Ts. Phạm Đình Bá
18/8/2025
Nhà nước Việt Nam tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng GDP đầy tham vọng 8,3-8,5% cho năm 2025, bất chấp những bất ổn toàn cầu. Chính phủ đã khởi động cuộc cải cách kinh tế được gọi là lớn nhất trong một thế hệ, hướng tới mục tiêu trở thành "con hổ kinh tế" tiếp theo của châu Á, bao gồm cải cách thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng và các sáng kiến nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động.
Bài nầy gợi ý là mục tiêu đầy tham vọng của Việt Nam để đạt được vị thế quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 đang phải đối mặt với những hạn chế cơ cấu cơ bản. Tôi xin hỏi - Có phải Việt Nam năm 2045 sẽ giống với Trung Quốc 2025, bây giờ?
Bài nầy lập luận rằng - Nếu không cải cách chính trị, Việt Nam có nguy cơ đi theo quỹ đạo tương tự như tình trạng hiện tại của Trung Quốc - đạt được vị thế quốc gia có thu nhập trung bình nhưng lại phải vật lộn với những rào cản thể chế ngăn cản quá trình chuyển đổi bền vững sang phát triển thu nhập cao. Việc so sánh Việt Nam 2045 với "trở thành Trung Quốc vào năm 2025" đặc biệt phù hợp, vì cả hai nước đều phải đối mặt với những rào cản tương tự của chủ nghĩa độc tài bất chấp những thành tựu kinh tế gần đây.
Rào cản đầu tiên là những hạn chế về thể chế của chế độ độc đảng. Nhà nước độc đảng phải đối mặt với những hạn chế đáng kể trong việc ra quyết định. Thể chế độc đảng tạo ra những rào cản có hệ thống đối với các cải cách thể chế cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia có thu nhập cao.
Việc thiếu cạnh tranh chính trị dẫn đến "sự chủ quan và đơn phương trong việc ra quyết định định hướng chính trị". Không có các đảng đối lập hoặc các thể chế độc lập để phản biện các chính sách, Việt Nam thiếu các cơ chế kiểm soát và cân bằng cần thiết cho những chuyển đổi kinh tế phức tạp. Chính những nút thắt trong quá trình ra quyết định tập trung này đang cản trở sự tiến bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ một quốc gia có thu nhập trung bình lên một quốc gia có thu nhập cao ngày nay.
Bản chất liên kết của hệ thống độc đảng ở Việt Nam, đặc biệt là mạng lưới tham nhũng chằng chịt trong nội bộ đảng, tạo ra "một địa hình khó khăn cho những người cải cách", nơi "tốc độ thay đổi thường chậm, và việc thực hiện có thể nửa vời hoặc mang tính tượng trưng mà không giải quyết hiệu quả các vấn đề tiềm ẩn". Sức ì thể chế đó cũng là sức nặng cầm chân Trung Quốc dù nước nầy mong muốn lên vị thế quốc gia có thu nhập cao.
Mặc dù Nghị quyết 68-NQ/TW (tháng 5 năm 2025) chính thức coi khu vực tư nhân là "động lực quan trọng nhất" của Việt Nam, nhưng hệ thống độc đảng vẫn tạo ra những trở ngại mang tính cấu trúc đối với đổi mới sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp. Những hạn chế này thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống người làm.
Người dân có tiếng nói hạn chế trong lĩnh vực chính trị. Các doanh nghiệp tư nhân thiếu đại diện chính trị để vận động cho những cải cách cần thiết. Như Nghị quyết 68 đã thừa nhận, "sự hiểu biết chưa đầy đủ về vai trò của kinh tế tư nhân" và "quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo vệ đầy đủ".
Khu vực tư nhân tiếp tục đối mặt với "những thách thức đáng kể trong việc tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai và nguồn nhân lực có tay nghề cao". Các doanh nghiệp nhà nước vẫn duy trì quyền tiếp cận ưu tiên đối với các nguồn lực quan trọng bất chấp những tuyên bố to về cải cách của Đảng. Những rào cản trong việc tiếp cận các nguồn lực cản trở sức sống của một bộ phận dân số năng động, đặc biệt là những người trẻ đang cố gắng cải thiện cuộc sống của chính họ.
Rào cản thứ hai là chế độ độc đảng đang phải đối mặt với những hạn chế về phát triển kinh tế. Giống như Trung Quốc vào năm 2025, Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với những điểm yếu dễ bị tổn thương trên con đường trở thành quốc gia có thu nhập cao.
Việt Nam đóng vai trò là một bánh xe nhỏ trong chuỗi hàng hóa và dịch vụ mà các công ty đa quốc gia sản xuất cho nền kinh tế toàn cầu. Sự đóng góp của Việt Nam vào chuỗi giá trị nầy rất hạn chế. Kinh tế trong nước vẫn phụ thuộc nặng nề vào lắp ráp và gia công, với khoảng 48% kim ngạch xuất khẩu là hàng giá trị gia tăng nước ngoài. Do đảng cầm quyền không thể thay đổi, đất nước "chủ yếu đóng vai trò là một trung tâm lắp ráp" hơn là phát triển năng lực đổi mới sáng tạo nội địa.
Giới trẻ thường bình luận đùa cợt trên Reddit rằng Việt Nam là một “cường quốc làm công, cường quốc thất nghiệp”, … với giới lãnh đạo hãnh diện là “nước Đông Lào, nước rất phát triển so với Lào và Campuchia”.
Các bình luận trên mạng Reddit chỉ ra rằng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển của Việt Nam chỉ chiếm 0,7% GDP—không đủ cho tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo cần thiết để đạt được vị thế thu nhập cao. Chỉ có 3.400 trong số 110.000 doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm doanh nghiệp FDI) tham gia vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và sản xuất giá trị gia tăng.
Sự thống trị dai dẳng của doanh nghiệp nhà nước đang kìm hãm sự phát triển của khu vực tư nhân. Đảng đã phân bổ sai nguồn lực một cách nghiêm trọng. Các doanh nghiệp nhà nước "nắm giữ nhiều nguồn lực, đất đai, vốn và nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng chưa khai thác hiệu quả, thậm chí còn lãng phí". Điều này tạo ra hiệu ứng lấn át, hạn chế khu vực tư nhân tiếp cận các nguồn lực sản xuất.
Bất chấp những cải cách gần đây, "các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài vẫn nhận được nhiều ưu đãi hơn khu vực tư nhân", với việc các doanh nghiệp nhà nước được "tiếp cận đất đai, vốn và tín dụng thuận lợi hơn". Khu vực tư nhân phải đối mặt với sự cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước chừng nào thể chế chính trị hiện nay còn tồn tại.
Theo đại kế hoạch mà ông Tô Lâm đề ra và công bố, khát vọng của Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2025 thực chất là khát vọng trở thành Trung Quốc vào năm 2025. Quỹ đạo phát triển của Việt Nam ngày càng phản ánh mô hình chủ nghĩa tư bản độc đoán của Trung Quốc, với những hạn chế về mặt cấu trúc tương tự.
Việt Nam đã áp dụng các mô hình quản trị theo kiểu Trung Quốc, bao gồm "kiểm soát truyền thông, quản lý thông tin và thực hiện các chính sách giám sát công nghệ". Điều này thể hiện "bắt chước đường lối chứ không phải bắt chước mô hình" trong cách tiếp cận phát triển độc đoán của Trung Quốc.
Sự phụ thuộc kinh tế ngày càng tăng của Việt Nam với Trung Quốc thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường tạo ra những lỗ hổng về mặt cấu trúc tương tự như những lỗ hổng đang ảnh hưởng đến các quốc gia độc đoán khác, vốn tập trung vào việc duy trì quyền lực cho một số ít giới tinh hoa mà không quan tâm đến phúc lợi của phần còn lại của dân chúng.
Thực tế, tình thế khó khăn hiện tại của Trung Quốc chính là tương lai của Việt Nam. Trung Quốc năm 2025 là ví dụ điển hình cho những hạn chế của chủ nghĩa độc đoán mà Việt Nam có thể phải đối mặt vào năm 2045.
Trung Quốc đang đối mặt với "sự sụt giảm mạnh và kéo dài về tăng trưởng kinh tế", trong bối cảnh các nhà kinh tế đang tranh luận liệu nước này có rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Bẫy nầy là hiện tượng một quốc gia tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và đạt được vị thế thu nhập trung bình, nhưng sau đó lại chững lại và chật vật để đạt được vị thế thu nhập cao. Mặc dù đã tăng trưởng trong nhiều thập kỷ, Trung Quốc vẫn phải đối mặt với tình trạng trì trệ năng suất và những thách thức trong chuyển đổi cơ cấu.
Hệ thống độc tài của Trung Quốc tạo ra những rào cản đối với đổi mới sáng tạo, vốn là yếu tố cần thiết cho sự phát triển bền vững của thu nhập cao. Việc thiếu cạnh tranh chính trị làm giảm động lực cho các cải cách nâng cao năng suất. Những hạn chế về thể chế này không dễ dàng được xóa bỏ chừng nào độc đảng còn nắm quyền lực trên vận mạng của người dân.
Trung Quốc đang phải đối mặt với "nợ công và dân số già hóa" cùng với những thách thức về "môi trường kinh doanh kém cạnh tranh" - những áp lực tương tự mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trong 20 năm tới. Những áp lực về nhân khẩu học và kinh tế này đang hiện hữu ở Trung Quốc và đang dần xuất hiện ở Việt Nam.
Về những hạn chế trong phát triển lực lượng lao động, chế độ độc đảng của Việt Nam kìm hãm sự phát triển vốn con người thông qua hạn chế về tự do học thuật và tranh luận trí tuệ. Đảng nắm quyền kiểm soát các chương trình giáo dục có thể không phù hợp với nhu cầu thị trường. Đất nước đã đang và sẽ đối mặt với hiện tượng “chảy máu chất xám” khi những cá nhân tài năng tìm kiếm cơ hội trong các xã hội cởi mở hơn.
Việc thiếu sót của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và việc thiếu đa nguyên chính trị hạn chế tinh thần chấp nhận rủi ro trong kinh doanh. Ngoài ra, các quan hệ đối tác quốc tế thực sự đòi hỏi các tiêu chuẩn quản trị dân chủ.
Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rào cản trong nỗ lực hội nhập kinh tế với các quốc gia khác, tương tự như những gì Trung Quốc đang phải đối mặt hiện nay. Quản trị độc đoán tạo ra các vấn đề về uy tín cho các quan hệ đối tác quốc tế. Các nền kinh tế tiên tiến ngày càng ưa chuộng các đối tác dân chủ để chuyển giao công nghệ nhạy cảm.
Tiêu chí đầu tư liên quan đến các dự án môi trường ngày càng ưu tiên các chính phủ minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Các nước phát triển ít nhiều ưa chuộng việc tham gia vào các thỏa thuận quốc tế tôn trọng các bảo đảm pháp quyền, vốn khó có thể đạt được dưới chế độ độc đảng.
Con đường phát triển hiện tại của Việt Nam dưới chế độ độc đảng cho thấy nước này sẽ đạt được vị thế thu nhập trung bình nhưng sẽ gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi thể chế cần thiết cho sự phát triển thu nhập cao - chính xác là vị thế của Trung Quốc vào năm 2025.
Những điểm tương đồng chính có thể được liệt kê ở ba khía cạnh. Thứ nhất, cả hai nước đều thể hiện sự tăng trưởng ấn tượng về số lượng trong khi phải đối mặt với những hạn chế về phát triển có chất lượng. Thứ hai, các hệ thống độc tài cho phép huy động nguồn lực nhanh chóng nhưng lại tạo ra những nút thắt về đổi mới. Thứ ba, chế độ độc đảng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp kinh tế ngắn hạn nhưng cản trở sự thích ứng về thể chế dài hạn.
Khi lãnh đạo mới của Đảng lên nắm quyền, Việt Nam phải đối mặt với một đánh giá quan trọng. Mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam đòi hỏi tăng trưởng dựa trên năng suất, vốn có mối tương quan truyền thống với chất lượng thể chế, cạnh tranh chính trị và pháp quyền - những đặc điểm khó đạt được dưới chế độ độc đảng kéo dài.
Nếu không có những cải cách chính trị cơ bản, Việt Nam có nguy cơ trở thành một quốc gia độc tài có thu nhập trung bình tương tự như Trung Quốc ngày nay. Đây là tình trạng có ý nghĩa kinh tế nhưng bị hạn chế về thể chế, có khả năng phát triển cơ sở hạ tầng ấn tượng nhưng lại gặp khó khăn trong đổi mới sáng tạo. Mặc dù có mong muốn cao, nhưng thể chế hiện nay khiến Việt Nam khó tăng trưởng năng suất và chuyển đổi sang thu nhập cao bền vững.
Bằng chứng cho thấy chỉ riêng cải cách thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao kỹ năng lực lượng lao động - mặc dù cần thiết - là không đủ nếu không có những cải cách chính trị bổ trợ, giúp nâng cao chất lượng thể chế và động lực cạnh tranh thiết yếu cho phát triển thu nhập cao.
Bạn ơi, hệ quả của cách làm việc của Đảng trong 20 năm tới là gì?
Việc Việt Nam tiếp tục theo đuổi mô hình phát triển độc đoán của Trung Quốc trong 20 năm tới có nguy cơ gây ra những tổn thất to lớn về mặt xã hội và nhân văn cho người dân. Những tổn thất này bao gồm sức khỏe tâm lý, bản sắc văn hóa, sự gắn kết xã hội và phẩm giá con người cơ bản - những hy sinh cuối cùng có thể làm suy yếu chính nền tảng của xã hội Việt Nam.
Những tổn thất này không chỉ đơn thuần là sự đánh đổi chính sách mà còn là sự vi phạm cơ bản phẩm giá con người và phúc lợi xã hội. Mặc dù mô hình của Trung Quốc có thể mang lại tăng trưởng kinh tế, nhưng cái giá phải trả về mặt con người mà người dân Việt Nam bình thường phải trả - về sức khỏe tâm thần, bản sắc văn hóa, sự gắn kết xã hội và các quyền tự do cơ bản - cuối cùng có thể trở nên không bền vững và không thể biện minh về mặt đạo đức.
Người dân Việt Nam xứng đáng được hưởng sự phát triển nâng cao chứ không phải làm suy yếu nhân tính của họ. Xu hướng hiện tại có nguy cơ tạo ra một xã hội phát triển về kinh tế nhưng lại nghèo nàn về mặt xã hội, văn hóa và tinh thần - một chiến thắng trống rỗng, hy sinh linh hồn của nền văn minh Việt Nam để đổi lấy tiến bộ vật chất cho thiểu số lãnh đạo. Cách làm của độc tài độc đảng toàn trị trong 20 năm tới có đáng làm không?
Không có nhận xét nào