DỰ ÁN ĐẠI KÝ SỰ BIỂN ĐÔNG
September 8, 2025
Research Asssisant Biên dịch
Cuộc duyệt binh 2025 của Trung Quốc.
Hoàng Việt Hải, Lê Bá Nhật Thắng, Marcus Loh
Tác giả: Marcus Loh | Asia Times ngày 4 tháng 9 năm 2025
Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Hiệu đính: Hoàng Việt Hải
Màn phô diễn sức mạnh quân sự và thế thống trị lục địa đang trỗi dậy của Trung Quốc, cuối cùng lại mang đến lợi thế ngoại giao cho Hoa Kỳ.
Vào ngày thứ Tư vừa qua, Bắc Kinh đã tổ chức một lễ duyệt binh quân sự lớn nhất trong một thập kỷ, nhằm kỷ niệm 80 năm kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II. Sự phô trương đã được dàn dựng một cách tỉ mỉ. Các dàn xe mang tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-41 và tiêm kích tàng hình J-20 được phô bày để thể hiện sự tự tin về sức mạnh quân sự với thế giới, đồng thời trấn an trong nước.
Một thời từng phụ thuộc vào vũ khí nhập khẩu từ Liên Xô và sản xuất còn manh mún, phân tán, Trung Quốc nay đã hợp nhất năng lực công nghiệp quốc phòng thông qua các tập đoàn tích hợp dọc khổng lồ: Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc (AVIC) trong lĩnh vực hàng không, Tập đoàn Khoa học Công nghệ Hàng không Vũ trụ Trung Quốc (CASIC) về tên lửa và không gian, Tổng công ty Công nghiệp Đóng tàu Trung Quốc (CSSC) với mảng đóng tàu, và Tập đoàn Công nghệ Điện tử Trung Quốc (CETC) trong công nghệ điện tử quốc phòng.
Những doanh nghiệp quốc doanh này đã giúp Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) sở hữu lực lượng Tên lửa với các loại ICBM “có khả năng sống sót cao”, Không quân với tiêm kích thế hệ năm, và Hải quân với hơn 370 tàu chiến – lớn nhất thế giới về số lượng.
Tiềm lực công nghiệp hùng mạnh này đã thúc đẩy chu kỳ hiện đại hóa liên tục, thu hẹp đáng kể khoảng cách về răn đe trên bộ mà lịch sử từng để lại. Giờ đây, câu hỏi được đặt ra là: Liệu quy mô công nghiệp như vậy sẽ mang lại lợi thế địa-chính trị bền vững cho Trung Quốc hay không?
Từ nhược điểm lục địa đến ưu thế dẫn đầu
Trong phần lớn lịch sử, các mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc đều đến từ hướng đất liền, từ các đạo quân du mục phía Bắc cho đến những đối thủ đế quốc phương Tây. Ngày nay, nước này đã chuyển hóa hàng thế kỷ bất ổn về an ninh lục địa thành vị thế thống trị lục địa.
Mông Cổ giờ đây gửi phần lớn xuất khẩu than và khoáng sản sang Trung Quốc. Tuyến đường sắt Tavan Tolgoi–Gashuunsukhait, được khánh thành năm 2023 và được xây dựng theo tiêu chuẩn khổ đường ray của Trung Quốc – càng làm gia tăng sự phụ thuộc của Mông Cổ khi trao cho Bắc Kinh quyền kiểm soát về sản lượng và giá cả.
Trên khắp Trung Á, cơ sở hạ tầng do Trung Quốc xây dựng đã trở thành nền tảng cho các hành lang vận tải và năng lượng. Các đường ống dẫn khí đốt của CNPC đưa năng lượng về phía đông, các công nghệ thuộc Con đường Tơ lụa kỹ thuật số “nhúng” năng lực giám sát vào hệ thống quản trị, và nguồn vốn Trung Quốc chống đỡ phần lớn nợ của Kyrgyzstan và Tajikistan.
Sau những cuộc đụng độ như xung đột trên sông Ussuri năm 1969, Nga từng là “đàn anh” khi cung cấp vũ khí cho Trung Quốc yếu hơn. Song cán cân đó giờ đã đảo ngược. Kể từ Hiệp ước Láng giềng Hữu hảo năm 2001 và đặc biệt là sau khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 – Nga đã phụ thuộc rất nhiều vào thị trường, vốn và công nghệ của Trung Quốc. Cuộc xâm lược Ukraina năm 2022 đã siết chặt mối lệ thuộc này, khiến Moskva bị trói vào không gian ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Việt Nam, từng là đối thủ trên chiến trường và vẫn là bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, đã trở thành một “đối tác chiến lược toàn diện” của Trung Quốc. Thương mại song phương đạt mức kỷ lục 200 tỷ USD vào năm 2024, với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc tăng hơn 30% và thâm hụt của Việt Nam mở rộng tới 82,8 tỷ USD.
Ngay cả Ấn Độ, bất chấp các tranh chấp biên giới dai dẳng, cũng nhận thấy giá trị thực dụng mới trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải do Trung Quốc dẫn đầu, đặc biệt sau khi Hoa Kỳ áp đặt mức thuế trừng phạt 50% đối với các thương vụ New Delhi mua dầu của Nga đang chịu lệnh trừng phạt.
Dòng chảy ngược chiều ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Trên biển, dòng chảy lại vận động theo một quỹ đạo khác. Sebastian Strangio, trong cuốn “In the Dragon’s Shadow” (Dưới Bóng Rồng), đã nhận xét rằng các quốc gia ASEAN, với bề dày lịch sử và sự quen thuộc về văn hóa, đã học cách sống chung với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Mặc dù cán cân quyền lực nghiêng hẳn về phía Trung Quốc, nhưng không một quốc gia nào ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương sẽ tự nguyện chấp nhận một sự thống trị đơn cực, đặc biệt là một sự thống trị củng cố sự phụ thuộc bất đối xứng trên khắp lục địa.
Phản ứng tự nhiên của các quốc gia trong khu vực là tìm kiếm đối trọng bên ngoài. Và cho đến nay, chỉ có kiến trúc an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt – được neo giữ bởi các liên minh, hiện diện tiền phương và khả năng tác chiến hiệp đồng – mới tạo ra đối trọng đáng tin cậy.
Hệ quả là, việc Trung Quốc phô trương sức mạnh quân sự và vị thế thống trị lục địa lại vô tình tạo hiệu ứng ngược. Bốn chỉ dấu nổi bật minh họa cho nghịch lý này:
Thứ nhất, các thỏa thuận song phương và đa phương hẹp (minilateral) đã mở rộng đáng kể trong năm 2024. Theo Viện Lowy của Úc, Hoa Kỳ đã tiến hành hơn 60 cuộc tập trận quy mô lớn trong năm, từ Balikatan tại Philippines, Talisman Sabre ở Úc, đến Malabar với Ấn Độ và Nhật Bản.
Mức độ tin cậy của Hoa Kỳ cũng gia tăng: khảo sát Tình trạng Đông Nam Á năm 2025 của Viện ISEAS–Yusof Ishak cho thấy 52,3% người được hỏi ở ASEAN chọn Washington khi buộc phải đứng về một bên.
Thứ hai, những chuyển động quân sự của Trung Quốc làm gia tăng lo ngại trong khu vực. Năm 2024, Đài Loan ghi nhận hơn 3.600 lượt máy bay PLA xuất kích vào Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của họ, gấp đôi con số 1.727 lượt được ghi nhận năm 2023 và gần gấp ba so với 2019. Số lần vượt qua đường trung tuyến tăng vọt lên 3.070, so với 1.703 lượt hai năm trước.
Đầu năm 2025, máy bay PLA đã thực hiện trung bình 245 lượt xuất kích mỗi tháng, biến các hành vi vi phạm gần như hàng ngày trở thành trạng thái bình thường. Hải quân Philippines đã ghi nhận 10 vụ chạm trán với lực lượng Trung Quốc trong năm 2024, bao gồm hai vụ suýt va chạm.
Song song, Bắc Kinh củng cố quyền kiểm soát đối với 27 đảo nhân tạo ở Biển Đông, trang bị đường băng, radar và bệ phóng tên lửa – những động thái được nhìn nhận rộng rãi là nhằm cưỡng ép thay đổi nguyên trạng.
Thứ ba, các phản ứng tăng cường năng lực phòng thủ trong khu vực đã được đẩy nhanh. Nhật Bản thông qua ngân sách kỷ lục 46 tỷ USD năm 2024, đầu tư vào tên lửa phản công, tiêm kích F-35 và nâng cấp hệ thống phòng thủ Aegis. Úc dành khoảng 70 tỷ USD theo khuôn khổ AUKUS để đóng tàu ngầm hạt nhân và khinh hạm.
Philippines đã mở rộng quyền tiếp cận của quân đội Hoa Kỳ theo Thỏa thuận Tăng cường Hợp tác Quốc phòng (EDCA) từ 2 căn cứ lên 9, bao gồm các địa điểm gần Đài Loan và Biển Đông. Đài Loan đã tăng ngân sách quốc phòng thêm 14%, lên gần 19 tỷ USD, tập trung vào máy bay không người lái, thủy lôi và hệ thống tên lửa cơ động.
Thứ tư, ngay cả với ngân sách kỷ lục, phần lớn các quốc gia ven biển vẫn gắn bó với các nền tảng vũ khí không phải của Trung Quốc, ưu tiên khả năng tương tác trong kiến trúc an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt.
Trung Quốc là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ tư thế giới, chiếm khoảng 6% thị phần toàn cầu, nhưng thị trường gần như chỉ giới hạn ở Pakistan. Dù thống trị ngành đóng tàu thương mại toàn cầu – chiếm 55,7% sản lượng bàn giao, 74,1% đơn hàng mới và 63,1% sổ đặt hàng năm 2024 – năng lực này chưa được chuyển hóa thành doanh số quốc phòng tương xứng.
Tổng hợp các xu hướng trên cho thấy, nền công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc vẫn bị giới hạn, chưa thể chuyển sản lượng thành ảnh hưởng trên biển hoặc đòn bẩy chiến lược.
Thế giới trừ một
Cuộc duyệt binh của Bắc Kinh phô diễn thành tựu của nền công nghiệp quốc phòng và khẳng định ưu thế lục địa. Tuy nhiên, mỗi lần phô trương sức mạnh lại tiềm ẩn nguy cơ đẩy các láng giềng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ra xa hơn, vô tình củng cố vai trò không thể thay thế của Washington và làm giảm lợi ích địa – chính trị từ các khoản đầu tư khổng lồ của Bắc Kinh vào công nghiệp quốc phòng.
Trên hết, ý tưởng về một “thế giới trừ một” – được một số nhà phân tích và lãnh đạo đưa ra để đáp lại những động thái gần đây của chính quyền Trump – giờ đây phải được đánh giá dựa trên hồ sơ lục địa của Trung Quốc, nơi sự thống trị đã chứng tỏ là tốn kém cho những quốc gia bị cuốn vào sự phụ thuộc bất đối xứng.
Việc mở rộng mô hình này sang không gian hàng hải, nơi các láng giềng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng được kỳ vọng chấp nhận vai trò thượng tôn của Trung Quốc, sẽ tạo ra một trật tự cấu trúc không thể duy trì lâu dài.
Marcus Loh là Chủ tịch Nhóm Công tác Đối ngoại (Public Affairs Group) thuộc Hiệp hội Quan hệ Công chúng và Truyền thông Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (PRCA Asia Pacific). Ông cũng là Giám đốc tại Temus, một công ty dịch vụ chuyển đổi số có trụ sở tại Singapore, và đồng thời giữ vai trò thành viên Ban Chấp Hành Chương Chuyển đổi số trực thuộc SGTech, nơi ông đóng góp tích cực vào các thảo luận cấp quốc gia về trí tuệ nhân tạo (AI), hạ tầng dữ liệu và chính sách số. Trước đây, ông từng là Chủ tịch Viện Quan hệ Công chúng Singapore và đã có đóng góp lâu dài trong việc định hình vai trò của truyền thông chiến lược và công tác đối ngoại trong bối cảnh chính sách, công nghệ và địa kinh tế đang liên tục vận động và thay đổi. Hiện tại, Marcus Loh đang là học viên chương trình thạc sĩ (MA) tại Khoa Nghiên cứu Chiến tranh, King’s College London.
Lê Bá Nhật Thắng và Hoàng Việt Hải là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bài viết gốc ở đây.
Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Không có nhận xét nào