiểu sâu hơn một chút nữa về cơ cấu khu vực FDI. Khu vực FDI bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Khu vực này bao gồm các tập đoàn đa quốc gia lớn, chẳng hạn như Samsung, Toyota, Honda, Mitsubishi, Foxconn và Pegatron, cùng nhiều công ty khác.
Khu vực này cũng bao gồm các công ty con sản xuất nước ngoài, chủ yếu từ Hàn Quốc (18,3%), Singapore (15,9%), Nhật Bản (15,5%), Đài Loan (8,4%), Hồng Kông (7,3%) và Trung Quốc (5,9%). Khu vực này cũng bao gồm các doanh nghiệp chế xuất, hoặc các công ty được thành lập chuyên biệt cho sản xuất định hướng xuất khẩu.
Giá trị kinh tế gia tăng của các yếu tố đóng góp từ Việt Nam trong các hoạt động FDI bị hạn chế đáng kể. Hầu như không có "hoạt động của Việt Nam" trong khu vực FDI.
Điều quan trọng là, việc phân tích khu vực FDI không bao gồm các hoạt động riêng lẻ của Việt Nam. Con số 354,39 tỷ đô la thuộc về FDI thể hiện các hoạt động thương mại của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài như những thực thể hoàn chỉnh. Các công ty này nhập khẩu nguyên liệu thô và linh kiện (thường từ chuỗi cung ứng toàn cầu của họ), gia công/lắp ráp sản phẩm tại Việt Nam, sử dụng cả lao động nước ngoài và Việt Nam, và xuất khẩu thành phẩm ra toàn cầu.
Có những hạn chế lớn về giá trị gia tăng của Việt Nam trong các sản phẩm xuất khẩu. Nội dung nước ngoài chi phối chuỗi giá trị.
Điểm này có vẽ đi ngược với những gì Thủ tướng Phạm Minh Chính tuyên bố về thành tích Việt Nam đã đạt được trong bảy tháng qua. Đáng chú ý, khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam bao gồm nội dung giá trị gia tăng nước ngoài, nghĩa là Việt Nam chỉ sản xuất khoảng một nửa giá trị hàng hóa xuất khẩu.
Trong lĩnh vực điện tử và máy móc, tỷ lệ giá trị gia tăng nước ngoài là cao nhất. Trong các ngành công nghệ cao, Việt Nam chủ yếu đóng vai trò là trung tâm lắp ráp.
Điều mà Thủ tướng không đề cập trong báo cáo của ông ấy là thách thức to lớn trong nỗ lực của chính phủ nhằm hội nhập các hoạt động kinh doanh FDI vào nền kinh tế trong nước.
Hiện tại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động như những "khu vực khép kín" tại Việt Nam. Họ nhập khẩu hầu hết các đầu vào trung gian từ các nhà cung cấp toàn cầu. Họ duy trì mối liên kết hạn chế với các nhà cung cấp Việt Nam. Họ hạn chế chuyển giao công nghệ và lan tỏa năng suất sang các doanh nghiệp trong nước.
Thủ tướng cũng không tiết lộ bức tranh kinh tế thực sự đằng sau các con số xuất khẩu. Có một sự chênh lệch đáng kể giữa số lượng doanh nghiệp và đóng góp thương mại. Các doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 2,8% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng chiếm tới 74,3% kim ngạch xuất khẩu.
Các doanh nghiệp trong nước chiếm 97,2% tổng số doanh nghiệp nhưng chỉ chiếm 25,7% kim ngạch xuất khẩu. Về mặt việc làm, khu vực FDI sử dụng 32,8% lực lượng lao động chính thức của Việt Nam.
Hãy cùng xem xét cơ cấu khu vực kinh tế trong nước với 160,31 tỷ đô la trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 514,7 tỷ đô la trong bảy tháng đầu năm 2025.
Khu vực kinh tế trong nước trị giá 160,31 tỷ đô la bao gồm các doanh nghiệp nhà nước (chiếm 33,7% vốn đầu tư trong nước) và các công ty tư nhân Việt Nam (chiếm 44,9% vốn đầu tư trong nước). Phần còn lại 21,4% vốn đầu tư trong nước đến từ các hộ gia đình, hợp tác xã và các thành phần khác. Đáng chú ý, 97% các công ty trong nước là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Lãnh đạo Việt Nam hiếm khi đề cập đến những hạn chế về mặt cơ cấu này. Trong một dịp hiếm hoi, Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây đã cảnh báo về việc "Việt Nam chỉ là một cơ sở gia công lắp ráp" và nhấn mạnh sự cần thiết của FDI nhằm nâng cao năng lực trong nước.
Câu chuyện trên cho thấy rằng trong khi FDI thúc đẩy các con số thương mại ấn tượng của Việt Nam, thì đất nước chỉ nắm giữ một phần tương đối nhỏ hơn trong giá trị kinh tế được tạo ra, làm nổi bật thách thức trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế dựa trên lắp ráp sang sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn và đổi mới sáng tạo trong nước.
Trong cái khẩu hiệu mà chúng ta thấy nhan nhãn mọi nơi về “Độc lập, Tự Do, Hạnh Phúc”, độc lập thực sự là như thế nào?
Không có nhận xét nào