Header Ads

  • Breaking News

    Trần Độ – Người thắp lửa tinh thần yêu nước trong thế hệ trẻ

    Tô Văn Trường

    15 Tháng Hai, 2025 

    A stone with text on it

AI-generated content may be incorrect.

    Sau khi tôi viết bài Nguyễn Hữu Đang – Một kiếp nhân sinh giữa thăng trầm lịch sử nhiều bạn đọc đã hỏi: “Sao anh không viết về danh tướng Trần Độ?” – một con người kiệt xuất, một nhà văn hóa, một danh tướng tài ba, cũng là người con của quê lúa Thái Bình.

    Tôi đã hai lần đến viếng mộ ông. Lần đầu, tôi cùng cậu em rể – một cựu quân nhân – và đứa cháu rong ruổi suốt một buổi mới tìm ra phần mộ của ông tại nghĩa trang Tiền Hải. Một nấm mồ giản dị, lặng lẽ giữa những hàng bia đá nhưng lại gợi lên bao nỗi niềm về một con người từng vào sinh ra tử, từng góp phần làm nên những trang sử oai hùng của dân tộc.

    Lần thứ hai, tôi đến viếng cùng anh Tạ Quyết Thắng – Chủ tịch họ Tạ Việt Nam. Đứng trước phần mộ vị danh tướng, tôi không khỏi xúc động khi nghĩ về cuộc đời đầy bi tráng của ông – một vị tướng tài ba, một người cầm bút sắc sảo, nhưng cũng là người đã chịu không ít oan khuất, ngay cả khi đã về cõi vĩnh hằng. Lịch sử luôn ghi công những bậc anh hùng, nhưng cũng có những con người mà số phận dường như trớ trêu, để lại trong lòng hậu thế biết bao suy tư và trăn trở…

    Những năm 60 của thế kỷ trước, khi tiếng bom Mỹ bắt đầu dội xuống miền Bắc và tin tức về việc Mỹ đưa quân vào miền Nam lan truyền khắp nơi, trong lòng mỗi thanh niên, học sinh chúng tôi khi ấy đều hừng hực khí thế lên đường nhập ngũ. Ở năm cuối bậc phổ thông – lớp 10, chúng tôi sống trong thời đại mà phương tiện truyền thông còn vô cùng hạn chế. Không truyền hình, không phát thanh rộng rãi, mà chỉ có hệ thống “truyền thanh” – những sợi dây điện nối dài, kéo âm thanh từ chiếc loa này sang chiếc loa khác, len lỏi qua từng ngõ nhỏ.

    Vậy mà, mỗi khi đến chương trình văn hóa – văn nghệ, đặc biệt là chuyên mục “Câu chuyện chủ nhật” hay “Kể chuyện đêm khuya”, cả xóm lại lặng đi, chăm chú lắng nghe. Những câu chuyện thấm đượm lòng yêu nước, về giải phóng miền Nam, về những trang sử hào hùng của dân tộc, đã gieo vào lòng chúng tôi niềm tự hào và khát khao cống hiến.

    Giữa những giọng kể cuốn hút ấy, cái tên “Trần Độ” hiện lên đầy ấn tượng. Khi ấy, chúng tôi chỉ biết ông là một nhà văn quân đội, với giọng văn sôi nổi, hào hùng, cách kể chuyện giản dị nhưng sâu sắc và hóm hỉnh. Những câu chuyện của ông không chỉ tái hiện sinh động cuộc cách mạng Tháng Tám hay những năm tháng kháng chiến chống Pháp, mà còn khơi dậy tinh thần yêu nước mãnh liệt trong thế hệ trẻ. Sau này, khi biết Trần Độ là người con của quê hương Thái Bình, đám học sinh chúng tôi càng thêm ngưỡng mộ và tự hào. Nhưng với chúng tôi lúc ấy, ông vẫn là một nhân vật xa vời – ở tận Hà Nội, ở Trung ương, hay ở một nơi nào đó ngoài tầm với.

    Giá mà bây giờ có ai tập hợp lại tất cả những bài viết, những mẩu chuyện của ông ngày ấy thành một tuyển tập, chắc chắn đó sẽ là một kho tư liệu quý giá, giúp thế hệ hôm nay cảm nhận được khí thế hào hùng, tình yêu quê hương đất nước mà Trần Độ đã truyền lửa cho biết bao người trẻ suốt những năm tháng đầy biến động ấy…

    Quê hương

    Năm 2012, lần đầu tiên tôi gặp nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo tại nhà họa sĩ Nguyễn Quốc Việt ở Thái Bình, tác giả của nhạc phẩm Khúc hát sông quê nổi tiếng.

    Thời kháng chiến, nhà thơ Giang Nam có bài thơ nổi tiếng với những câu thơ giản dị mà sâu sắc, thấm đẫm lòng người khi nói đến quê hương:

    Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm 

    Có những ngày trốn học bị đòn roi

    Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

    Có một phần xương thịt của em tôi

    Yêu quê hương, trước hết là hiểu lịch sử và văn hóa quê hương, đặc biệt các nhân vật đã đi vào huyền thoại của đất nước. Thái Bình là nơi phát tích của nhà Trần một trong những triều đại vẻ vang nhất của lịch sử Việt Nam. Thái Bình cũng tự hào về những tên tuổi lớn Lê Quý Đôn, Nguyễn Đức Cảnh. Quê hương tôi không có núi, nhưng có ngọn núi nào cao hơn “ngọn núi” – nhà bác học Lê Quý Đôn?

    Ngay trên một huyện ven biển của Thái Bình được lập lên do công trình lấn biển dưới sự chỉ huy của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ cũng đã có tên ba danh tướng thời hiện đại là Trần Độ, Hoàng Văn Thái và Đào Đình Luyện. Ngoài ra, Thái Bình còn có vị tướng tình báo nổi tiếng Vũ Ngọc Nhạ cố vấn ba đời Tổng thống chế độ Sài Gòn cũ.

    Trong một lần về thăm quê hương, tôi được nhà văn Võ Bá Cường tác giả cuốn sách Chuyện tướng Trần Độ (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2007), kể cho nghe những gian nan vất vả khi đi tìm sự thật. Dù được sự ủng hộ của các vị lão thành cách mạng như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, v.v. nhưng tác giả vẫn phải biết cách “lách”, không bình luận để đưa được cuốn sách ra mắt bạn đọc.

    Trần Độ tên thật là Tạ Ngọc Phách sinh ra ở xóm Bát Điếu, làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải (do Doanh điền Nguyễn Công Trứ khai khẩn từ 1828). Trần Độ tham gia cách mạng từ thuở thanh niên, trải nghiệm, thử thách giữ vững khí tiết của người dân yêu nước qua các nhà tù tàn khốc từ Thái Bình, qua Hỏa Lò đến Sơn La.

    Ông là một vị tướng nổi tiếng, tài kiêm văn võ, có nhiều công lao đi cùng dân tộc trong suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ông là ủy viên Trung ương Đảng nhiều khóa, là Phó Chủ tịch Quốc hội.

    Nhà văn Ma Văn Kháng nhận xét Trần Độ là người nhạy cảm với thời cuộc, tha thiết với yêu cầu “đổi mới” của Đảng để đưa đất nước tiến lên. Với văn nghệ, ông là người chủ trương định hướng rộng. Tiếc thay, ông sa vào cái mạng lưới “hạn chế” của thời cuộc, rơi vào tình thế lao lung hiểm nguy và cuối cùng bị xử trí oan ức.

    Bản lĩnh Trần Độ 

    Danh tướng ở nước ta có nhiều, nhưng là tướng tài, ‘văn – võ song toàn’ như tướng Trần Độ rất hiếm.

    Ông được người đời mến mộ bởi ‘tâm sáng, chí cao, bản lĩnh phi thường, lập trường kiên định’. Ở mặt trận xông xáo tác chiến, thắng giặc rồi vẫn bền chí trung kiên, sẵn sàng bút chiến. Những gì mà có hại đến uy tín của Đảng, có hại cho dân, bất lợi cho nước đều không nằm ngoài tầm kiểm soát và trăn trở của ông. Sự thẳng thắn, cương trực của ông đã làm cho những vị quan chức quyền uy, thích vuốt ve, khoái nịnh bợ khó chịu, thậm chí hằn học.

    Tuy ông đã đi xa, nhưng người dân đều thấy những điều ông nói, suy cảm, những đề xuất ích nước lợi dân nay vẫn còn mang đậm tính thời sự, và giá trị hiện thực. Tâm hồn, bản lĩnh, ý chí của ông như còn tươi nguyên.

    Ở cương vị thay mặt Đảng, lãnh đạo văn hóa, văn nghệ, ông có ý thức “cởi trói”. Ông nhận thức rằng văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp. Cần phải biết trọng dụng các tài năng, thuyết phục các tài năng do cá tính độc lập, và tài năng sáng tạo, họ không phải là những kẻ dễ chịu ngoan ngoãn, phục tùng.

    Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu: Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa. Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng”.

    Ông kêu gọi: “Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử, ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ “hiệp thương” mà thực chất là gò ép.

    Ngay từ năm 1974, sau khi đi tham quan ở Cộng hòa Dân chủ Đức và trải nghiệm thực tế của bản thân, Trung tướng Trần Độ viết bức thư tâm huyết yêu cầu đổi mới (14 trang) gửi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Lê Duẩn, Trường Chinh và Lê Đức Thọ.

    Nội dung chủ yếu, ông kiến nghị đưa ra khỏi Đảng những nhân vật lười biếng, mất phẩm chất, chỉ biết nói về Nghị quyết của Đảng như con vẹt, không có năng lực nhưng chiếm chỗ quan trọng, là đầu mối gây bất hòa trong Đảng. Ông kiến nghị cần tổ chức để đưa nông dân ra đồng làm việc một cách tự giác, để phát triển nông nghiệp. Đưa thanh niên học sinh đi học ở nước ngoài (không phải chỉ làm thuê) để có kiến thức về phục vụ xây dựng phát triển đất nước, v.v.

    Trần Độ có bốn câu thơ giãi bày tâm sự thật ngao ngán (và được một số tài liệu đăng lại khác nhau):

    Bản 1

    Những mơ xoá ác ở trên đời

    Ta phó thân ta với đất trời

    Ác xóa đi, thay bằng cực thiện

    Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi.

    Bản 2

    Những mơ xoá ác ở trên đời

    Ta phó thân ta với đất trời

    Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện

    Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.

    Chính vì các quan điểm nêu trên, ông bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Tiếng vỗ tay trong một đám tang

    Để tưởng nhớ công lao to lớn của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đối với sự phát triển kinh tế xã hội vùng tứ giác Long Xuyên, lãnh đạo và nhân dân địa phương quyết định đổi tên kênh Tuần Thống- T5 thành kênh Võ Văn Kiệt.

    Ở đầu kênh có tấm bia đá hoa cương khắc bài văn bia do Anh Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang) chấp bút. Khi được giao nhiệm vụ này, Anh Bẩy hiểu rõ “khôn văn tế, dại văn bia” nên đã lao tâm, khổ tứ, vắt óc chắt lọc từng con chữ từ trái tim thành kính, ngưỡng mộ vị Thủ tướng của nhân dân, để lại áng văn sâu sắc đi vào lòng người.

    Ngược lại với văn bia kể trên là “văn tế” trong đám tang của Trung tướng Trần Độ.

    Tôi được nghe trực tiếp nhà thơ Việt Phương nguyên thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể lại bài điếu văn của Trưởng ban tang lễ do ông Vũ Mão vừa mới đọc xong, đã bị con trai Trung tướng Trần Độ là Đại tá Tạ Toàn Thắng đáp từ, lịch sự khước từ không chấp nhận trong… tiếng vỗ tay đồng tình của những người đi viếng. Sự kiện hy hữu này, đã làm ông Vũ Mão mang tiếng để đời. Đại tá Tạ Toàn Thắng đã làm, chí ít bổn phận đạo hiếu làm con, là bênh vực lẽ phải cho cha mình!

    5 năm, sau ngày mất của tướng Trần Độ, ngày 1/8/2007 tại hội trường Ba Đình, ông Vũ Mão viết bức thư Nghị sỹ đóng vai nghệ sỹ bất đắc dĩ, thanh minh, dù không đồng tình nhưng vẫn phải chấp nhận phân công của tổ chức, đọc bài điếu văn “lại phải đọc cả thiếu sót khuyết điểm của người quá cố”. Ông biết, đó là điều tối kỵ chưa ai làm thế bao giờ nhưng vẫn phải làm (?).

    Nghĩa tử là nghĩa tận. Đạo hiếu người Việt không bao giờ cho phép lương tâm người sống “nói xấu” người đã khuất, khi mà người đó thực ra đã dám sống trung thực với tổ chức của mình. Trần Độ không phải người đầu tiên. Ông chỉ là “hậu bối” của các bậc tiền nhân tiên liệt nước Việt như Chu Văn An…

    Tiếng “vỗ tay” trong tang lễ là bài học đắt giá cho các vị chính khách chỉ biết nhìn vào “cái ghế” của mình nhân danh “ý thức tổ chức”, không dám hiểu thấu đáo công bằng của sự thật và tình nhân ái của con người. Lời sám hối muộn màng của ông Vũ Mão nhưng có, còn hơn không! 

    Những gì của Caesar trước sau cũng sẽ phải được trả cho Caesar

    Đánh giá về Trung tướng Trần Độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng viết (ngày 12/7/2006), nguyên văn như sau:

    Trần Độ là một thanh niên yêu nước, sớm giác ngộ và tham gia đấu tranh cách mạng, trở thành người cộng sản kiên cường. Vào quân đội, Trần Độ là cán bộ trẻ thuộc lớp cán bộ Trung đoàn, Đại đòan, Quân khu đầu tiên, trở thành vị tướng có đức có tài, đã có nhiều công lao trong hai cuôc kháng chiến vĩ đại chống đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

    Trong thời kỳ đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Trần Độ có nhiều suy tư trăn trở về con đường phát triển tiến lên của đất nước, về xây dựng Đảng, sống liêm khiết trung thực, luôn đoàn kết với đồng bào, đồng chí, đấu tranh chống biểu hiện tiêu cực tham nhũng, quan liêu mất dân chủ. 

    Trong tìm tòi nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Trần Độ manh dạn nêu ý kiến suy nghĩ cá nhân nhưng có lúc chưa tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc. Trung tướng Trần Độ là một con người yêu nước và cách mạng, suốt đời chiến đấu cho lý tưởng của Đảng, vì độc lập của dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.

    Chúng ta mãi mãi thương tiếc Trung tướng Trần Độ.

    Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (viết ngày 2/5/2007):

    Tôi biết nhiều về anh Trần Độ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả anh và tôi cùng ở Trung ương Cục miền Nam. Năm 1941 anh bị thực dân Pháp bắt kết án 15 năm tù đầy đi Sơn La. Năm 1944, anh vượt ngục về công tác ở Ban tuyên truyền Trung ương. 

    Anh Trần Độ cống hiến gần hết cuộc đời mình cho dân, cho nước suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trực tiếp chiến đấu và chỉ huy ở chiến trường trên cương vị Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam-Phó bí thư Quân ủy Miền (thời kỳ chống Mỹ). Đánh giá con người nói chung, sự cống hiến, một chặng đường dài trong đấu tranh cách mạng, ít ai không có vấp váp sai phạm ở mức độ khác nhau. Đó cũng là lẽ bình thường trong một chặng đường và cả cuộc đời.

    Đảng ta không chủ trương lấy công thay cho lỗi lầm, ngược lại cũng không vì lỗi lầm mà phủ định hết giá trị của sự cống hiến. Vấn đề ở đây phải hết sức công bằng, có sức thuyết phục cao.

    Hơn nữa, chúng ta cần xem xét thuộc quan điểm, chủ trương như trước đổi mới và đổi mới ban đầu và ở những chặng sau này. Có những cái ta cho là đúng trước đây, khi đổi mới và càng về sau càng thấy là nó sai hoặc trước đây là sai nghiệm trọng nhưng khi đổi mới lại là đúng như trường hợp đồng chí Kim Ngọc (Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú). 

    Ngay cả đổi mới lúc đầu với mức hiện nay cũng có nhiều mức khác biệt, ngay cả trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Lịch sử sẽ phán xét công minh nhưng trước tiên mỗi một cá nhân cũng phải sòng phẳng với lịch sử. Với tinh thần ấy, tôi tin việc xuất bản cuốn sách “Tướng Trần Độ” là việc làm kịp thời và rất có ý nghĩa

    Thay cho lời kết

    Giá trị của một con người không chỉ nằm ở những chiến công hay danh tiếng, mà còn ở dấu ấn mà họ để lại trong lòng thế hệ sau. Trần Độ không chỉ là một danh tướng tài ba mà còn là một nhà văn hóa, một người đã cống hiến cả cuộc đời cho lý tưởng và những điều ông tin là đúng. Dù cuộc đời ông trải qua nhiều thăng trầm, nhưng những gì ông để lại – từ những trang viết hào sảng đến tinh thần yêu nước kiên trung – vẫn mãi là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ.

    Đứng trước phần mộ giản dị của ông, tôi hiểu rằng có những con người dù đã đi xa nhưng tư tưởng và tinh thần của họ vẫn sống mãi. Có lẽ, một ngày nào đó, những câu chuyện, những bài viết của Trần Độ sẽ được tập hợp đầy đủ, để hậu thế có thể hiểu hơn về con người ông – một tâm hồn lớn, một vị tướng của lòng dân. Và quan trọng hơn cả, để những giá trị mà ông theo đuổi không bao giờ bị lãng quên…

    https://vanviet.info/van-de-hom-nay/tran-do-nguoi-thap-lua-tinh-than-yeu-nuoc-trong-the-he-tre/

    Trần Độ - người của sự thật (vài kỷ niệm vặt với Trần Độ) 

    Vũ Thư Hiên.

    08/12/2013

    Several books on a table

AI-generated content may be incorrect.

    Tôi ra tù cuối năm 1976. Bận bịu với đủ thứ việc để kiếm ăn, hai năm sau tôi mới có dịp gặp lại Trần Độ. Ra khỏi cuộc chiến, với tư cách phó chính uỷ kiêm phó bí thư quân uỷ Quân Giải phóng MNVN, nghe nói anh rất bận, nào tham gia viết quân sử, nào tổng kết kinh nghiệm chiến tranh… Trong bữa rượu đạm bạc chỉ có ba người, ngoài hai chúng tôi còn có một chị cán bộ trẻ, tên Oanh thì phải. 

    Trần Độ có biết tôi vừa ở tù ra. Anh nhìn tôi thương hại, bảo:

    - Chú có làm gì sai thì Đảng mới bắt chú chứ.

    Tôi sững người. Vậy ra anh chẳng biết gì về vụ án nhóm "xét lại chống đảng" mà tôi bị người ta đính vào sao? Cái nhóm này không phải một tổ chức, chẳng phải một đảng, thậm chí cũng chẳng phải một nhóm, nhưng được người ta bịa ra, đặt tên rất kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”. Kỳ thật, một vụ án ầm ĩ như thế, nhiều cán bộ cao cấp bị khai trừ, bị bắt, bị bỏ tù, trong Đảng có báo cáo, rất nhiều người biết, mà anh lại không biết. Mà không phải mình anh không biết. Hơn chục năm sau (1988), khi tờ “Truyền thống Kháng chiến” của “Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” ra đời ở Sài Gòn, tướng Trần Văn Trà kêu tôi tới nhà anh ở đường Nguyễn Thị Minh Khai (tên mới của đường Pasteur) để bàn chuyện tờ báo, tôi mới hiểu - thậm chí cả tướng Trần Văn Trà cũng chẳng biết gì về vụ này. “Hồi đó tôi đang lo đường vận chuyển vũ khí trên biến. – Trần Văn Trà nói - Có, tôi có nhận được một thông tin từ Ban tổ chức Trung ương, rất sơ sài. Chúng tôi bận tối tăm mặt mũi, chẳng ai để ý”. 

    Khiếp thật. Thì ra ngay ở trong Đảng người ta cũng chia ra nhiều cấp, nhiều đối tượng trong việc nhận hoặc không cần được nhận thông tin. Tôi dùng chữ Đảng viết hoa ở đây để chỉ cái đảng độc tôn, cho tiện, chứ không phải với ý khác.

    Tôi cười buồn, nói với Trần Độ:

    - Em có nói gì bây giờ anh cũng sẽ nghĩ là em thanh minh. Tốt hơn hết là ta cạn với nhau chén rượu này, kèm một giao ước: “Anh sẽ xem xét sự việc bằng con mắt của mình, để rồi có kết luận”. Em chờ câu trả lời của anh trong bữa rượu sau. Anh hứa chứ?

    Anh gật đầu, cạn chén.

    Trần Độ hơn tôi đúng 10 tuổi. Tôi coi mình là đứa em của anh, không dám lắm lời. Rồi gần một năm sau mới có bữa rượu thứ hai. 

    - Em lắng nghe câu trả lời của anh. – tôi nói.

    Anh lắc đầu, thở dài:

    - Một lũ chó má! Không thể ngờ.

    Nhiều thời gian trôi qua với rất nhiều sự kiện: anh chuyển qua công tác Đảng và công tác dân sự: Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Phó Chủ tịch Quốc Hội, anh hoạt động tích cực trong những chức trách được Đảng giao phó, sau đó những tiếng xì xào trong nội bộ Đảng về những hành xử không đúng đường lối, không có đảng tính của anh (xúi giục tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tháo gỡ việc ngăn sông cấm chợ, toa rập với Nguyên Ngọc đưa ra bản “Đề dẫn” về văn nghệ sặc mùi chống Đảng vv…).

    Cũng vào thời gian đó, tôi biết anh khuyến khích nhiều người làm công việc tìm về cội nguồn các dòng họ. Chẳng bao lâu sau, tôi được một anh bạn ở Bộ Nội vụ cho tôi đọc một chỉ thị của bộ anh: “Bọn phản động đang dùng kế sách tìm về cội nguồn (nhận họ, họp họ) để hạ thấp vai trò của Đảng. Phải ngăn chặn việc này”. Anh Hoàng Minh Chính bình: “Hay! Trong các cuộc họp họ, anh bí thư Đảng vốn được coi là cao hơn hết trong mọi vai vế xã hội, thì nay có thể bị ông trưởng tộc quát: “Anh ra ngồi kia, đây là họp họ, không phải họp đảng hay chính quyền”! 

    Văn Cao là người rất chăm chú theo dõi thời cuộc, nói: “Trần Độ thẳng quá, hỏng! Cao Biền dậy non, phí”! 

    Tôi đồng ý với Văn Cao. Trần Độ được phong trung tướng cùng lúc với Lê Đức Anh, nhân vật sau này làm mưa làm gió trong chính trựờng, nếu biết xuôi dòng anh rất có thể sẽ lên cao nữa trong hệ thống quyền lực. 

    Nhưng không ai có thể can ngăn Trần Độ. Anh không phải là nhà chính trị biết lui tới, biết náu mình chờ thời. Anh hành xử như một người thẳng thắn, chỉ biết một mực đấu tranh cho chân lý. Những phát biểu của anh lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ, luôn làm chối tai người cầm quyền. Mà có phải anh chỉ phê bình sơ sơ chế độ toàn trị, từ chỗ nhỏ nhẹ, anh dần dần nói trắng ra ý muốn thay thế nó bằng chế độ dân chủ, tam quyền phân lập… Người ta theo dõi anh từng bước, nên những lời nói của anh, dù trong chỗ thân tình, đều được thu thập, báo cáo lên “trên”. 

    Còn nhớ năm 1997 tôi ở thành phố Strassbourg, chung nhà với Nguyễn Chí Thiện. Một hôm, Trần Độ gửi cho tôi bài viết mới của anh, bảo tôi xem lại trước khi công bố. Tôi đưa anh Thiện cùng đọc. Thiện đọc, nói anh bất bình với một số câu chữ trong đó. Khi nói chuyện điện thoại với Trần Độ, tôi đưa ống nói cho Thiện, bảo nhà thơ cứ nói thẳng ý kiến của mình. Thiện bỗ bã: “Không hiểu sao anh vẫn còn có thể dùng những từ “giải phóng”, “Mỹ-nguỵ” trong bài viết, người đọc ở hải ngoại sẽ khó chịu, không hay chút nào”. Anh Độ cười hề hề: “Chết chửa, mình lỡ viết theo cách nói quen đấy, cậu đúng, sửa lại hộ mình nhá. Xem ra thói quen thật nguy hiểm, là một cái tật cần phải đấu tranh để loại bỏ”. 

    Chuyện Trần Độ bị khai trừ Đảng năm 1999 thì ai cũng đã biết. Đảng cộng sản vốn không thích vạch áo cho người xem lưng cũng đã kiên nhẫn lắm với Trần Độ. Lẽ ra người ta phải khai trừ anh từ lâu. 

    Một lần khác, ở Frankfurt am Main (CHLB Đức), trong cuộc trò chuyện điện thoại với Trần Độ vào năm 2001, có mặt một chú em rất hâm mộ bác Độ, chú này đòi được nói với bác vài câu: “Bác ơi, cái đảng của bác kỳ quá, ai lại chống tham nhũng mà lại chống từ cấp cơ sở? Quét nhà thì người ta phải quét từ tầng trên xuống tầng dưới chứ!”. Anh Độ cười lớn:”Hay, cậu nói rất hay. Chỉ sai một chút thôi, cái đảng ấy không phải của tôi. Cậu tên gì ấy nhỉ?”, “Dạ, cháu tên Cóc, Nguyễn Văn Cóc. Dễ nhớ lắm, bác ạ. Ở Đức này chỉ có mình cháu có cái tên xấu xí ấy thôi”. Anh Độ lại cười: “Xấu gì mà xấu, cậu ông Giời phán đúng lắm, cái đảng ấy toàn làm lộn ngược thôi!”. 

    Anh nói anh bị đảng của anh khai trừ là may. Như thế, anh được rũ khỏi trách nhiệm “trước những vũng bùn mà cái đảng ấy đang chui vào một cách được gọi là sáng tạo”. Khai trừ anh ĐCS thêm một lần phô trương cái hẹp hòi của mình, không chịu nghe bất kỳ lời nói ngược nào. Hành hạ anh cho tới khi chết, cấm người đi đưa tang không được dùng chữ “Vô cùng thương tiếc”, ĐCS lại càng cho thiên hạ thấy nó tiểu nhân tới mức nào trong sự hằn thù.

    Đảng của anh khai trừ anh, bù lại anh được nhân dân đón anh vào lòng. Anh bị nhà cầm quyền căm ghét, bù lại anh được tình yêu thương của đồng bào. Anh được rất nhiều, mà không mất gì, nói cách khác, cái người ta cho là mất chẳng đáng gì với anh. 
    Khi lâm bệnh, anh không cần dùng đến thuốc của nhà nước mà anh ngờ vực, đã có đồng bào gửi thuốc cho anh. Trong những người lo lắng cho anh tôi muốn kể hai người rất sốt sắng lo cho anh tới ngày cuối cùng là Tưởng Năng Tiến và Đinh Quang Anh Thái. Trong những bức thư hiếm hoi gửi cho tôi, anh không bao giờ quên nhắn tôi gửi lời cảm ơn hai bạn mà anh không biết mặt. 
    Được tin anh mất, tôi không khóc nổi. Nước mắt chảy ngược vào tim. Tôi cảm được rằng mất mát này lớn hơn rất nhiều mất mát cho riêng tôi, đứa em yêu mến và kính trọng anh. Mất mát này là của cả dân tộc đang nhọc nhằn, vất vả đi tìm quyền sống, quyền làm người.

    Trong bức thư cuối cùng Trần Độ gửi cho tôi trước khi mất, anh dặn: “Giai đoạn chuẩn bị cho sự chuyển đổi chế độ có thể kéo dài. Việc hàng ngày của ta, không được quên, là nâng cao dân trí. Dân trí được nâng cao bao nhiêu thì sự chuyển đổi sẽ thuận lợi bấy nhiêu. Thời cơ đến, việc mới thành. Chuẩn bị tốt thì thành tốt”. 

    Thời cơ mà ta chờ đợi sẽ đến, bao giờ cũng bất ngờ, nhưng vẫn là quy luật. Như nó đã từng xảy ra cùng với sự kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa lại nền độc lập cho các nước thuộc địa. Như nó đã đến với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.

    Nguồn Facebook Vũ Thư Hiên

    “Chuyện tướng Độ” và tuyển tập Trần Độ

    Nguyễn Trọng Tạo11:19 SA @ Thứ Sáu - 24 Tháng Hai, 2012

    Tướng Trần Độ (1923-2002) là một “công thần” của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chức vụ cuối cùng của ông là Ủy viên TW Đảng CSVN kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCNVN. Ông bị khai trừ khỏi Đảng vì bất đồng chính kiến. Trong lễ tang của ông bất ngờ có tràng pháo tay bất bình trước bài điếu văn có lời lẽ phê bình ông.

    Trần Độ là một nhà cách mạng, một vị tướng dũng, một chính khách và là một nghệ sĩ. Ông luôn có ý thức cấp tiến, tiên phong trong công cuộc đổi mới đất nước. Từ năm 1974, từ Đức ông đã có lá thư gửi về cho TW Đảng, phát hiện về sự nhầm lẫn khái niệm trong lý luận của Stalinvà dự báo những hậu quả của nó, ông hiến những giải pháp, ông không hề né tránh cả những điều mà ngày ấy nói ra rất khó nghe, chấp nhận gặp nguy hiểm. Giải pháp đáng chú ý nhất là ông đề nghị mời những nước có nền kinh tế phát triển vào trong nước hợp tác đầu tư, không kể đó là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Ông cũng là người chủ trì soạn thảo nghị quyết 05 của BCT về Văn hóa Văn nghệ mở đường cho VHNTVN thời “đổi mới”.

    Tháng 2.2012, bộ sách TRẦN ĐỘ TÁC PHẨM gồm 3 tập đã được NXB Hội Nhà Văn ấn hành, ghi nhận những đóng góp của ông cho đất nước.

    Năm 2007, NXB Quân Đội Nhân Dân xuất bản cuốn truyện CHUYỆN TƯỚNG ĐỘ (tập 1) của nhà văn Võ Bá Cường dày 318 trang. Theo nhà văn Võ Bá Cường thì tập 2 đã viết xong ngay sau đó nhưng đến nay vẫn chưa được xuất bản.

    Dưới đây là bài viết của nhà văn Lê Hoài Nam về cuốn TƯỚNG ĐỘ.

    Nhà văn Võ Bá Cường và ‘Chuyện tướng Độ’

    Lê Hoài Nam


    A white and black cover with red letters

AI-generated content may be incorrect.






    Tôi đọc liền mạch Chuyện tướng Độ; cảm nhận nhà văn Võ Bá Cường đã rất hợp lý khi chọn thể loại truyện ký, chọn cách kể thật thà, giản dị như ngầm mách bảo với người đọc rằng: Đấy, chuyện cuộc đời của ông tướng Độ nó như thế đấy. Tôi biết thế nào thì tôi kể cho các bạn như vậy. Bạn nghĩ sao, tùy bạn!

    Để viết được cuốn sách, trước hết phải kể cái lợi thế là tác giả cùng quê Thái Bình với tướng Độ. Thứ nữa, tác giả có một đặc điểm trong tính cách là ông sống rất quảng giao. Nhờ quảng giao mà Võ Bá Cường tiếp cận được với tướng Độ ngay từ khi tướng quân còn sống, còn khỏe.

    Một lần Võ Bá Cường còn kéo được cùng một lúc ba nhân vật cỡ trung ương quê gốc Thái Bình là tướng Độ, Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Đức Tâm về ngôi nhà của ông ở huyện Đông Hưng, trải chiếu giữa sân đàm đạo chuyện đời, chuyện văn chương.

    Nhờ quảng giao mà Võ Bá Cường có trong tay cuốn hồi ký của tướng Độ ngay sau khi nó vừa ráo mực. Cuốn hồi ký này là nguồn tư liệu chính để tác giả khai thác. Tiếp nữa, phải kể đến cái máu nghề nghiệp.

    Máu nghề nghiệp đã giúp Võ Bá Cường vượt qua rất nhiều định kiến, rào cản để tiếp cận với những nhân vật lớn như Võ Nguyên Giáp, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt… và những nhân vật “không lớn” nhưng có mối quan hệ gần gũi với tướng Độ, như ông Nghiêm Hà, thư ký riêng của tướng Độ từ thuở ở chiến trường miền đông nam bộ cho đến khi tướng quân về hưu.

    Bác sĩ Đỗ Văn Thiên, người có nhiệm vụ trông nom sức khỏe tướng quân cho đến tận lúc tướng quân mất. Rồi những người thân yêu, ruột thịt như bà Nguyễn Thị Phúc Hằng (vợ tướng Độ), bà Tạ Thị Xuyến (em gái tướng Độ), Đại tá quân đội Trần Toàn Thắng (con trai cả tướng Độ)… là những tư liệu sống giúp nhà văn viết tác phẩm.

    Là một công chức về hưu, với đồng lương khiêm tốn, để có được hàng chục chuyến đi “mò” tài liệu ở Hà Nội, không ít lần Võ Bá Cường đã phải gõ cửa các cơ quan công quyền ở Thái Bình. Tuy cũng có những người nghi ngại, nhưng cũng không thiếu những người vì nghĩa mà vượt lên tất cả, ủng hộ tinh thần và cả tiền bạc, phương tiện cho nhà văn.

    Ông Đặng Khiêu, Giám đốc Sở Lao động – TBXH Thái Bình, khi biết tin Võ Bá Cường viết sách về tướng Độ đã lấy xe con đưa tác giả vào tận nghĩa trang Trường Sơn thắp nhang khấn vong linh các liệt sĩ hãy vì lòng yêu mến và kính trọng tướng Độ mà phù hộ cho công việc của nhà văn thông dòng bén giọt.

    Tuy thế, cũng không ít lần Võ Bá Cường bị rơi và hoàn cảnh rất chi là… hoàn cảnh! Chẳng hạn cái hôm lang thang ở Sài Gòn, sờ túi thì đã rỗng. Sực nhớ số điện thoại của bạn văn Nguyễn Khoa Đăng, liền gọi cầu cứu. Nguyễn Khoa Đăng không dư dả tiền bạc, liền lấy sổ tiết kiệm của vợ rút bớt một ít tặng bạn.

    Để tránh những xoi mói, nghi kỵ, Võ Bá Cường còn phải nhờ vả đến những quan chức có thế lực cùng quê Thái Bình mà ông rất lấy làm hãnh diện và tin cậy như Nguyễn Ngọc Trìu, Hà MạnhTrí…

    Cuối cùng thì 318 trang sách đã được ông viết xong. Chân dung tướng Độ hiện lên qua xâu chuỗi những chuyện kể, với thời lượng từ lúc tướng Độ chào đời cho đến năm cuối áp chót của cuộc chiến tranh chống Mỹ, năm 1974.

    Ngần ấy trang sách, Võ Bá Cường đã cung cấp cho bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời một vị tướng tài ba, nhiều công trạng, có cá tính, thuộc dạng “công thần” của cách mạng Việt Nam: 16 tuổi, Trần Độ đã đi hoạt động; 17 tuổi toan tính làm chuyện “tầy đình”, không may bị địch bắt. Bị tống giam hết nhà lao Thái Bình đến Hỏa Lò, rồi lại đưa lên nhà tù Sơn La.

    Qua các nhà tù này, Trần Độ có dịp tiếp xúc với nhiều nhân vật cách mạng lớn, trở thành bạn tù với các ông: Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt , Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân, Tô Hiệu… Trần Độ từng nếm trải những đòn tra tấn, có lẽ nó thuộc dạng man rợ độc nhất vô nhị trên hành tinh này…

    Khi được tổ chức bố trí vượt ngục, Trần Độ được quyền lựa chọn một trong hai cương vị: Bí thư Tỉnh ủy Phúc Yên hoặc Phó chính ủy khu II. Không một chút đắn đo, ông chọn con đường thứ hai: Cầm súng!


    A person standing next to another person

AI-generated content may be incorrect.






    Bức ảnh với bút tích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Vậy rồi, người sĩ quan cao cấp ấy đã có mặt chỉ huy hầu hết các mặt trận trọng yếu, các chiến dịch mang tính thành bại của cách mạng: Chiến dịch “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” ở thủ đô, mặt trận Đông Khê, chiến dịch Điện Biên Phủ ở Tây Bắc.

    Những năm tháng này Trần Độ có dịp gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh, sát cánh kề vai cùng những tướng lĩnh cao cấp nhất trong quân đội: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Cầm, Tạ Xuân Thu, Văn Phác, Mai Chí Thọ…

    Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Sau cuộc chiến, công việc xây dựng và củng cố lực lượng quân đội bộn bề, ngoảnh lại, loáng cái đã 10 năm. Trần Độ chưa làm được việc gì đáng kể cho vợ con thì lại có lệnh đi B, vào tận miền đông Nam bộ, nơi có cơ quan trung ương Cục miền Nam.

    Ở đây tướng Độ lại có dịp kề vai sát cánh, ăn cùng mâm bát với những cán bộ cao cấp, những tướng lĩnh sáng danh: Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Thị Định, Lê Trọng Tấn,Hoàng Cầm, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Thái, Lê Đức Anh, Văn Phác…

    Vai trò của tướng Độ ở trung ương Cục miền nam là không hề nhỏ. Chả thế mà đã có lúc thất bại nặng nề, quân đội đối phương phải tung tin trên đài phát thanh Sài Gòn rằng tướng Độ đã tử trận! Chúng còn làm giả hình ảnh thi thể tướng Độ nằm chờ khâm liệm in trên báo nhằm trấn an tinh thần binh lính.

    Đấy là hình tượng tướng Độ với cương vị Chính ủy mà cuốn sách của nhà văn Võ Bá Cường cung cấp cho bạn đọc.

    Cái thông điệp thứ hai không kém phần quan trọng mà cuốn sách giúp bạn đọc nhận biết, đó là Tướng Độ, một nhà nhân văn tầm cỡ!

    Vốn có tư chất thông minh, lại được sinh ra trong một gia đình có giáo dục, Trần Độ sớm có điều kiện tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Lỗ Tấn, Tào Ngu, Liép Tônxtôi, Vichto Huygô không hề xa lạ với ông. Cho nên khi quân đội lập tờ báo đầu tiên là Vệ quốc đoàn (tiền thân của báo Quân đội nhân dân sau này) thì người được phân công phụ trách, không ai khác là Trần Độ.

    Rồi việc sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam cũng không thể thiếu vai trò của ông. Với những tác phẩm, bài viết (thời ở trong Nam lấy bút danh là Cửu Long) đã chứng tỏ Trần Độ là một cây bút văn xuôi chính luận sáng giá. Trần Độ có quan hệ thân thiết với nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của nước nhà. Không ít người coi Trần Độ là một người anh lớn.

    Những trang Võ Bá Cường mô tả Trần Độ sống ấm áp với cấp trên, vị tha với cấp dưới, yêu thương săn sóc cả con ngựa chiến của mình… chứng tỏ trong tâm hồn ông mang những giá trị nhân bản. Những dòng mô tả chuyện đổi tên của Trần Độ cũng rất đáng chú ý. Họ tên đầy đủ của ông là Tạ Ngọc Phách.

    Thời kỳ hoạt động bí mật, bán công khai, tổ chức đặt tên cho ông là Độ. Khi ông đến một nơi nhận công tác mới, thấy ông xưng tên như thế thì một đồng chí bảo, nếu tên là Độ thì lấy họ Trần nghe thuận tai hơn. Thế là ông gật, lấy họ Trần. Cái tên Trần Độ có từ đó. Ông thật thà và hay thể tất đến thế, “nghệ sĩ” đến thế nên được sống bên ông, ai ai cũng yên tâm.

    Năm 1974, sau chín năm chỉ huy chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Trần Độ ra Bắc nhận quân hàm trung tướng (sau 16 năm đeo hàm thiếu tướng), việc đầu tiên cần làm là ông đi thăm hỏi nhân dân xem ở cái nôi xã hội chủ nghĩa miền Bắc họ sống ra sao.

    Cùng thời điểm ấy ông được sang thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Ông đã nhận ra rất nhiều điều chưa ổn và không ổn trong nguyên lý cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

    Thế là ông viết một lá thư mà ông gọi là Thư tâm huyết, dài 14 trang, trình bày tất cả những gì ông thấy, ông nghĩ, ông muốn về xây dựng chủ nghĩa xã hội, gửi tới ba lãnh tụ đảng cộng sản: Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ.

    Tướng Độ vốn vẫn coi ba người lãnh tụ này như ba người anh lớn của ông nên giọng văn viết thư là cái giọng mềm mại, nhưng ông lại không hề né tránh cả những điều mà ngày ấy nói ra rất khó nghe, thậm chí gặp nguy hiểm.

    Chẳng hạn ông nói về những nguy cơ làm suy yếu, làm biến chất đảng; những bất cập trong quản lý của chính quyền nhà nước; sự rỗng không của cái gọi là cơ sở kinh tế chủ nghĩa xã hội; rồi tệ sính thành tích, nói và làm không đi đôi với nhau. Ông còn phát hiện một sự nhầm lẫn khái niệm trong lý luận của Stalin và dự báo những hậu quả của nó. Rồi ông kiến nghị, hiến những giải pháp.

    Giải pháp đáng chú ý nhất là ông đề nghị mời những nước có nền kinh tế phát triển vào trong nước hợp tác đầu tư, không kể đó là nước XHCN hay TBCN… bây giờ thì chúng ta đang làm đúng như lời “điều trần” của ông từ năm 1974!

    Nhà văn Võ Bá Cường đã công bố nguyên vẹn bức thư ấy ở phần cuối cuốn sách của ông. Chính bức tâm thư của tướng Độ đã giải tỏa bớt cái không khí tương đối tĩnh lặng, bằng phẳng, đều đều trong lối viết cổ điển của Võ Bá Cường.

    Bức tâm thư ấy có lửa. Nó làm cho phần cuối cuốn sách sinh động hẳn lên. Nó hé mở cho bạn đọc biết chờ đợi phần tiếp theo của cuốn sách.

    Nếu như có tập hai, tôi tin nhà văn Võ Bá Cường sẽ viết về đoạn đời còn lại của tướng Độ, một đoạn đời đầy giông bão. Cái đoạn đời từ lúc ông cởi bỏ quân phục, sang làm trưởng ban Văn hóa – văn nghệ trung ương cho đến phút ông trút hơi thở cuối cùng, trở về với cát bụi.

    “Chuyện tướng Độ” và tuyển tập Trần Độ :: Suy ngẫm & Tự vấn :: ChúngTa.com

    Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

    Tiểu sử Trần Độ

    Ngày 23/9/1923

    Ông Trần Độ, tên thật là Tạ Ngọc Phách sinh ra tại làng Thư Điền, tổng An Bồi, huyện Trực Định (nay thuộc xã Tây Giang, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Cha ông làm thông phán tại Phủ Thống sứ tại Hà Nội, mẹ ông làm ruộng tại quê nhà.

    Năm 1930

    Ông được đi học tại trường tiểu học Đông Hướng (thuộc Trình Phố, nay là xã An Ninh, huyện Tiền Hải, Thái Bình), rồi qua sơ học yếu lược Tiền Hải (xã Ngoại Đê), thi đỗ Thành chung ở Thái Bình.

    Năm 1938 - 1939

    Ông vào học thành chung ở trường Duvillier (Hàng Đẫy), phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội. Thời gian này, ông tiếp xúc với các ông Đào Duy Kỳ, Thành Ngọc Quản, Nguyễn Thượng Khanh (tức Trần Mai Ninh) ở báo “Thế giới mới”. Đến hè năm 1939, ông tham gia làm báo “Người mới” của ông Trần Mai Ninh. Tháng 7/1939, ông bị mật thám Pháp bắt giam và đe doạ khủng bố. Sau khi được thả, ông bỏ học, về quê. Từ đây ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, được tổ chức Cộng sản giao nhiệm vụ tập hợp thanh niên vào tổ chức Thanh niên Phản đế ở xã rồi ở phủ Kiến Xương.

    Năm 1940 - 1941

    Đầu năm 1940, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ở chi bộ Bát Điếu – Thư Điền. Trong cuộc mít tinh ở cánh đồng Đông Lang vào tối 11/10/1940, ông tham gia diễn thuyết vận động nhân dân ủng hộ cách mạng. Tháng 01/1941, ông được công nhận là Đảng viên chính thức - đặc cách và trong Đại hội Đảng tỉnh Thái Bình, ông được bầu là tỉnh uỷ viên dự khuyết, phụ trách Bí thư Tỉnh đoàn Thanh niên, Bí thư phủ uỷ Kiến Xương. Cuối năm 1941, ông bị thực dân Pháp bắt, giam ở Thái Bình và bị kết án ông 15 năm tù khổ sai, giam ở nhà tù Hoả Lò, Hà Nội.

    Năm 1942 – 1945

    Đầu năm 1942, ông bị đày đi nhà tù Sơn La. Đến đầu năm 1943, ông được kết nạp lại vào Đảng trong tù, ông tham gia làm báo “Suối reo”. Cuối năm 1943, ông trốn thoát trên đường về Hà Nội để đi Côn Đảo, trở lại hoạt động cách mạng. Lúc đầu, ông được giao làm công tác tuyên truyền của Trung ương Đảng Cộng sản, giúp việc cho Tổng Bí thư Trường Chinh, tham gia làm báo “Cờ Giải phóng”, sau chuyển sang làm Bí thư Công tác đội của Trung ương ở An toàn Khu, vùng Đông Anh, Hà Nội. Tháng 8/1945, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Đông Anh, sau đó về nhận công tác quân sự ở Hà Nội.

    Năm 1946 – 1949

    Ở mặt trận Hà Nội, ông làm uỷ viên Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Bộ, chính trị viên khu Hà Nội, Bí thư khu uỷ rồi Phó Chính uỷ khu II. Từ đây, ông lấy tên là Trần Độ. Tháng 3/1947, ông lên Chiến khu Việt Bắc, ở đây ông làm Phó Phòng Tuyên truyền, Chính trị cục trong Bộ Tổng Tư lệnh, Bí thư chi bộ, Ủy viên BCH liên chi uỷ Đảng bộ Bộ Tổng Tư lệnh, Chủ nhiệm báo “Vệ Quốc quân” (nay là báo QĐND).

    Năm 1950 - 1954

    Đầu năm 1950, ông làm Chính uỷ Trung đoàn Sông Lô (E.209), Bí thư Đảng uỷ Trung đoàn, tham gia chiến dịch Biên Giới. Ngày 27/12/1950 thành lập Đại đoàn 312, ông được cử làm phó Chính uỷ, quyền Chính uỷ Đại đoàn, Bí thư đảng uỷ. Làm Chính uỷ Đại đoàn, tham gia các chiến dịch : Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Lý Thường Kiệt, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và Điện Biên Phủ. Tháng 10/1954, ông làm cán bộ của Tổng cục Chính trị, phụ trách tổng kết công tác chính trị.

    Năm 1955 – 1964

    Tháng 10/1955, ông là Bí thư Quân khu uỷ Quân khu Hữu Ngạn. Tháng 6/1957, Chính uỷ Quân khu Hữu Ngạn, Bí thư đảng uỷ Quân khu. Tháng 3/1958, ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) được bầu vào BCH trung ương (uỷ viên dự khuyết). Đại biểu quốc hội khoá II (7/1960). Các năm 1960, 1961 ông được cử đi học ở Viện Hàn Lâm quân sự Vô-rô-chi-lốp (Liên Xô), mỗi năm học 6 tháng. Năm 1962, tham gia chỉ huy chiến dịch giải phóng Nậm Thà ở Bắc Lào. Tháng 11/1963, ông được cử làm Chính uỷ Quân khu III, Bí thư Đảng uỷ Quân khu. Tháng 12/1964, ông được cử vào miền Nam Việt Nam chiến đấu.

    Năm 1965 - 1975

    Tháng 3/1965, ông vào B2, tại đây ông là Ủy viên BCH Trung ương Cục, Phó Bí thư Quân uỷ Miền, Phó Chính uỷ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam kiêm Chủ nhiệm Chính trị (đến tháng 12/1966), Chính uỷ chiến dịch Đồng Xoài (05/1965). Tham gia chuẩn bị và chỉ huy Xuân Mậu Thân (1968). Tháng 8 – 10/1969 ra Hà Nội dự Hội nghị. Trực tiếp tham gia chỉ đạo chiến dịch ở Cam pu chia (02/1970), chiến dịch Nguyễn Huệ (4/1971). Được cử làm uỷ viên BCH Trung ương (10/1973). Thời gian ở chiến trường miền Nam, ông viết nhiều bài bình luận quân sự, tổng kết kinh nghiệm công tác chính trị với các bút danh Trần Quốc Vinh, Chín Vinh, Cửu Long. Tháng 3/1974, ông được thăng quân hàm Trung tướng. Tháng 6/1974, ông ra Hà Nội họp Hội nghị quân sự cao cấp toàn quốc, rồi được giao làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị phụ trách công tác tổng kết chiến tranh, đồng thời là Phó Ban miền Nam của Trung ương Đảng (đến tháng 9/1975).

    Năm 1976 – 1985

    Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, tháng 11/1976, ông rời quân đội và được cử làm Phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Văn hoá. Tháng 3/1981, ông là Trưởng Ban Văn hoá - Văn nghệ Trung ương (đến 5/1982), Đại biểu Quốc hội khoá VII (7/1981), Chủ nhiệm uỷ ban Văn hoá và Giáo dục của Quốc hội. Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, tháng 6/1982, ông là Ủy viên BCH Đảng, cố vấn Viện Văn hoá của Bộ Văn hoá.

    Năm 1986 – 1992

    Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tháng 12/1986, ông là Trưởng Ban Văn hoá - Văn nghệ Trung ương Đảng (đến 12/1988). Ông là Đại biểu Quốc hội khoá VIII (6/1987), Phó Chủ tịch Quốc hội, Uỷ viên Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá giáo dục Quốc hội đến tháng 9/1992.

    Trong cuộc đời, ông say mê làm công việc báo chí, văn học nghệ thuật. Ông tham gia Hội Nhà văn từ năm 1957. Trong suốt hơn 50 năm cầm bút, kể từ những chuyện ngắn đầu tay, ông đã viết hàng ngàn trang sách về nhiều thể loại văn học nghệ thuật, các bài bình luận quân sự, tổng kết kinh nghiệm và các tác phẩm nghiên cứu lý luận về văn hoá. Các tác phẩm của ông được nhiều nhà xuất bản in ấn và tái bản nhiều lần, trong đó có nhiều tác phẩm có ý nghĩa đóng góp lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Ông đã cống hiến cả đời mình cho nhân dân, cho Tổ quốc và đấu tranh không mệt mỏi cho những lý tưởng cao quý của nhân loại. Với gia đình, ông là tấm gương về tính giản dị, liêm khiết, tận tuỵ với công việc, một lòng vì dân, vì nước. Do những công lao, đóng góp với nhân dân, với Tổ quốc, ông được tặng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân huy chương cao quý khác.

    Ông mất ngày 09/8/2002 tại Hà Nội sau một thời gian lâm bệnh nặng. Lễ tang của ông được tổ chức giản dị và trang trọng trong sự tiếc thương của nhiều tầng lớp nhân dân, đồng đội và gia đình. Thể theo nguyện vọng cuối đời của ông, gia đình đã tổ chức an táng ông bên cạnh mộ mẹ của ông tại xã Tây Giang, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

    * * *

    Các tác phẩm đã được công bố :

    1. Lòng tin. Nxb Quân đội Nhân dân, 1953

    2. Nỗi lòng đồng chí Mão. Nxb Quân đội Nhân dân, 1955

    3. Kể chuyện Điện Biên (bút ký). Nxb Văn Nghệ, 1955

    4. Tìm hiểu khẩu hiệu “Sống, học tập và làm việc như những người cộng sản”. Nxb Quân đội Nhân dân, 1961

    5. Lý tưởng, ước mơ và nghĩa vụ. Nxb Thanh niên, 1964 (tái bản 1968)

    6. Bên sông đón súng (Hồi ký cách mạng). Nxb Thanh niên, 1964 (tái bản 1976 và 1980 do Nxb Văn học)

    7. Một số kinh nghiệm giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng của Quân giải phóng miền Nam. Nxb Quân đội Nhân dân, 1970

    8. Anh bộ đội (tập tuỳ bút). Nxb Quân đội Nhân dân, 1975

    9. Mấy vấn đề về xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật, 1978

    10. Phấn đấu xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật, 1982

    11. Văn hoá, văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mục tiêu và động lực. Nxb Văn hoá, 1986

    12. Nghĩ về cuộc sống. Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1987

    13. Đồng đội. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1987

    14. Những kỷ niệm … ảnh. Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, 1987

    15. Mấy vấn đề văn hoá cần nghiên cứu. Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1987

    16. Văn hoá ở cơ sở và văn hoá ở huyện. Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1987

    17. Văn hoá văn nghệ dưới ánh sáng Đại hội VI của Đảng. Nxb Sự thật, 1987

    18. Đổi mới và chính sách xã hội, văn hoá. Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1988

    ………

    Một số sách chủ biên hoặc chỉ đạo biên soạn :

    Chiến thắng Điện Biên Phủ (tập 1, tập 2). Nxb Quân đội Nhân dân, 1964

    Trận đánh 30 năm (tập 1, tập 2, tập 3, tập 4). Nxb Quân đội Nhân dân, 1983

    Văn hoá Việt Nam tổng hợp 1989 – 1995 (Memento), Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương, 1989

    Ngoài ra, còn nhiều bài đăng trên các báo, tạp chí và các bài nói chuyện, ý kiến phát biểu, tham luận hội thảo được các báo, tạp chí đăng tải.

    (Trích Trần Độ tác phẩm, tập I, Nxb Hội Nhà văn, 2012)

    TRẦN ĐỘ TÁC PHẨM: Tiểu sử Trần Độ

    Nhìn lại lập trường của Tướng Trần Độ

    BBC News

    8 tháng 8 2013

    A person in a suit

AI-generated content may be incorrect.

    Chụp lại hình ảnh, Ông Hồng Hà cho rẳng nhà nước nên tổ chức hội thảo về sự nghiệp của cố Trung tướng Trần Độ

    Tuần này đánh dấu 13 năm ngày mất của Tướng Trần Độ (9/8/2002), một công thần của Đảng Cộng sản nhưng về cuối đời, bị Đảng khai trừ khi ông kêu gọi thay đổi hệ thống chính trị.

    Trong một thời gian dài, tên của vị Trung tướng vẫn là cấm kỵ ở trong nước.

    Tuy vậy, thời gian gần đây dường như Đảng Cộng sản cầm quyền phần nào thay đổi thái độ, với việc ấn hành bộ ba tập sách tuyển tập các bài viết của ông, in đầu năm 2012.

    Trước đó, năm 2007, tập một cuốn Chuyện Tướng Độ được NXB Quân đội Nhân dân ấn hành.

    Nhưng các cuốn sách, cũng như một số bài báo về Trần Độ trên báo chí chính thống, đều không nhắc gì đến sự thay đổi lập trường của ông sau này.

    Nói chuyện với BBC hôm 8/8, một nhà bất đồng chính kiến lão thành quen biết Tướng Độ cho rằng Việt Nam nên tổ chức một hội thào đánh giá đóng góp tư tưởng, thân thế và sự nghiệp của vị tướng này.

    'Dũng cảm'

    Ông Hồng Hà đưa ra đánh giá của mình về vị tướng này: "Trên tất cả các cương vị mà ông ấy phụ trách, ông đều hoàn thành những nhiệm vụ một cách rất xuất sắc.

    "Nhưng bởi vì ý kiến của ông ấy, ông ấy thấy cái gì sai của Đảng và những gì sai của chính quyền ở đất nước này, ông ấy phát biểu ý kiến.

    "Phải nói rằng những ý kiến ông ấy phát biểu rất giỏi, dũng cảm và trí tuệ. Nhưng vì ông phát biểu phê phán người ta, lãnh đạo như thế, thì lãnh đạo tự ái, không thể chấp nhận được, kỷ luật ông ấy.

    "Đấy là cái sai của lãnh đạo lúc bấy giờ, mà ông Trần Độ theo tôi suy nghĩ là ông ấy rất đúng đắn..."

    Trước câu hỏi, nhà nước hay các cơ quan chuyên môn như Viện Sử học có nên tổ chức Hội thảo về Tướng Độ, sau hơn mười năm ông qua đời, ông Hồng Hà nói:

    "Với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, việc Viện Sử học tổ chức Hội thảo có lẽ còn chưa thích hợp, chưa làm được bởi vì trong lãnh đạo hiện nay còn một số người nhận định các vấn đề chưa đủ rõ.

    "Người ta vẫn thành kiến, người ta cho rằng ông Trần Độ tuy rằng có những ý kiến đúng nhưng không đúng nguyên tắc, phát biểu không đúng nguyên tắc, này nọ.

    "Tôi thấy rằng các nhận xét đó của người ta còn rất là sai... Theo tôi thấy là nên nhưng mà đánh giá của lãnh đạo hiện nay có thể chưa chấp nhận. Hiện nay, người ta còn có nhiều vấn đề còn chưa ổn."

    'Trung thành với nhân dân'

    Ông Hà cho rằng Trần Độ không phải là nhà "đối lập trung thành" của Đảng mà thay vào đó ông là một người "trung thành với dân, với nước."

    Ông nói: "Ông Trần Độ trung thành không phải là trung thành với Đảng. Ông Trần Độ là trung thành với Tổ quốc, nhân dân.

    A close-up of a person

AI-generated content may be incorrect.

    Chụp lại hình ảnh, Tướng Trần Độ từng giữ chức vụ Phó Chính ủy, Phó Bí thư Quân ủy Quân giải phóng miền Nam VN của Bắc Việt

    "Và vì trung thành với Tổ Quốc, nhân dân, nên ông ấy mới có những ý kiến phê phán lãnh đạo của Đảng.

    "Chính vì ông ấy phê phán như thế, ông ấy mới bị thành kiến và ông ấy mới bị đối xử kỷ luật các thứ này nọ."

    Tướng Độ, sinh năm 1923, kinh qua nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền cộng sản Bắc Việt và từng nắm các chức vụ quan trọng hậu chiến như Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương kiêm Thứ trưởng Văn hóa.

    Ông bị khai trừ khỏi Đảng vì bất đồng chính kiến, mặc dù chức vụ cuối cùng của ông là Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội.

    Trả lời câu hỏi của BBC liệu cách thức đóng góp cho đổi mới thể chế và chính trị khi vẫn còn giữ thẻ Đảng của Tướng Độ còn mang tính thời sự không, ông Lê Hồng Hà nói:

    "Trong tình hình của lúc đó, ông Trần Độ chưa ra khỏi Đảng, cái đó là dũng cảm thôi, và sau đó ông ấy bị khai trừ.

    "Trong khi ông còn là Đảng viên, còn là cương vị này, cương vị khác, ông phát biểu ý kiến, phê phán những cái sai của Đảng.

    "Thì trong điều kiện lúc bấy giờ, thế là thích hợp, là đúng đắn, chứ không phải là bây giờ là nhất định phải ra khỏi Đảng.

    "Người ta vẫn cứ là Đảng viên, nhưng người ta phát biểu ý kiến, hiện nay rất nhiều cán bộ đang ở trong tình hình ấy.

    "Người ta vẫn là Đảng viên, nhưng người ta vẫn phê phán một cách khá mạnh mẽ," ông nói với BBC.

    https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/08/130808_trando_anniversary


    Không có nhận xét nào