Nguyễn Tuấn
16/8/2025
Tôi theo dõi cuộc phỏng vấn tác giả Lê Nguyễn trên kênh YouTube Dương Quốc Chính [1] và thấy những nhận xét và quan sát rất sát thực và đúng với những gì tôi trả qua. Tôi bèn tóm tắt những ý chánh để chia sẻ với các bạn.
Về tác giả, xin trích giới thiệu: "Lê Nguyễn tên thật là Lê Văn Cẩn, một cựu công chức VNCH. Ông hiện nay là nhà nghiên cứu, là tác giả một số sách về lịch sử giai đoạn cận, hiện đại Việt Nam. Ở video này, thông qua câu chuyện về cuộc đời mình, ông đã cho khán giả biết thêm về lịch sử của Học viện Quốc gia hành chánh, bộ máy chánh quyền từ trung ương đến địa phương của VNCH."
Chương trình phỏng vấn gồm 4 phần, mỗi phần dài hơn 60 phút. Hai phần đầu là về hành trình cuộc đời của tác giả và những năm tháng đi tù và làm lại cuộc đời sau 1975. Hai phần sau nói về giáo dục, và tôi tóm lược dưới đây hầu cung cấp một số thông tin cho các bạn nào muốn biết thời của chúng tôi học hành ra sao.
Phần 3: Giáo dục thời VNCH
Nền giáo dục VNCH từ 1954 đến 1975, qua góc nhìn của ông Lê Văn Cẩn, là một bức tranh sinh động về sự kết hợp giữa tính nhân bản, dân tộc và khai phóng.
Dựa trên trải nghiệm cá nhân và tư liệu thực tế, ông mô tả một hệ thống giáo dục không chỉ đào tạo tri thức mà còn khuyến khích tự do tư tưởng, tạo nền tảng cho sự phát triển cá nhân và xã hội.
Hệ thống giáo dục VNCH được đặc trưng bởi sự song hành giữa trường công và tư thục. Các trường công lập, như Petrus Ký, Gia Long hay Hậu Nghĩa, tập trung ở tỉnh lị và quận lị, chỉ chiếm 10-20% tổng số trường tiểu học và trung học. Trong khi đó, trường tư thục chiếm 80-90%, đặc biệt phổ biến ở nông thôn và các xã ấp, do tư nhân vận hành nhưng phải tuân theo qui định của Bộ Giáo dục.
Giáo viên trường tư thường phải có bằng cấp tối thiểu như trung học đệ nhất cấp để dạy cấp 2, và họ dạy với sự nhiệt huyết để thu hút học sinh, như tại trường Trường Sơn với các giáo viên nổi tiếng như Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Hoàng Chương và Trần Bích Lan. Ngược lại, trường công có học sinh đồng đều hơn nhờ tuyển chọn qua thi cử nghiêm ngặt, với giáo viên hưởng lương cố định và trình độ ổn định, giúp học sinh đạt thành tích cao hơn trong các kì thi.
Học phí là một điểm khác biệt lớn giữa hai hệ thống. Trường công gần như miễn phí. Trong khi đó, trường tư có học phí dao động, như 230 đồng/tháng cho lớp đệ ngũ (lớp 8 ) vào khoảng năm 1950, gây khó khăn cho các gia đình nghèo, đặc biệt ở nông thôn.
Một số trường tư hỗ trợ học sinh khó khăn, như giảm học phí 30 đồng/tháng cho ông Cẩn, nhưng việc phổ cập giáo dục vẫn bị hạn chế do ngân sách nhà nước không đủ để xây dựng thêm trường công. Kết quả là tỉ lệ thất học ở nông thôn khá cao, khi nhiều trẻ em không thể theo học do chi phí hoặc khoảng cách địa lí.
Sách giáo khoa và chương trình học phản ảnh tính tự do và cạnh tranh của giáo dục VNCH. Không có độc quyền in ấn hay soạn thảo, các giáo sư và nhà giáo dục như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyễn Duy Diễn tự soạn sách, cạnh tranh dựa trên chất lượng và sự chấp nhận của học sinh, giáo viên.
Bộ Giáo dục chỉ qui định khung chương trình, để các trường tự do vận dụng cách dạy. Các sách nổi tiếng như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm hay Luận đề văn chương của Nguyễn Sĩ Tế và Nguyễn Duy Diễn trở thành tài liệu quan trọng cho học sinh thi tú tài.
Nội dung giảng dạy mang tính khách quan, đặc biệt trong môn lịch sử, tập trung vào tổng quan mà không công kích trực tiếp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, sách giáo khoa có xu hướng phê phán nhà Nguyễn và Bảo Đại, nhưng đến thời Đệ nhị Cộng hòa, nội dung trở nên trung dung hơn.
Môn công dân giáo dục dạy về các thể chế chánh trị và kinh tế một cách khoa học, giúp học sinh hiểu về quân chủ, dân chủ, cộng sản và các mô hình kinh tế như tư bản, xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, môn triết học và luận lí học ở lớp đệ nhất (lớp 12) được giảng dạy chuyên sâu, bao gồm tâm lí học, luân lí học, siêu hình học và logic, với hệ số cao trong kì thi tú tài, khác biệt rõ rệt so với giáo dục hiện nay.
Giáo viên trong hệ thống VNCH có thu nhập tốt, ngang bằng với công chức hành chánh và kĩ sư công chánh, khoảng 6.700 đồng/tháng năm 1965, cao hơn mức trung bình xã hội (3.000 đồng/tháng). Phụ cấp gia đình (800 đồng/vợ, 500 đồng/con thời Đệ nhất, tăng gấp đôi vào thập niên 1970) giúp giáo viên đủ sống mà không cần dạy thêm.
Nhu cầu giáo viên cấp 3 cao, đặc biệt ở tỉnh lị, và sinh viên tốt nghiệp các trường như Đại học Sư phạm hay Học viện Quốc gia Hành chánh được tuyển dụng gần 100% vào bộ máy công quyền, với sự phân bổ công bằng dựa trên thứ hạng thi tốt nghiệp. Tuy nhiên, công chức mới ra trường có thể bị điều đi vùng xa, nguy hiểm như Phú Bổn, Quảng Đức, trước khi được chuyển về gần sau hai năm.
Tính khai phóng của giáo dục thể hiện rõ qua việc học sinh, sinh viên được tiếp cận tư tưởng đa chiều, kể cả văn học miền Bắc như tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, hay sách triết học Marx của Trần Văn Toàn. Chánh quyền không cấm phổ biến các tư tưởng cộng sản trong học thuật, và sách miền Bắc được in roneo dưới dạng “tham khảo” để tránh vi phạm bản quyền.
Văn học cổ điển như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương được giảng dạy chánh thức, trong khi văn học hiện đại như Tự Lực Văn Đoàn là tài liệu tham khảo cá nhân. Sự tự do này dẫn đến việc một số sinh viên tham gia phong trào phản chiến, như Huỳnh Kim Báu hay Lê Hiếu Đằng, nhưng không bị đàn áp tư tưởng từ chánh quyền.
Tuy nhiên, giáo dục VNCH cũng đối mặt với thách thức. Tỉ lệ đậu tú tài 1 (30-40%) và tú tài 2 (45-50%) thấp hơn nhiều so với hiện nay (90-100%), do thi cử nghiêm ngặt và trình độ học sinh trường tư chênh lệch.
Thiếu trường công và chi phí học tư thục khiến nhiều trẻ em nông thôn không được đi học, làm hạn chế tính phổ cập của giáo dục. So với thời Pháp thuộc, giáo dục VNCH kế thừa tính tự do tư tưởng, nhưng khác với giáo dục xXHCN sau 1975, vốn mang tính định hướng cao.
Sự công bằng trong lương bổng giữa các ngành công chức, dù tạo động lực, lại gây gánh nặng ngân sách.
Phần 4: Tự do tư tưởng trong nền giáo dục VNCH
Qua lời kể của ông Lê Văn Cẩn, nền giáo dục VNCH hiện lên như một hệ thống mang tính tự do cao, khuyến khích suy nghĩ độc lập và không kiểm soát chặt chẽ tư tưởng của học sinh, sinh viên. Với sự song hành giữa giáo dục công và tư, các phong trào sinh viên tự phát, và hệ thống đào tạo công chức chuyên sâu, VNCH đã tạo nên một môi trường giáo dục khai phóng, dù còn hạn chế về tính phổ cập.
Học sinh và sinh viên được hưởng sự tự do tư tưởng đáng kể. Không giống thời kì XHCN với các tổ chức như đội, đoàn để quản lí, học sinh thời VNCH không chịu sự kiểm soát chặt chẽ từ nhà trường hay chánh quyền. Hiệu đoàn trường chỉ mang tính danh nghĩa, gần như không có hoạt động cụ thể, và các sự kiện như huy động học sinh làm “hàng rào danh dự” để đón Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1959 chỉ là những hoạt động nhỏ lẻ.
Các phong trào như Hướng đạo sinh và Gia đình Phật tử, do tư nhân tổ chức, hoạt động độc lập với học đường, tập trung rèn luyện nhân cách và giáo dục con người tốt. Hướng đạo sinh đặc biệt phát triển ở học sinh tiểu học và trung học, trong khi Gia đình Phật tử giới hạn trong phạm vi Phật giáo, cả hai đều không chịu sự can thiệp của nhà nước.
Tổng hội sinh viên và các phong trào chánh trị là minh chứng rõ nét cho sự tự do trong xã hội VNCH. Cuối thập niên 1950, Tổng liên đoàn học sinh hoạt động độc lập, xuất bản tờ Gió Mới để phản đối chánh sách giáo dục của Bộ trưởng Trần Hữu Thế, cho thấy tinh thần tự chủ của học sinh. Đến thập niên 1960-1970, Tổng hội sinh viên trở nên mạnh mẽ, đặc biệt sau sự kiện lật đổ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Hoàn toàn do sinh viên tự tổ chức và bầu lãnh đạo, Tổng hội không chịu sự can thiệp từ chánh quyền. Một ví dụ tiêu biểu là ông Lê Hữu Bôi, sinh viên Học viện Quốc gia Hành chánh, lãnh đạo phong trào biểu tình năm 1964 đòi Thủ tướng Nguyễn Khánh bỏ Hiến chương Vũng Tàu. Một số sinh viên, như ông Lý Quý Trung, tận dụng vai trò lãnh đạo để tạo tiền đề cho sự nghiệp chánh trị, sau này trở thành Giám đốc Nha Thanh niên và dân biểu.
Phong trào đấu tranh, đặc biệt ở Huế, kết hợp với Lực lượng Cứu nguy Dân tộc, tập trung vào bất đồng chánh sách với chánh quyền, dù một số cá nhân như Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Kim Báu sau này gia nhập Mặt trận Giải phóng. Thành phần thứ ba, bao gồm dân biểu và kí giả như Ngô Công Đức, hoạt động trong nghị trường và báo chí với mục tiêu cá nhân hoặc thăng tiến chánh trị, không nhất thiết liên kết với Việt Cộng. Pháp luật thời kì này không khắt khe, và nhà trường không kỉ luật học sinh, sinh viên tham gia biểu tình, như trường hợp ông Cẩn tham gia phong trào Phật giáo năm 1963 mà không bị xử lí, phản ảnh sự tôn trọng dân chủ của chánh quyền.
Hệ thống giáo dục VNCH kết hợp giữa trường công và tư thục, với các trường công lập như Hậu Nghĩa, Trịnh Hoài Đức chủ yếu ở tỉnh lị, và các trường quốc tế như Hội Việt Mĩ hay Jean Jacques Rousseau phục vụ người nước ngoài hoặc thiên về văn hóa Pháp nhưng vẫn thi tú tài chung.
Đại học công lập như Luật khoa, Văn khoa, Khoa học, Bách khoa, Nông Lâm Súc miễn học phí hoàn toàn. Đại học tư thục như Vạn Hạnh bắt đầu thu phí vào giai đoạn sau.
Sinh viên các trường đào tạo công chức như Sư phạm và Học viện Quốc gia Hành chánh nhận học bổng 1.500 đồng/tháng và được bảo đảm việc làm sau tốt nghiệp.
Học viện Quốc gia Hành chánh, nơi ông Cẩn theo học, có qui trình tuyển chọn khắc nghiệt (3.000 thí sinh lấy 100 người), đào tạo công chức hành chánh chuyên sâu cho các vị trí như trưởng phòng, phó quận trưởng, phó tỉnh trưởng. Cơ hội việc làm cho sinh viên tốt nghiệp đại học rất đa dạng, từ thẩm phán, biện lí, đến giáo viên trường tư thục, với tỉ lệ thất nghiệp thấp hơn nhiều so với hiện nay.
Quản lí giáo dục và y tế cũng cho thấy sự khác biệt trong bộ máy VNCH. Trước năm 1974, không có Sở Giáo dục ở cấp tỉnh; các trường trung học và tiểu học hoạt động độc lập, trực thuộc Nha Trung tiểu học và Bình dân giáo dục của Bộ Giáo dục.
Trường công lập tỉnh lị kiểm tra học bạ của trường tư thục để đảm bảo điều kiện thi cử, trong khi thí sinh tự do, như công chức và quân nhân học ban đêm, được tham gia thi trung học đệ nhất cấp mà không cần ưu tiên. Ngược lại, mỗi tỉnh có Ty Y tế, do trưởng ti kiêm giám đốc bệnh viện tỉnh quản lí, phối hợp với tỉnh trưởng theo hệ thống ngang-dọc giữa trung ương và địa phương.
So với hiện nay, nền giáo dục VNCH nổi bật bởi tính khai phóng, không kiểm soát tư tưởng, và sự tự do trong biểu tình của sinh viên. Đại học miễn phí và cơ hội việc làm cao tạo điều kiện cho sự thăng tiến, nhưng hệ thống giáo dục lại thiếu tính phổ cập do trường công hạn chế và học phí trường tư là gánh nặng.
Công chức hành chánh được đào tạo chuyên sâu, tách biệt với ngành giáo dục, nơi giáo viên ít cơ hội chuyển sang quản lí hành chánh. Hiện nay, học phí đại học cao, kỉ luật chặt chẽ, và không có thí sinh tự do, phản ảnh sự khác biệt lớn về cách quản lí và triết lí giáo dục.
Qua kí ức của ông Lê Văn Cẩn, nền giáo dục VNCH hiện lên như một hệ thống tự do, khuyến khích tư duy độc lập và tạo cơ hội cho những ai nỗ lực, dù còn hạn chế về phổ cập giáo dục. Các phong trào sinh viên và sự linh hoạt trong quản lí giáo dục phản ảnh một xã hội cởi mở, nơi cá nhân có thể tự do bày tỏ ý kiến và tham gia chánh trị mà không bị đàn áp.
Những câu chuyện của ông Cẩn không chỉ làm sáng tỏ một thời kì lịch sử mà còn mang lại bài học về giá trị của tự do tư tưởng trong giáo dục và xã hội.
https://www.facebook.com/t.nguyen.2016
Không có nhận xét nào