Phần 6 và 7
Anh Quốc
“…Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn – kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc”.
Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”
Câu chuyện thứ hai:
ĐOÀN TỤ MUỘN MÀNG.
-ÂM MƯU BẤT THÀNH.
Trần Văn Dõi ra Bắc để nhận vũ khí đưa vào Nam, khi ra đi trong hồi ký ghi ngày 25-8-1946, của ông có đoạn kể về mối tình lãng mạn thuở thanh niên: "Hẹn gặp Bảy ở Ngã Tư, nói lời chia tay bịn rịn. Hẹn trở về khi xong nhiệm vụ của người thanh niên. Bảy hứa quyết tâm chờ mình. Hôn nhau lần đầu... thật là lãng mạn. Ra đi mang nặng lời thề. Đánh tan giặc Pháp mới về cùng em...".
Trần Văn Dõi từ Sài Gòn đi tàu ra Vũng Tàu rồi lên chiếc Pasteur đang đậu ngoài đó..
Ngày 4-10-1946, ông Trần Văn Dõi đặt chân lên đất Bắc ở Hải Phòng.
Ra Hà Nội, việc chuyển vũ khí không thành, vì Hà Nội lúc đó tình hình chính trị cũng rất phức tạp khi Chính phủ Hồ Chí Minh đang đàm phán với Pháp.
Hồ Chí Minh muốn Pháp công nhận nền độc lập hoàn toàn, nhưng Pháp muốn Việt Nam nằm trong khối liên hiệp Pháp - Điều Hồ Chí Minh không thể chấp nhận vì ông là một người cộng sản, nền độc lập của Việt Nam phải gắn với một nhà nước theo mô hình XHCN của Liên Xô.
Hồ Chí Minh biết chắc đàm phán sẽ thất bại, và ông sẵn sàng tiến hành một cuộc kháng chiến chống lại Pháp.
Ngay sau khi từ Pháp về Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), trong bối cảnh đó Trần Văn Dõi được bố trí vào đội tự vệ khu Bạch Mai, tham gia chiến đấu cùng đơn vị tự vệ.
Hà Nội thất thủ ông Dõi cùng với các đợn vị trong đó có trung đoàn thủ đô rút lên vùng rừng núi Việt Bắc để tiến hành một cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp.
Năm 1948, ông được cử đi học Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa 4.
Sau khi bế mạc khóa học ông tiếp tục theo học khóa I công binh.
Ngày 10 tháng 7 năm 1949, khi lớp công binh đang xây dựng cầu treo Bờ Rạ, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp khóa công binh, ông về cục công binh công tác.
Ông tham gia nhiều chiến trận trong đó có trận Điện Biên Phủ trong lực lượng công binh mở đường, rà phá bom mìn...
Sau Hiệp định Genève 1954, Tổng tuyển cử không diễn ra nên ông ở lại miền Bắc, thụ phong quân hàm Đại úy.
Năm 1961, ông được đi học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Trường Đại học Bách khoa và tổ chức chỉ biết Lưu Vĩnh Châu là con trai Trần Văn Hương chủ tịch UBKC Tỉnh Tây Ninh.
Thông tin cho rằng, ông Dõi năm 1968, nghe đài phát thanh, biết cha giữ chức vụ quan trọng trong miền Nam. Sau nhiều đêm mất ngủ vì suy nghĩ, ông quyết định báo cáo cấp trên là không có độ tin cậy.
Lý lịch của ông Trần Văn Dõi với cái tên Lưu Vĩnh Châu được Bộ Nội Vụ nắm rõ, và bản thân ông Dõi dưới cái tên Lưu Vĩnh Châu khi ra Bắc là do tổ chức sắp đặt, ông Dõi giấu diếm, khai man đã bị chính quyền cho tù mọt gông.
Năm 1968 ông Trần Văn Huơng được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời lên làm thủ tướng, tin này bay đến Hà Nội.
Bộ Nội vụ của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã sử dụng ông Trần Văn Dõi như một lá bài để tiếp cận với thủ tướng Trần Văn Hương.
Ung Văn Khiêm lúc ấy là Bộ trưởng, Bộ Nội vụ gọi ông Dõi lên và giao nhiệm vụ.
Lưu Vĩnh Châu (ông Dõi) sẽ phải vô Nam làm một nhiệm vụ đặc biệt. Còn nhiệm vụ gì, vào thời điểm nào đó, tổ chức sẽ tính toán tiếp theo và giao dịch cụ thể. Châu phải giữ bí mật công việc này, không được nói với ai kể cả tổ chức cơ quan hay vợ con…
Rồi một hôm, Lưu Vĩnh Châu được ông Ung Văn Khiêm kêu tới… Việc của ông là viết một bức thư cho “ông già”.
Ông Khiêm chỉ đạo trong thư, không nói gì cả, chỉ báo tin cho bố có công ăn việc làm tử tế ngoài Bắc, hiện là kỹ sư cơ khí, có một mái ấm gia đình vợ và hai con vv…
Lá thư không có hồi âm cũng như nhiệm vụ đặc biệt đã không đến với kỹ sư Lưu Vĩnh Châu. Năm tháng qua đi… rồi tới ngày 30 tháng Tư…
Sau này ông Dõi gặp lại bố, có hỏi ông Trần Văn Hương chuyện này, nhưng ông Trần Văn Hương không trả lời, có lẽ ông chẳng còn hứng thú với những gì đã xảy ra trong hoàn cảnh đang bị chính quyền quản thúc, và khơi lại những vết đau lòng.
Nhưng theo ông Trần Văn Đính là em trai ông Dõi kể, lúc đó Việt cộng theo một đường dây tình báo được cài cắm tại phủ tổng thống, ông Trần Văn Hương có nhận được bức thư của ông Dõi.
Ông có nói với ông Đính (ông Đính lúc này là phụ tá cho ông Trần Văn Hương), hai bố con đi đến thống nhất là im lặng không trả lời và giữ kín không cho ai biết.
Theo ông Đính, ông Hương trong lòng rất vui vì biết ông Dõi vẫn còn sống.
Về phía Bộ Nội vụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, biết rằng âm mưu dùng ông Dõi để tiếp cận thủ tướng Trần Văn Hương không thành đã hủy bỏ phương án đưa ông Dõi vào Nam.
Bi kịch một cuộc chiến
PHẦN 7
Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn – kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc.
Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”
Câu chuyện thứ hai:
ĐOÀN TỤ MUỘN MÀNG
Trước khi tiếp tục câu chuyện về gia đình tổng thống Trần Văn Hương chúng ta quay lại bối cảnh tình hình chính trị Việt Nam sau khi ký kết Hiệp định Paris vào 21/3/1973 để hiểu thêm tại sao ông Trần Văn Hương lên làm tổng thống sau bảy ngày lại trao cho ông Dương Văn Minh.
-Năm 1972 Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã đến thăm Trung Quốc, đây là chuyến đi lịch sử chấm dứt 25 năm cô lập ngoại giao giữa hai nước. Chuyến thăm kéo dài một tuần, bao gồm các cuộc gặp với Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai ở Bắc Kinh, Thượng Hải và Hàng Châu. Chuyến đi này được coi là một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung.
Quan hệ Mỹ- Trung nồng thắm, đây là sự cáo chung của giới lãnh đạo Trung Quốc với ý thứ hệ cộng sản của Liên Xô.
Ý thứ hệ cộng sản Liên Xô chỉ là công cụ thực hiện khát vọng dân tộc, đưa Trung Quốc thoát khỏi chế độ phong kiến và ách thống trị của Nhật Bản.
Nhưng ý thức hệ cộng sản Liên Xô khiến Trung Quốc trở thành chư hầu của Liên Xô, kinh tế đất nước ngày càng trở nên lụn bại đã đẩy quan hệ Trung – Xô đến bờ vực chiến tranh.
Và Chính sách hướng Tây của Trung Quốc là điều bắt buộc Mao phải thực hiện để tồn tại một vương triều phong kiến hiện đại trong vỏ bọc của một chế độ cộng sản.
Việc người Mỹ và Trung Quốc cùng quỹ đạo chống Liên Xô cùng với một thị trường hơn một tỷ dân đem lại những lợi ích kinh tế khổng lồ khiến cho chính sách của Nhà Trắng có nhiều thay đổi và Việt Nam bị ảnh hưởng nhất với việc quan hệ Mỹ - Trung hàn gắn.
Người Mỹ không còn lý do lo lắng ý thức hệ cộng sản tràn sang các quốc gia Đông Nam Á với Trung Quốc hậu thuẫn và Bắc Việt Nam là con bài xung trận, khi Trung Quốc đã cùng với Mỹ chung một quỹ đạo.
Trong chiến dịch tranh cử lần 2 (1968) Nixon hứa với người dân Mỹ sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam và đưa lính Mỹ trở về nước.
Nixon trúng cử và đưa ra những điều kiện rất mở trong đàm phán với Bắc Việt Nam tại hội nghị Paris, theo đó Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam, đồng thời Miền Bắc Việt Nam cũng rút quân giải phóng ra khỏi Miền Nam và chấm dứt chiến tranh.
Một mô hình đất nước bị chia cắt giống những gì đã xảy ra ở Bán đảo Triều Tiên với hai nhà nước, hai chế độ được quốc tế công nhận (Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà lúc này chưa phải là thành viên trong Liên hợp quốc).
Những nhà lãnh đạo Hà Nội coi đây là một thắng lợi chiến lược trên bàn ngoại giao, với nhận định quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, trên chiến trường Việt Nam Cộng hòa sẽ bại trận.
Ngược lại chính phủ Việt Nam Cộng hoà coi đây là một thảm họa, một sự bán đứng của Mỹ, họ cực lực phản đối.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1973, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật ngăn cấm mọi hoạt động chiến sự – cả trên không lẫn mặt đất – của quân đội nước này tại cả ba nước Đông Dương
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không ủng hộ cuộc đàm phán hòa bình này và chỉ chấp nhận ký kết hiệp định một cách miễn cưỡng dưới sức ép từ phía Washington.
Ông chỉ trích Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger "ham Giải Nobel" và để cho Hà Nội "chơi xỏ".
Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ vững lập trường đối nghịch với Hiệp định Paris thông qua chính sách "Bốn không":
-Không thương lượng với cộng sản;
- Không có hoạt động của cộng sản hoặc phe đối lập ở phía nam Khu phi quân sự vĩ tuyến 17 (DMZ);
-Không chính phủ liên hiệp;
-Không nhường một tấc đất nào.
Nguyễn Văn Thiệu vẫn tiếp tục đặt niềm tin vào người Mỹ, cho rằng họ sẽ giữ lời và sẽ can thiệp bằng không quân ở Việt Nam trong trường hợp phe cộng sản vi phạm nghiêm trọng hiệp định Paris
Và thực tế đúng như gì mà Việt Nam Cộng hòa lo ngại, nhưng niềm tin của họ đã trở thành nỗi thất vọng.
Cuối năm 1973, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết 21, kêu gọi "đấu tranh quân sự" tại miền Nam Việt Nam để "giành dân, giành quyền làm chủ" và thăm dò phản ứng của Sài Gòn và Washington.
Quân đội Bắc Việt vẫn ở lại trong lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng chứng minh là một mối đe dọa lớn về mặt an ninh của Việt Nam Cộng hòa
Quân đội Bắc Việt bắt đầu vi phạm lệnh ngừng bắn và cố gắng chiếm thêm lãnh thổ, dẫn đến những trận đánh lớn giữa quân đội hai bên.
Tuy nhiên, Nixon đã không có động thái đáp trả nào trước những hành động vi phạm Hiệp định Paris của Bắc Việt bởi sự trói buộc đạo luật ngăn chặn chiến tranh tại Quốc Hội Mỹ.
Quốc hội Hoa Kỳ đã cắt giảm ngân sách viện trợ từ 2,3 tỷ USD năm 1973 xuống còn 1,1 tỷ USD năm 1974 và chỉ còn 700 triệu USD năm 1975.
Trong khi đó phía Bắc Việt lại được nhận viện trợ ồ ạt từ Liên Xô, Trung Quốc:
Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn (Số liệu trên báo Quân đội Nhân dân ngày 03/05/2008).
Tất cả những gì xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp giữa Nixon và Mao tại Bắc Kinh năm 1972 đến hiệp định Paris (1973) đã báo hiệu sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa là không thể tránh khỏi.
https://www.facebook.com/share/1BxfaxVuzF/
Không có nhận xét nào