Header Ads

  • Breaking News

    Tại sao tôi buồn chuyện bão bên nhà?

    Ts. phạm Đình Bá

    "Cháu không nhớ gì về trận lũ. Cháu không biết mẹ cháu ở đâu. Mẹ cháu, bố cháu và các anh chị em cháu... tất cả đều đã chết trong trận lũ." Hoàng Ngọc Lan, sáu tuổi, hiện đang sống với bà ngoại ở Lào Cai, vì gia đình đã mất tích khi nhà cửa bị lũ lụt và lở đất trong bão Yagi.

    Bây giờ tuy ở xa, tôi vẫn đau lòng khi nghe những chuyện kể, với những câu nói như câu của bé Lan. Thay vì chỉ buồn mà thôi, tôi ráng nhìn lại những cơn bão lớn trong vòng 10 năm qua để xem mức độ thường xuyên, chết người và tác hại đến đời sống và tài sản bà con bên nhà. 

    Năm 2025, bão Wutip (bão số 1) vào tháng 6 gây mưa lớn phá kỷ lục lịch sử tại miền Trung, với lũ lụt nghiêm trọng. Đến tháng 8, bão Kajiki (bão số 5) với sức gió lên tới 133 km/h, gây ngập lụt trên diện rộng cũng ở miền Trung, làm thiệt hại hơn 6.800 ngôi nhà và 28.000 hecta lúa, với hệ thống hạ tầng bị ảnh hưởng nặng nề.

    Năm 2024, Siêu bão Yagi là cơn bão mạnh nhất trong vòng 70 năm qua. Bão vào Hải Phòng và Quảng Ninh, gây ra lũ lụt và sạt lở đất nghiêm trọng. Hơn 300 người chết hoặc mất tích. Hơn 230.000 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy. Thiệt hại kinh tế vượt mức 3,47 tỷ USD (84,5 nghìn tỷ đồng), biến đây thành một trong những thảm họa đắt giá nhất lịch sử Việt Nam.

    Năm 2020, bão Molave là cơn bão mạnh và gây nhiều thiệt hại tại khu vực miền Trung, với 130 người chết, 18 người mất tích và gần 300.000 ngôi nhà bị sập hoặc hư hại do nước lũ.

    Năm 2019, bão Wipha gây lũ nặng, làm chết 15 người, thiệt hại 48 triệu USD (1,18 nghìn tỷ đồng). Các cơn bão tiếp theo năm 2019 (Podul, Kajiki, Matmo, Nakri) cũng gây ra nhiều thiệt hại tại từng địa phương.

    Tháng 4/2019, bão Podul (bão số 4) thổi vào khu vực Bắc Trung Bộ, trọng điểm là Nghệ An, nhưng cũng ảnh hưởng đến các tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Hàng trăm nhà cửa bị hư hỏng. Một số nơi xuất hiện lũ quét, sạt lở đất, ước tính thiệt hại khoảng 2,35 triệu USD.

    Tháng 9/2019, bão Kajiki (bão số 5) thổi vào các tỉnh Bắc Trung Bộ đến Bắc Bộ, trọng tâm gây thiệt hại lớn tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Trị, Phú Thọ làm 3 người chết, 3 người mất tích, và 40 người bị thương. Hàng chục nghìn nhà bị hư hại, gần 4.000 nhà bị ngập. Bão gây thiệt hại tài sản hơn hơn 2.900 tỷ đồng. Rất nhiều trường học, cơ sở y tế, công trình công cộng, giao thông, đê điều bị hư hỏng.

    Tháng 10/2019, bão Matmo (bão số 5) thổi vào các tỉnh Nam Trung Bộ, đặc biệt là Bình Định, Phú Yên, làm 1 người mất tích, ít nhất 14 người bị thương ở Quảng Ngãi. Hơn 4.000 nhà bị hư hại. Nhiều tàu thuyền hư hại, cây đổ, mất điện diện rộng, hàng chục công trình giáo dục, y tế, giao thông bị thiệt hại, với ước tính thiệt hại gần 700 tỷ đồng.

    Tháng 11/2019, bão Nakri (bão số 6) thổi vào từ Quảng Ngãi đến Khánh Hòa, ảnh hưởng Nam Trung Bộ, làm 24 người chết, 13 người mất tích. Hàng trăm nhà cửa, công trình thủy lợi, giao thông bị hư hại, nhiều tàu thuyền bị chìm. Thiệt hại kinh tế khoảng 49,4 triệu USD.

    Năm 2018, bão Usagi (bão số 9) thổi vào khu vực Nam Bộ, chủ yếu tại Sài Gòn, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận. Ở Sài Gòn, mưa lớn kéo dài gây ngập nặng trên diện rộng. Có 3 người chết do ảnh hưởng của bão. Bão gây thiệt hại 925 tỷ đồng (khoảng 39,8 triệu USD). 

    Năm 2017, bão Doksuri gây ảnh hưởng đến nhiều tỉnh miền Trung với gió mạnh và lũ lụt. Bão gây thiệt hại ước tính khoảng 800 triệu USD (18 nghìn tỷ đồng), với hơn 200.000 nhà cửa bị hư hỏng hoặc phá hủy.

    Thế thì trong 10 năm qua, bà con mình chịu đựng hơn 11 cơn bão lớn, có năm mấy trận bão liên tục. Thế thì làm sao để chủ động và thao dượt phòng chống bão lụt và thiên tai để không có người thiệt mạng khi trời nổi cơn thịnh nộ?

    Tôi thử so sánh về mức độ chủ động trong chuẩn bị đối phó với thiên tai của ba quốc gia Đông Nam Á – Malaysia, Thái Lan và Việt Nam – dựa vào dữ liệu "Chỉ số Rủi ro Thiên tai Toàn cầu" (World Risk Index) năm 2024. 

    Malaysia nổi bật ở vị trí dẫn đầu về khả năng sẵn sàng ứng phó, với điểm số 14,5 thể hiện mức độ rủi ro thấp và khả năng phục hồi cao. Thái Lan theo sát với 21,7 điểm, còn Việt Nam xếp sau với 24,2 điểm, cho thấy mức độ dễ tổn thương cao hơn dù đã triển khai nhiều hệ thống quản lý thiên tai trên toàn quốc.[1]

    Malaysia gây ấn tượng mạnh nhờ việc thành lập Cơ quan Quản lý Thiên tai Quốc gia (NADMA) trực thuộc Văn phòng Thủ tướng sau đợt lũ lớn năm 2014. Cơ quan này tổ chức mạng lưới cảnh báo sớm đa tầng, các hệ thống ứng dụng thông minh cập nhật thời tiết liên tục, cũng như liên kết thông tin từ gần 200 trạm thủy văn trên toàn quốc. Ngoài ra, Malaysia còn xây dựng hệ thống thông tin khẩn cấp và điều phối đa cấp từ trung ương đến thôn bản, đảm bảo sự liên thông hiệu quả khi thảm họa xảy ra.

    Thái Lan cũng không kém phần chủ động khi xây dựng khung pháp lý phòng chống thiên tai từ năm 2007, hình thành nhóm quản lý thiên tai quốc gia do Thủ tướng đứng đầu. Đặc biệt, Thái Lan liên tục cập nhật các chiến lược như các kế hoạch giảm thiểu rủi ro, phục hồi bền vững và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, nước này vẫn gặp những thách thức về đồng bộ chính sách, hạn chế về nguồn lực tài chính và sự tham gia cộng đồng, dẫn đến những thiệt hại lớn trong các mùa lũ gần đây.

    Ở Việt Nam, hệ thống quản lý thiên tai ngày càng khá nhờ các cải cách thể chế và sự phối hợp giữa các bộ ngành. Đặc biệt, ứng phó với các cơn bão lớn như Wipha năm 2025 đã cho thấy một phần chủ động của nhà nước; các chiến lược “bốn tại chỗ” về chỉ huy, lực lượng, hậu cần và phương tiện đã giúp đất nước giảm nhẹ hậu quả và tăng tốc phục hồi sau thảm họa. Tuy nhiên, đất nước vẫn đối mặt với các hạn chế về thông tin rủi ro, khả năng cưỡng chế quy định và thiếu hụt nguồn lực sau thảm họa.

    Đáng chú ý, cả ba nước đều hưởng lợi từ hợp tác khu vực thông qua Hiệp định ASEAN về Quản lý và Ứng phó Thiên tai, thúc đẩy việc chia sẻ thông tin cảnh báo, đào tạo chung và phối hợp cứu trợ với các nước trong khu vực. Điều này không chỉ tăng năng lực ứng phó của từng quốc gia mà còn củng cố sức mạnh đoàn kết chống lại những hiểm họa ngày càng lớn do biến đổi khí hậu.

    Với hạn chế của nhà nước trong việc chủ động và thao dượt phòng chống thiên tai, bà con mình có thể chủ động để phòng chống bảo lụt như thế nào. Tôi tìm hiểu về các làng xã nhiều nơi để xem cách họ tự tổ chức để đem kiến thức tại chỗ thu thập qua nhiều năm vào việc chủ động phòng chống bão lụt.

    Buklod Tao là một tổ chức quần chúng tại Philippines, được thành lập vào năm 1996 tại Barangay Banaba, thành phố San Mateo, tỉnh Rizal. Mục tiêu chính của Buklod Tao là tăng cường khả năng ứng phó thiên tai và bảo vệ môi trường cho cộng đồng dân cư dễ bị tổn thương bởi lũ lụt và bão lớn, đặc biệt là những hộ nghèo sống ven sông Nangka và sông Marikina gần Metro Manila.

    Sau một buổi tập huấn cộng đồng, mọi người chủ động chia thành các nhóm: đội cứu hộ, đội hậu cần, và đội cảnh báo sớm. Họ họp lại để chuẩn bị từng chi tiết cho các tình huống khẩn cấp: gây quỹ cộng đồng để mua dây thừng, áo phao, đèn pin, thiết bị sơ cứu; tự chế tạo ba chiếc thuyền cứu hộ từ vật liệu có sẵn trong làng theo chỉ dẫn của một người thợ địa phương. Đặc biệt, nhóm còn chế tạo áo phao cho trẻ em bằng vật liệu tái chế như bao đựng nước ép, vừa tiết kiệm vừa linh hoạt khi phải di tản bất ngờ.

    Khi dự báo có bão lớn hoặc mưa cực đoan, đội cảnh báo sớm của Buklod Tao sử dụng hệ thống theo dõi mức nước sông (kết nối với cơ quan dự báo lũ thành phố Manila) để gọi loa và thông báo tới toàn thể dân làng. Họ phân công nhau hỗ trợ sơ tán, ưu tiên giúp đỡ người già, trẻ em, và người khuyết tật. Nhờ các phương án chuẩn bị này, khi có bão lớn tràn về, dù nhiều nhà cửa bị cuốn trôi, gần như toàn bộ dân làng đều thoát chết, bảo toàn được tính mạng và tài sản quan trọng.

    Những kinh nghiệm tổ chức này đã được Buklod Tao truyền lại cho nhiều cộng đồng xung quanh, lan tỏa mô hình tự tổ chức cứu hộ, chuẩn bị hậu cần và giáo dục phòng chống thiên tai từ chính người dân. Sâu thẳm trong mỗi thành viên của Buklod Tao là lòng đoàn kết, tương trợ lẫn nhau và quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau khi bão lũ ập đến.

    Qua việc nhìn lại bao mất mát đau thương trong suốt một thập kỷ, có thể thấy rằng bão lụt không chỉ là thử thách riêng của cá nhân hay một cộng đồng nhỏ mà là phép thử ý chí, sự đoàn kết và khả năng thích nghi của cả dân tộc. Dù nhà nước đã và đang nỗ lực nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, thực tiễn liên tiếp các trận bão lớn vẫn cho thấy rủi ro còn thường trực, và người dân không thể chỉ dựa vào chính quyền mà cần chủ động xây dựng sức mạnh nội tại của cộng đồng.

    Trong bối cảnh đó, bài học từ mô hình Buklod Tao ở Philippines càng làm rõ giá trị của tinh thần tự lực tự cường, ứng phó chủ động và đoàn kết làng xóm. Đã đến lúc mỗi xóm làng, tổ dân phố cần chung sức củng cố và nhân rộng các đội ứng phó cộng đồng, chia sẻ kiến thức, tổ chức luyện tập sát với điều kiện thực tế, và xây dựng mạng lưới hỗ trợ giữa những người dân thường. Vì tương lai an toàn của chính mình và thế hệ tiếp theo, sự chủ động hội nhập giữa kinh nghiệm bản địa và tinh thần tập thể sẽ là nền tảng giúp cả cộng đồng vượt qua tai ương thiên nhiên ngày càng dữ dội.

    Nguồn:

    https://worldpopulationrevie

    w.com/country-rankings/natural-disaster-risk-by-country 

    Không có nhận xét nào