Phần 8 và 9
Anh Quoc
Phần 8
17/11/2025
Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn – kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc.
Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”
Câu chuyện thứ hai:
ĐOÀN TỤ MUỘN MÀNG (Tiếp theo phần 7)
LỊCH SỬ KHÔNG LỰA CHỌN.
Những sai lầm nối tiếp sai lầm của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để mất Tây Nguyên dẫn đến cuộc tháo chạy chóng vánh đã diễn ra sau đó, khi quân đội Nam Việt Nam rút khỏi Huế, trung tâm văn hóa của đất nước, khỏi Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai của đất nước, và sau đó nhanh chóng rút khỏi các vùng ven biển cho đến tận Sài Gòn.
Quân đội Sài Gòn chuyển sang chiến đấu tại Xuân Lộc, thủ phủ tỉnh Long Khánh, nơi bị quân đội Bắc Việt Nam xâm chiếm vào ngày 9 tháng 4. Trong hai tuần, hai bên giao tranh dữ dội tại đây, biến thành phố thành đống đổ nát. Thành phố bị bỏ hoang vào ngày 22 tháng 4.
Khi phần lớn đất nước rơi vào tay Cộng sản, các nhân vật chính trị, lãnh đạo tôn giáo và nhiều người khác đã lên tiếng ở Sài Gòn đòi Tổng thống Thiệu từ chức. Chính phủ tuyên bố hai âm mưu đảo chính đã bị phát hiện và ngăn chặn.
Ông Thiệu đã lên sóng phát thanh và truyền hình vào ngày 21 tháng 4 để đưa ra thông báo đầy xúc động rằng ông sẽ từ chức. Ông đổ lỗi cho việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ đã gây ra thảm họa cho lực lượng của mình.
Theo Hiến pháp Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay, đây cũng là nỗ lực cuối cùng của ông Thiệu bởi Trần Văn Hương là người có quyết tâm chống cộng sản quyết liệt.
Nhưng tình thế lúc đó đã bị đảo lộn ngay trong bộ máy nhà nước của Việt Nam Cộng hòa. Áp lực nặng nề liên tục từ các nhóm chính trị Việt Nam muốn có một giải pháp hòa bình nhanh chóng và từ Hoa Kỳ, vẫn là một vấn đề lớn đang tiếp diễn.
Lãnh đạo phái Ấn Quang chiếm ưu thế trong Giáo hội Phật giáo, Thích Trí Quang, đã kêu gọi Tổng thống Hương từ chức ngay lập tức để ủng hộ Tướng Minh.
“Mỗi phút do dự của ông Hương đều đưa mối đe dọa đến gần hơn với tính mạng của người dân, đặc biệt là người dân Sài Gòn”, ông nói.
Không có nhân vật chủ chốt nào trong các nỗ lực đàm phán của Chính phủ hiện tại có vẻ muốn tiếp tục cuộc kháng chiến, và các sáng kiến ngoại giao hướng tới một giải pháp chấm dứt cuộc chiến được cho là đang được tiến hành ở một số quốc gia, bao gồm Pháp và Liên Xô.
Nhiệm vụ chính bây giờ dường như không còn là đàm phán nữa mà là đưa ra tín hiệu bằng hành động cụ thể. Lúc này, cả hai bên đều không còn tin tưởng vào các tuyên bố và tài liệu mà chỉ dựa vào tốc độ hành động của Washington và Sài Gòn hoặc yêu cầu của Việt Cộng, để đổi lấy sự an toàn của Sài Gòn.
Bắc Việt đã yêu cầu lật đổ không chỉ Nguyễn Văn Thiệu mà cả người kế nhiệm ông, Tổng thống Hương, và phần còn lại của "phe Thiệu".
Trong một loạt cuộc điện đàm với tờ New York Times, Bắc Việt phủ nhận việc họ yêu cầu bất kỳ cá nhân cụ thể nào đứng đầu chính quyền Sài Gòn mới, nhưng nói rõ rằng họ sẽ từ chối tất cả, ngoại trừ một số ít chính trị gia có tiếng tăm. Trong số những người họ không từ chối có Tướng Minh. Hoa Kỳ đang thúc giục họ đáp ứng yêu cầu này càng nhanh càng tốt.
Việt Cộng ngụ ý rằng trừ khi Tướng Minh hoặc một người nào đó được họ chấp nhận sớm được bổ nhiệm làm người đứng đầu chính phủ mới, nếu không họ sẽ phá hủy Sài Gòn.
Tuy nhiên vẫn có tiếng nói chống cộng sản Bắc Việt xâm lăng cũng đến từ một số nhóm trong quân đội.
Trong số đó có tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ, cựu phi công chiến đấu đã chỉ huy cuộc không kích đầu tiên của Mỹ vào Bắc Việt Nam, cựu Thủ tướng và là đối thủ của ông Thiệu. Mặc dù tướng Kỳ có rất ít sự ủng hộ chính trị và không có vai trò quân sự nào trong bốn năm, ông vẫn rất được lòng nhiều phi công chiến đấu.
Tướng Kỳ phát biểu tại một cuộc họp báo trong một bữa tiệc với 50 phi công vào tối thứ năm, họ đã "thề sẽ chiến đấu".
Trước đó vào thứ năm, tướng Kỳ đã gặp 300 sĩ quan quân đội tại Long Bình, nơi ông bày tỏ một cách tiếp cận hiếu chiến tương tự, ông cho biết.
Khoảng 5.000 người Công giáo cứng rắn đã tập trung ở rìa Sài Gòn để nghe Tướng Kỳ chế nhạo "cái gọi là chiến thắng của Cộng sản, chỉ là kết quả của việc các tướng lĩnh và sĩ quan của chúng ta chọn bỏ chạy, thậm chí trước khi họ bị tấn công".
Hỏi một cách khoa trương tại sao ông vẫn chưa rời khỏi đất nước, tướng Kỳ nói: “Tại sao phải chạy? Để làm gì? Để ăn đồ ăn Mỹ còn thừa? Cho dù đất nước có rơi vào tay Cộng sản, ít nhất họ cũng có làn da vàng như chúng ta.”
Một nhân vật có thể phá hoại khác là ông Trần Quốc Bửu, lãnh đạo tổ chức lao động quốc gia và là một người chống Cộng kiên quyết. Ông kêu gọi những người ủng hộ “đứng lên và thúc đẩy Chính phủ đấu tranh”.
“Bỏ chạy là chết, chiến đấu là sống sót”, ông nói.
Tất cả những biểu hiện cứng rắn này trở nên vô nghĩa và sáo rỗng khi pháo binh của quân đội Bắc Việt đã khống chế toàn bộ Sài Gòn và sân bay Tân Sân Nhất, Biên Hòa.
Ngày 26/4/1975 Tổng thống Trần Văn Hương triệu tập cuộc họp khẩn kêu gọi Quốc hội quyết định có nên bầu Tướng Dương Văn Minh làm tổng thống thay ông để đàm phán với những người Cộng sản hay không.
Sau bài phát biểu của Tổng thống Hương, hội đồng đã họp khẩn cấp để thảo luận về vấn đề này.
Bất chấp bản chất chia rẽ thường thấy của cuộc tranh luận chính trị Việt Nam, dường như có những thế lực đang hoạt động ngày hôm nay để đảm bảo kết thúc nhanh chóng các thủ tục sẽ kết thúc bằng việc thay thế Tổng thống Hương bằng Tướng Minh.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội, tổng thống Hương cho biết ông không thể tự mình trao quyền cho Tướng Minh vì điều đó sẽ vi hiến.
Ông Hương, với giọng run run, chỉ mới nhậm chức Tổng thống vào thứ Hai, sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức.
Bài phát biểu dài 20 phút của ông Hương trước cơ quan lập pháp, với sự tham dự của một số đoàn ngoại giao, thường xuyên đề cập đến nhu cầu cần phải tiếp tục đấu tranh. Những lời phát biểu này bị ngắt quãng bởi tiếng vỗ tay vang dội.
“Nếu các ngài quyết định không thay tôi bằng Tướng Minh, và nếu chúng ta không thể đàm phán thành công và vui vẻ, thì Sài Gòn phải biến thành biển máu, và chúng ta vẫn phải chiến đấu vì danh dự quốc gia”, Tổng thống nói trong nước mắt lăn dài trên khuôn mặt.
Cuối cùng như một thủ tục sau khi tổng thống Trần Văn Hương chấp nhận rời bỏ ghế tổng thống, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa thông qua hiến pháp để tướng Dương Văn Minh có đủ điều kiện trở thành tổng thống hợp hiến, hợp pháp kế tiếp.
Nếu Tổng thống Hương quyết định chiến đấu đến cùng, dẫn đến một trận chiến giành lại Sài Gòn, ông sẽ phải đối mặt với những trở ngại không thể vượt qua.
Là một người thực tế, ông nhận thức rằng nếu không có sự hỗ trợ của Mỹ, ông sẽ chẳng làm được gì, thậm chí còn phải đối mặt với mối đe dọa đến an toàn cá nhân.
Phần 9
Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn – kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc.
Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”
Câu chuyện thứ hai:
ĐOÀN TỤ MUỘN MÀNG (Tiếp theo phần 8 )
BI KỊCH NHƯNG KHÔNG PHẢI VÔ NGHĨA.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại sứ Martin nói:
“Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi đất nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT “trăm tuổi già”.
Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời:
– “Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi”.
Sau đó ông Trần Văn Hương đã lui về căn nhà 216 đường Phan Thanh Giản, tại đây ông sống với vợ chồng em gái út cho đến lúc qua đời.
Theo ông Trần Văn Đính, đây là căn nhà mà năm 1969, khi rời chức thủ tướng để trao chức vụ này cho ông Trần Thiện Khiêm, không có nhà ở, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã cấp cho ông.
Tuy mang số 216, đây là một căn nhà nhỏ gọn, nằm sâu trong hẻm, sau lưng nhà của ông Trần Ngọc Liễng, nhà loại cấp cho các bộ trưởng nhưng vì nhà đã lâu năm, cũ kỹ, xuống cấp, không ở mặt tiền, bị mọi người chê nên mới còn lại.
Ông Hương đã từ chối lời đề nghị cho sửa sang lại vì sợ tốn công. Sau 1975, không bị chính quyền sử dụng như những căn nhà khác, nhưng báo chí CS cho rằng vì lý do nhân đạo nên ngôi nhà này không bị tịch thu.
Ông Trần Văn Hương được hỗ trợ cấp tem phiếu hạng E giành cho một “cựu tổng thống Ngụy,” nhưng theo ông Trần Văn Đính, ông Hương không có hộ khẩu vì không làm đơn xin “phục hồi” quyền công dân vì lý do như ông nói: Khi bất kỳ người tập trung “cải tạo” nào được về hết, họ nhận được đủ quyền công dân, lúc đó tôi sẽ là người cuối cùng, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi!”
Chính vì thái độ này, ông bị chính quyền quản chế, không hộ khẩu, làm sao có tem phiếu, ông Đính nói.
Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không bao giờ ra khỏi nhà, đau đớn, bệnh tật.
Người chăm sóc tận tình cho ông chính là người em rể sống với ông
Theo lời một đứa cháu kể chuyện với nhà văn Hứa Hoành, ông giao cho bà em ra chợ bán những bộ đồ vest để lấy tiền mua thức ăn cho cả gia đình.
Sau cùng, trong hoàn cảnh cơ cực của đất nước khi chính quyền đánh tư sản mại bản, ngăn sông cấm chợ, sản xuất đình trệ… các Ðại sứ của các nước Pháp, Úc cho người đến thăm ông và cho biết họ có thể can thiệp với chính quyền cho ông ra khỏi nước với lý do đi trị bệnh, nhưng ông tiếp tục từ chối, cương quyết ở lại những năm tháng cuối đời.
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào