Quốc Kỳ, hay Hoàng Kỳ luôn là biểu trưng vĩ
đại cho đất nước, dân tộc hay một triều đại trị vì. Nghiên cứu về lịch sử thì
chúng ta không thể bỏ qua những lá Quốc Kỳ hay Hoàng Kỳ của Việt Nam mình. Bài
viết này sẽ giới thiệu với mọi người hình ảnh những lá cờ của Việt Nam từ suốt
các triều đại phong kiến cho đến ngày nay.
1. Hoàng Kỳ triều Trưng Vương (năm 40 - năm 43)
Theo sử sách ghi lại, dưới thời trị vì của các vị Vua Hùng cũng như của An
Dương Vương, đất nước chưa có chính thức tấm Hoàng Kỳ nào, có thể nói tấm Hoàng
Kỳ dưới đây của Hai Bà Trưng là Hoàng Kỳ đầu tiên của dân tộc ta.
Hai Bà đã lấy Hoàng Kỳ này làm biểu tượng cho đại quân của
mình đứng lên chống lại quân nhà Hán xâm lược và lấy lại quyền tự chủ cho đất
Giao Chỉ.
2. Cờ triều Ngô (năm 939 - năm 965)
Sau khi Hai Bà Trưng thất bại trước quân Hán và một lần nữa
bị đô hộ, rồi việc nhà Tiền Lý lên nắm quyền cai trị, sau đó là nội chiến giữa
nhà họ Dương ( Dương Đình Nghệ) và họ Kiều ( Kiều Công Tiễn) thì nước ta không
có lá Hoàng Kỳ nào đại diện cho đất nước. Chỉ đến khi Ngô Quyền (con rể của
Dương Đình Nghệ) đánh thành Đại La giết chết Kiều Công Tiễn trả thù cho cha vợ,
và đánh đuổi giặc ngoại xâm nhà Hán, tạo nên triều đại có quyền tự chủ thì một
lần nữa Hoàng Kỳ lại xuất hiện dưới thời nhà Ngô.
3. Cờ triều Đinh (năm 968 - năm 980)
Sau khi Ngô Vương mất, đất nước rơi vào cảnh loạn 12 sứ
quân. Lúc này Đinh Bộ Lĩnh đứng lên dẹp loạn và thống nhất đất nước. Lấy quốc
hiệu là Đại Cồ Việt, xưng hiệu là Đinh Tiên Hoàng.
4. Cờ triều Tiền Lê (năm 980 - năm 1009)
Nhà Tiền Lê là triều đại tiếp theo nối tiếp nhà Đinh sau khi
Đinh Tiên Hoàng qua đời. Quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt nhưng đã thay đổi Hoàng Kỳ.
5. Cờ triều Lý (năm 1010 - năm 1225)
6. Cờ triều Trần (năm 1225 - năm 1400)
7. Cờ triều Hậu Lê (năm 1427 - năm 1789)
8. Cờ chúa Trịnh (năm 1540 - năm 1788)
9. Cờ chúa Nguyễn (năm 1569 - năm 1776)
10. Cờ quân Tây Sơn
Khi đất nước bị chia cắt bởi giao tranh giữa Đàng Ngoài (vua
Lê - chúa Trịnh) và Đàng Trong (chúa Nguyễn), thì Quang Trung đã lãnh đạo nghĩa
quân Tây Sơn đứng lên khởi nghĩa. Anh hùng áo vải Quang Trung xuất thân từ nông
dân nên lấy cờ nền đỏ viền vàng (những cuộc khởi nghĩa nông dân thường lấy sắc
cờ đỏ, tím, nâu từ trang phục thường ngày)
11. Cờ triều đại Tây Sơn
Sau khi đăng quang Hoàng đế năm 1788, Quang Trung đặt thêm
ngôi sao vàng trên nền cờ gọi là Quang Trung Đế Kỳ. Trong ý niệm người Á Đông,
ngôi sao là một khối cầu với những cánh nhọn.
12. Cờ triều Nguyễn (năm 1802 - năm 1885)
Sau khi Quang Trung mất, Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống
nhất toàn bộ lãnh thổ và lấy tên nước là Việt Nam, đổi quốc kỳ sang lá cờ Long
Tinh Kỳ như ở trên.
13. Đại Nam Đế Kỳ (năm 1885 - năm 1890)
Ngay sau khi kiểm soát được nội trị Việt Nam, thực dân Pháp
gây sức ép buộc vua Đồng Khánh (đăng quan năm 1885) đổi Hoàng Kỳ, lá cờ Long
Tinh Kỳ trước đây bị phế bỏ vì nó được vua Hàm Nghi sử dụng làm biểu tượng
phong trào Cần Vương kháng Pháp). Lá cờ mới có tên Đại Nam Đế Kỳ, với nền vàng
và hai chứ Đại Nam màu đỏ nằm ngược chiều nhau.
14. Cờ Đại Nam Quốc Kỳ (năm 1890 - năm 1920)
Sau khi kế nhiệm vua Đồng Khánh năm 1889, vua Thành Thái ra
sức ủng hộ các phong trào chấn hưng đất nước (Minh Tân, Đông Du, Đông Kinh
Nghĩa Thục...) Vị hoàng đế có xu hướng cải cách này đã xóa bỏ lá cờ Đại Nam Đế
Kỳ cũ, thay bằng lá cờ Đại Nam Quốc Kỳ, nền vàng 3 sọc đỏ. Lá cờ này được xem
như "thủy tổ" của quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng màu đỏ nhạt hơn và
kích cỡ ba sọc đỏ rộng hơn.
15. Cờ Long Tinh Kỳ (năm 1920 - tháng 3 năm 1945)
Năm 1920, vua Khải Định đã thay cờ vàng 3 sọc đỏ của vua
Thành Thái để xoa dịu mâu thuẫn với chính phủ Pháp. Lá cờ vẫn sử dụng nền vàng,
dải màu đỏ ở giữa và có kích cỡ bằng 1/2 nền vàng.
16. Long Tinh Đế Kỳ (từ 11/03 đến 30/08 năm 1945)
Hoàng quân Nhật đảo chính, gạt mọi ảnh hưởng của Pháp lên
Đông Dương và tuyên bố trao trả quyền tự do cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm
1945, hoàng đế Bảo Đại đọc chiếu chỉ công bố nền độc lập của nước Việt Nam - quốc
hiệu là Việt Nam đế quốc, và sử dụng lá cờ Long Tinh Đế Kỳ.
17. Cờ quẻ Ly (từ 17/04/1945 đến 30/08/1945)
Ngày 17 tháng 4 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại ủy thác cho ngài
Trần Trọng Kim thành lập nội các và trở thành Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập. Quốc kỳ mới là lá cờ hình quẻ Ly.
18. Cờ Nam Kỳ Cộng Hòa (năm 1946 - năm 1948)
Sau khi quân đội Đế quốc Nhật Bản đầu hàng lực lượng Đồng
Minh, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống được tiếp quản bởi quân đội
Liên hiệp Anh. Sau đó, Anh đã nhượng lại quyền kiểm soát cho Pháp. Chính quyền
Pháp đã ra sức cổ súy một phong trào gọi là Nam Kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm
1946, Nam kỳ Cộng hòa quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) đã thành lập.
Từ ngày 1 tháng 6, quốc gia này dùng quốc kỳ nền vàng, với ba sọc xanh chen hai
sọc trắng vắt ngang ở giữa. Hình dạng lá cờ có ý nghĩa biểu trưng cho ba con
sông Đồng Nai, Tiền Giang và Hậu Giang trên đất Nam kỳ.
Lá cờ này chỉ tồn tại được hai năm do chính quyền Nam kỳ quốc giải thể và sáp
nhập vào Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu (ngày 2 tháng 6 năm
1948).
19. Cờ Việt Nam Cộng Hòa (năm 1949 - năm 1975)
Ngày 2 tháng 6 năm 1948, Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt
Nam của Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc
kỳ. Lá cờ vàng ba sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ dưới thời Quốc gia Việt
Nam (1949-1955), và sau đó là quốc kỳ cho suốt thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam
Cộng hòa (1955-1975).
Nhiều nguồn cho rằng cờ này do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ và đã
trình cho vua Bảo Đại chọn trong một phiên họp ở Hồng Kông năm 1947, với ý
nghĩa màu vàng và đỏ của lá cờ vì người Việt Nam "da vàng máu đỏ", và
ba sọc tượng trưng cho ba miền Bắc, Trung, Nam. Cờ có nền vàng với ba sọc đỏ và
hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho quẻ Càn trong Bát
Quái, màu vàng thuộc hành thổ và ở vị trí trung ương thể hiện cho chủ quyền quốc
gia, màu đỏ thuộc hành hỏa và chỉ phương Nam. Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng
này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của
lá cờ.
20. Cờ Mặt trận dân tộc giải phòng Miền Nam (năm 1969 - năm 1976)
Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập vào ngày
20 tháng 12 năm 1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động ở
miền Nam Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ trang, chống Mỹ và tiến
tới thống nhất đất nước, đã sử dụng hiệu kỳ cờ có nền gồm nửa trên màu đỏ, nửa
dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng.
Khi chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được thành lập năm
1969 để đối trọng với chính phủ Việt Nam Cộng hòa, hiệu kỳ này được dùng làm quốc
kỳ cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Nó được sử dụng đến khi sáp nhập hai nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
21. Cờ Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 1976 đến nay)
Quốc kỳ Việt Nam hiện nay được công nhận chính thức từ 1976,
là lá cờ đại diện cho nước Việt Nam thống nhất. Lá cờ có hình chữ nhật, chiều rộng
bằng 2/3 chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Ý nghĩa là cờ thể
hiện trong nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng
trưng cho dân tộc Việt Nam, và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp sĩ,
nông, công, thương, binh cùng đoàn kết.
Bài viết được thu thập tài liệu nhiều nguồn, biên soạn và phục
dựng lá cờ bởi Việt Nam Ký Sự.
https://vnkysu.blogspot.com/2017/01/quoc-ky-va-hoang-ky-viet-nam-qua-cac.html
Không có nhận xét nào