Header Ads

  • Breaking News

    Giải Nobel Hóa Học và Y Học 2025

    Cả nước Úc đang vui mừng vì năm nay có một khôi nguyên Nobel hoá học: Giáo sư Richard Robson, thuộc Đại học Melbourne. 

    Nobel Y học 2025: Bài học cho giới nghiên cứu trẻ

    Gs. Nguyễn Văn Tuấn Úc Châu

    09/10/2025

    Ông chia sẻ giải thưởng với hai đồng nghiệp, một ở Nhật (GS Susumu Kitagawa) và một ở Mĩ (GS Omar M. Yaghi, người gốc Palestine/Jordan). 

    Những công trình của họ thì tôi không hiểu nhưng chắc là quan trọng. Tôi chỉ thích đọc về hành trình của họ. 

    GS Robson, sanh năm 1937, thật ra là người gốc Anh. Ông tốt nghiệp tiến sĩ năm 1962 từ ĐH Oxford. Sau đó, ông làm nghiên cứu hậu tiến sĩ ở CalTech và Stanford bên Mĩ. Năm 1966 ông được ĐH Melbourne bổ nhiệm làm giảng viên (Lecturer) và ông trở thành công dân Úc sau đó. 

    Mãi đến năm 1992 (sau 30 năm tốt nghiệp tiến sĩ) ông mới trở thành Phó Giáo sư. Năm 2000, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Úc. 

    Tại sao ông thăng tiến hơi chậm như vậy? Tại vì những nghiên cứu của ông bị đồng nghiệp ... chê. 

    Ông thuật lại với Hội đồng giải Nobel Hoá học là "Có vài người nghĩ rằng [nghiên cứu của tôi] toàn là một mớ rác rưởi.” (Some people thought it was a whole load of rubbish). 

    Ông nói thêm: “Nhưng hóa ra không phải vậy.” (But it didn’t turn out that way). Ý ông nói là không ngờ rác rưởi mà có giải Nobel! 

    Tôi thích nhứt là cái tính bình thản và giản dị khi nhận tin vui. Khi nhận tin từ Stockholm ông nấu một bữa ăn: 

    “Tôi nấu món cá cho bữa tối cùng bà xã, và sau đó tôi rửa chén”.

    Ông tiết lộ rằng gần đây ông đã kiêng rượu vì lí do sức khỏe. Nhưng lần này ông phá lệ: 

    “Tôi đã phá qui tắc đó bằng cách uống một li rượu vang loại rẻ tiền”. 

    Ông cho biết: 

    “Bây giờ tôi đã 88 tuổi rồi. Những người tôi từng quen biết cách đây 25 hay 30 năm đều đã qua đời hoặc giống như tôi (tức cũng sắp qua đời)”. 

    Ông dự đoán sẽ có nhiều phiền phức khi báo chí liên lạc để hỏi han: “Có những mặt tích cực và tiêu cực [khi nhận giải thưởng]. Tôi đã khá già rồi. Việc đối mặt với tất cả những chuyện phiền phức sắp xảy ra sẽ là một công việc vất vả.”

    Sau đó, ông vẫn lên lớp giảng cho sinh viên năm thứ nhứt! Nghe nói trong nhóm sinh viên, chẳng ai biết cách đó vài giờ ông được trao giải Nobel! 

    (Mà, sinh viên thì chắc chẳng quan tâm đến giải thuởng gì đâu; họ lo làm bài là chánh). 

    Nước Úc tôi nhỏ xíu, chỉ 25 triệu dân, nhưng số giải Nobel thì cũng kha khá. Tính từ 1901 tới nay, các nhà khoa học Úc đã đem về nước 16 giải Nobel, nhiều nhứt vẫn là y học: 

    • Y học: 8 giải 

    • Vật lí: 3

    • Hóa học: 3

    • Văn học: 2

    • Hoà bình: 1

    Trong các trung tâm khoa học, ĐH Melbourne có đến 6 giải Nobel. Đại học Sydney có 5 giải Nobel. Còn UNSW và UTS của tôi thì ... chưa có giải nào. 🙂

    Khi nghe tin GS Robson được giải Nobel, đồng nghiệp ai cũng nói đến cái tánh khiêm cung của ông. Một giáo sư nói: 

    “Giáo sư Robson là một người khiêm nhường, ông đã đạt được vinh dự này chỉ bằng cách làm những gì ông yêu thích: vào phòng thí nghiệm mỗi ngày, trò chuyện với sinh viên, suy nghĩ về những ý tưởng lớn trong nhiều thập niên và tiến hành các thí nghiệm.”

    Bài học cho Việt Nam là gì? Tôi nghĩ đó là cần phải nhận ra rằng những nghiên cứu cơ bản lâu dài này cần được đầu tư mà đừng hỏi đến sản phẩm trong thời gian ngắn. Nghiên cứu cơ bản mới cho phép chúng ta có tên tuổi trong trường khoa học quốc tế. Đừng nghĩ 'đi tắt đón đầu' nữa. 

    ___

    Có thể theo dõi trả lời phỏng vấn của GS Robson ở đây:

    https://www.nobelprize.org/.../che.../2025/robson/interview/

      

    Nobel Y học 2025: Bài học cho giới nghiên cứu trẻ

    Giải Nobel Y học năm 2025 vinh danh ba nhà khoa học: Shimon Sakaguchi, Mary Brunkow và Fred Ramsdell. Nếu nhìn qua thành tích công bố của Tiến sĩ Brunkow và Ramsdell [1], có lẽ các bạn nghĩ họ hơi ... khiêm tốn. Nhưng thành tựu của họ theo tôi là một bài học về nghiên cứu khoa học cho giới trẻ ngày nay. 

    Khoa học ngày nay phát triển với tốc độ chóng mặt. Ở nhiều labo trên thế giới, các nhà nghiên cứu trẻ phải chịu áp lực công bố thật nhiều bài báo, “chạy KPI” để cạnh tranh học bổng, thăng tiến học thuật hoặc giành tài trợ. 

    Các giáo sư và giảng viên ngày nay đua nhau công bố cho thật nhiều bài báo, làm dày lí lịch khoa học một cách ấn tượng. Họ tranh nhau ‘khoe’ chỉ số này, đại lượng kia, chỉ để giành nhau một ngôi vị nào đó trong ‘bộ lạc.’

    Ngay cả sinh viên cũng cuốn theo cuộc đua. Tôi từng nhận đơn xin học tiến sĩ của vài sinh viên ở Trung Đông, mà lí lịch của họ đã có 50-60 bài báo khoa học! Các em này tưởng rằng với lí lịch như vậy thì sẽ được nhận vào học tiến sĩ. Nhưng họ lầm to. Tôi không bao giờ đánh giá ai qua danh sách bài báo. 

    Tuy nhiên, trong cơn lốc của số lượng, chúng ta dễ quên rằng lịch sử khoa học được định hình không phải bởi hàng trăm hay hàng ngàn bài báo ngắn hạn, mà bởi những phát hiện nền tảng, những khám phá chậm rãi nhưng chắc.

    Giải Nobel Y học 2025 đã mang đến một minh chứng điển hình. Ba nhà khoa học Shimon Sakaguchi, Mary Brunkow và Fred Ramsdell đến từ ba hướng nghiên cứu khác nhau, nhưng cuối cùng đã ghép lại thành một bức tranh toàn diện về gen FOXP3 và tế bào T điều hòa (Regulatory T, hay Treg). 

    Chuột không có Treg dễ bị viêm và chết sớm. Con người thiếu Treg thì hệ miễn dịch sẽ mất cân bằng, dẫn đến các bệnh tự miễn nghiêm trọng (như viêm ruột, tiểu đường type 1, viêm khớp dạng thấp). Những người này thường phát bệnh rất sớm và có nguy cơ tử vong cao nếu không điều trị kịp thời bằng thuốc ức chế miễn dịch hoặc ghép tủy. 

    Những công trình nghiên cứu của họ giải thích vì sao hệ miễn dịch, vốn là “đội quân bảo vệ” cơ thể, đôi khi lại quay sang tấn công chính chúng ta, gây ra các bệnh tự miễn. Phát hiện này không chỉ dừng ở lí thuyết, mà còn mở đường cho liệu pháp Treg đang được thử nghiệm lâm sàng để chữa bệnh lupus, tiểu đường type 1, viêm khớp dạng thấp và thậm chí cải thiện kết quả ghép tạng.

    Điều đáng chú ý là những phát hiện đó không xuất phát từ “chạy đua số lượng”, mà từ sự kiên trì, tập trung và hợp tác. Năm 1995, Sakaguchi kiên nhẫn chứng minh sự tồn tại của một loại tế bào T đặc biệt, gọi là Treg, có vai trò như cái “thắng xe” hệ miễn dịch. 

    Vài năm sau, Brunkow phát hiện gen FOXP3 bị đột biến ở chuột “scurfy” (loại chuột không có Treg, bị viêm nặng, và dễ chết sớm). Cùng lúc đó, Ramsdell tìm ra đột biến FOXP3 ở người mắc hội chứng IPEX (một bệnh tự miễn cực kì nghiêm trọng). 

    Ba phát hiện trên, đến từ ba labo, ba góc nhìn, cuối cùng bổ sung cho nhau để trả lời một câu hỏi lớn mà y học đã trăn trở hàng nửa thế kỉ.

    Từ câu chuyện này, chúng ta có thể rút ra vài bài học quan trọng cho giới trẻ đang bước vào con đường nghiên cứu khoa học.

    - Thứ nhứt, hãy kiên nhẫn với những câu hỏi khó. 

    Khoa học không phải lúc nào cũng mang lại kết quả tức thì. Sakaguchi đã theo đuổi khái niệm về Treg nhiều năm trước khi cộng đồng miễn dịch học chấp nhận. 

    Những ý tưởng táo bạo thường cần thời gian để được chứng minh và thuyết phục. Trong một thế giới chuộng tốc độ, việc dám dành nhiều năm cho một câu hỏi nền tảng là sự can đảm hiếm có – nhưng cũng chính là con đường dẫn đến đột phá.

    - Thứ hai, phẩm quan trọng hơn lượng. 

    Brunkow và Ramsdell không xuất bản hàng chục bài báo mỗi năm. Nhưng chỉ một công trình của họ trên Nature Genetics năm 2001 đủ sức thay đổi cả lãnh vực, mở ra hướng điều trị mới cho hàng triệu bệnh nhân. 

    Áp lực công bố nhiều đôi khi khiến người trẻ sa vào những nghiên cứu nhỏ, dễ làm, dễ công bố, nhưng không tạo ra giá trị bền vững. Câu chuyện FOXP3 nhắc nhở rằng một phát hiện chất lượng, được làm đến nơi đến chốn, sẽ được ghi nhớ lâu dài hơn bất kì danh sách công bố dày đặc nào.

    - Thứ ba, hãy nghĩ đến tác động dài hạn. 

    Khi còn là nghiên cứu sinh hoặc nhà khoa học trẻ, rất dễ bị cuốn vào việc “làm sao để có bài báo tiếp theo”. Nhưng giải Nobel y học năm nay cho thấy khoa học chân chánh được đánh giá bằng khả năng để lại dấu ấn lâu dài. 

    Những công trình từ 20–30 năm trước của Sakaguchi, Brunkow và Ramsdell đến nay vẫn tiếp tục ảnh hưởng, không chỉ trong labo mà cả trong thử nghiệm lâm sàng. Điều này nhấn mạnh rằng mục tiêu cuối cùng của khoa học không phải là danh tiếng nhất thời, mà là đóng góp thật sự cho tri thức và sức khỏe cộng đồng.

    Vậy, bài học dành cho các bạn trẻ là gì? Đó là hãy can đảm theo đuổi đam mê khoa học bằng sự kiên nhẫn và trung thực. Đừng ngại đặt ra những câu hỏi lớn, ngay cả khi chưa ai có câu trả lời. Hãy tìm đồng đội, bởi khoa học là công trình tập thể. Và hãy nhớ rằng phẩm chất, chiều sâu và tầm nhìn xa mới là thước đo đích thực, chứ không phải số lượng bài báo công bố.

    Đối với tôi, Giải Nobel Y học năm nay không chỉ tôn vinh ba nhà khoa học xuất sắc, mà còn gởi đi một thông điệp mạnh: trong một thế giới đầy áp lực, hãy chọn đi sâu thay vì đi nhanh, chọn xây nền tảng thay vì chỉ dựng bề mặt. Bởi lẽ, như hành trình của FOXP3 và Treg đã chứng minh, một phát hiện thật sự có giá trị có thể làm thay đổi cả y học và để lại dấu ấn cho nhiều thế hệ mai sau.

    ____

    [1] Theo ScholarGPS, tiến sĩ Brunkow chỉ công bố chừng 20 bài báo khoa học, với 13,000 trích dẫn. Nhưng chỉ 1 bài trên Nature Genetics dẫn bà đến giải Nobel! 

    https://scholargps.com/scho.../37744811079464/mary-e-brunkow

    Vẫn theo ScholarGPS, Tiến sĩ Fred Ramsdell chủ yếu làm trong ngành công nghệ sinh học, nên ông không công bố nhiều bài báo (chỉ chừng 60 bài với 23,000 trích dẫn) như Giáo sư Shimon Sakaguchi (làm trong đại học). 

    https://scholargps.com/scholars/96872600028291/fred-ramsdell

    Riêng GS Sakaguchi thì là một ngôi sao khoa học, được ScholarGPS ghi nhận là "Highly Ranked Scholar - Lifetime". 

    https://scholargps.com/.../41468221489340/shimon-sakaguchi

    Nguyễn Tuấn 


    Không có nhận xét nào