Không phải mọi vấn đề đều cần một ứng dụng
Thái Bảo Ngọc/VSF
12/11/2025
Blockchain trở thành ứng cử viên cứu trợ sáng giá trong bối cảnh tổn thương, khủng hoảng và phúc lợi xã hội. - (C): Vietnam Strategic Forum (ảnh do AI tạo)
Với giả định rằng công nghệ là một lực lượng trung lập và tất yếu tiến bộ, chủ nghĩa giải pháp công nghệ hấp dẫn vì mang lại cảm giác hành động và đổi mới, thậm chí khiến con người đánh đổi công việc khó khăn của trách nhiệm đạo đức để đổi lấy sự thoải mái hoặc xoa dịu lương tâm từ máy móc.
“Thêm một app nữa”
Liệu công nghệ có thể giải quyết các vấn đề xã hội bằng cách quy giản chúng thành những thách thức kỹ thuật? Câu trả lời là có, đối với nhiều ông lớn và nhà khởi nghiệp công nghệ, hoặc những cá nhân tôn thờ techno-fix (sửa chữa công nghệ) – thuật ngữ do nhà vật lý hạt nhân Alvin Weinberg đề xuất vào những năm 1960. Sự lạc quan mù quáng vào công nghệ này, hay còn gọi là Chủ nghĩa giải pháp công nghệ (techno-solutionism), đã được hệ thống hóa trong cuốn sách Nhấp chuột để cứu cả thế giới (To Save Everything, Click Here) của Evgeny Morozov, một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Belarus trong lĩnh vực phê bình công nghệ hiện đại.
Những lời kêu gọi áp dụng các giải pháp công nghệ – có thể là phát minh công nghệ mới hoặc triển khai tốt hơn công nghệ hiện tại – thường né tránh, hoặc đơn giản hóa quá mức những câu hỏi nền tảng liên quan đến cơ sở xã hội (social base) của vấn đề.
Trớ trêu thay, chính Liên Hợp Quốc cũng mô tả nhiều Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) như những vấn đề xã hội có thể được khắc phục bằng công nghệ và tăng trưởng. Theo trang web của Bộ Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc, việc xóa đói giảm nghèo và tái định hướng các quỹ đạo phát triển thiếu bền vững trong giai đoạn 2015–2030 đòi hỏi các giải pháp công nghệ phải được phát triển và phổ biến rộng rãi với giá cả phải chăng trong vòng 15 năm tới.
Và họ không đơn độc – nhiều tổ chức toàn cầu khác cũng đang lựa chọn diễn ngôn quyết định luận công nghệ và tân tự do (neoliberal, techno-determinist discourse) này khi xác lập các mục tiêu cốt lõi. Chẳng hạn, trong các báo cáo của mình, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) thường xuyên nhấn mạnh vai trò của đổi mới công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, đặc biệt ở các quốc gia Nam Bán cầu.
Đó là niềm tin rằng công nghệ số có thể phá vỡ bất bình đẳng và bất cân xứng quyền lực do chủ nghĩa tư bản tạo ra, cũng như xây dựng nền kinh tế xanh và mang lại các cơ hội kinh doanh bền vững mà không cần phải thách thức hiện trạng.
Như thể hạnh phúc cá nhân lẫn thịnh vượng tập thể đều có thể được mua kèm trong gói cài đặt của công nghệ mới nhất. Nếu có điều gì không vận hành như kỳ vọng, thì chắc hẳn chỉ vì ai đó chưa kịp cập nhật phiên bản tân tiến hơn, hoặc quyền truy cập vẫn chưa đủ bao trùm.
Cơ giới hóa đạo đức: Giảm đau nhanh, chữa sai bệnh
Theo định nghĩa của Morozov, chủ nghĩa giải pháp công nghệ thường giả định bản chất vấn đề thay vì nghiên cứu chúng, và vội vã tìm lời giải trước khi đặt ra những câu hỏi đúng. Xu hướng này tương đồng với lối tư duy sai lầm phổ biến trong đổi mới và ứng dụng công nghệ vào kinh doanh – “công nghệ chỉ để phô trương công nghệ” (tech for tech’s sake) hoặc “đổi mới chỉ để chứng minh mình đang đổi mới” (innovation for its own sake), khiến hiệu quả vận dụng bị lu mờ bởi khoe mẽ kỹ thuật. Mọi vấn đề phức tạp dường như đều có thể bị giới hạn trong tầm nhìn kỹ trị, bằng cách giản lược thành các giới hạn mà công nghệ số có thể can thiệp (giảm bớt sự kém hiệu quả và mơ hồ, gia tăng tính minh bạch, v.v) – như thể đó là toàn bộ bản chất của tiến bộ.
Cách hiểu nông cạn, hay thậm chí là bịa đặt vấn đề do làm ngơ trước những nguyên nhân hệ thống (các cấu trúc chính trị, xã hội và kinh tế phức tạp góp phần củng cố vấn đề ấy), thể hiện rõ trong cách nền tảng Facebook từng quảng bá mình như một giải pháp cho vấn đề hiểu lầm toàn cầu (global misunderstanding - sự thiếu vắng kết nối và đối thoại giữa các nền văn hóa) và chủ nghĩa bộ lạc (tribalism - tâm lý gắn bó và hành động theo phe nhóm, bản sắc tập thể của mình) trong những năm đầu của kỷ nguyên mạng xã hội. Lý tưởng ngây thơ ấy cho rằng mọi người sẽ hòa thuận hơn nếu giao tiếp với nhau dễ dàng hơn, từ đó dần tháo gỡ các định kiến và bất công. Kết nối nhiều hơn tựa như đồng nghĩa với hiểu biết hơn, và tốc độ truyền tin chính là cộng sự then chốt.
Tuy nhiên, theo Morozov, sự tập trung vào việc loại bỏ các rào cản trong quá trình giao tiếp thể hiện cách nhìn nhận ngây thơ về bản chất vấn đề. Khi xem rào cản kỹ thuật là nguyên nhân chính của những bất đồng lẫn nghi kỵ lâu đời, ta đã vô tình quy giản những cơ chế và mâu thuẫn lịch sử vốn định hình và duy trì xung đột – chẳng hạn như thông điệp nào được lắng nghe và thông điệp nào bị kiểm soát – thành lỗi thiết kế trong hệ thống giao tiếp. Sự hời hợt này phản ánh một tư duy kỹ thuật cực đoan (extreme engineering mindset).
Tư duy thiên vị như vậy cũng thể hiện trong cách Liên hiệp châu Âu (EU) đề xuất Quy định phòng chống lạm dụng tình dục trẻ em vào năm 2024 nhằm ứng phó với lo ngại toàn cầu về an toàn mạng cho trẻ em. Phân tích Quy định cho thấy hai đặc trưng của chủ nghĩa giải pháp công nghệ:
Thứ nhất, họ đã giả định vấn đề thay vì điều tra nguyên nhân. Quy định tập trung vào việc phát hiện và báo cáo nội dung khiêu dâm trẻ em trực tuyến (CSAM - Child Sexual Abuse Material) bằng công nghệ, nhưng lại không xác định nguồn gốc hay động cơ xã hội của hành vi xâm hại. Chỉ phát hiện nội dung lạm dụng trực tuyến (bao gồm cả do AI tạo ra) không thể đồng nghĩa với việc giảm thiểu bạo lực tình dục trẻ em trong thực tế, bởi nó không chạm đến tầng gốc của vấn đề – nghèo đói, bất bình đẳng giới, cơ chế bảo vệ trẻ em yếu kém, hay việc thương mại hóa hình ảnh trẻ em trên môi trường số.
Thứ hai, Quy định đã đặt niềm tin mù quáng vào công nghệ giám sát chưa tồn tại, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet vận hành hệ thống nhận diện và ngăn chặn sự phát tán CSAM dù bấy giờ chưa có công cụ nào chứng minh được hiệu quả như vậy. EU cũng bỏ qua bước nghiên cứu các bằng chứng thực nghiệm về việc liệu các phát hiện ấy có thực sự dẫn đến truy tố, kết án tội phạm, và bảo vệ được nạn nhân hay không.
Tựu trung, thay vì truy xét những yếu tố cấu trúc tạo điều kiện cho lạm dụng tình dục trẻ em nói chung, việc EU chỉ tập trung nâng cấp kỹ thuật giám sát trên mạng thể hiện rõ niềm tin rằng thuật toán có thể thay thế cho cải cách xã hội.
Trong ngữ cảnh đạo đức môi trường, lối tư duy ấy gần gũi với chủ nghĩa Prometheus (Prometheanism) – niềm tin thái quá vào năng lực con người (đặc biệt là thông qua công nghệ) để giải quyết mọi vấn đề môi trường, kể cả việc thay thế các chức năng tự nhiên của hệ sinh thái (điều hòa khí hậu, lọc nước, duy trì đa dạng sinh học, v.v) bằng giải pháp nhân tạo – chẳng hạn như địa kỹ thuật (geoengineering) hay công nghệ hấp thụ carbon. Chủ nghĩa Prometheus bắt nguồn từ Prometheus, một vị thần khổng lồ trong thần thoại Hy Lạp đã đánh cắp lửa từ các vị thần khác để ban cho loài người. Ngọn lửa này thường được hiểu là “techne” – biểu tượng cho trí tuệ, tham vọng và khả năng thách thức giới hạn tự nhiên của loài người nhờ vào sức mạnh công nghệ ngày càng tăng.
Như thể con người hoàn toàn có khả năng điều phối Trái Đất như một bản cập nhật phần mềm, với bất kỳ lỗi sinh thái nào cũng sẽ được “vá” dần ở phiên bản sau.
Và khi xem công nghệ là chìa khóa cứu rỗi cho khủng hoảng sinh thái, logic Promethianism hay technosolutionism thực chất đang né tránh việc đối diện với sự thật bất tiện hơn: điều cần “sửa lỗi” không nằm ở tự nhiên, mà trong chính hệ điều hành của chủ nghĩa tư bản – nơi tiêu dùng vô độ được gọi là phát triển và cơn khát tăng trưởng được xem trọng trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Quan điểm ấy cũng phổ biến trong giới cybertarian (nhóm người tin rằng công nghệ và thị trường tự do, chứ không phải chính phủ, là giải pháp cho mọi vấn đề xã hội, bao gồm cả biến đổi khí hậu) ở Thung lũng Silicon. Không ngạc nhiên khi cách thức biện minh tinh vi cho hiện trạng này được các tập đoàn lớn, vốn lâu nay phản đối nhiều chính sách ứng phó thách thức khí hậu, nhiệt tình tiếp nhận.
Một giấc mơ hoàn hảo cho chủ nghĩa tư bản hiện đại: vừa cứu rỗi Trái Đất, vừa cứu vãn lợi nhuận – như thể khủng hoảng chỉ là một cơ hội đầu tư khác.
Ngoài việc xem nhẹ các vấn đề cấu trúc, chủ nghĩa giải pháp công nghệ thường chỉ tận dụng tối thiểu các công cụ quyền lực chính trị hay động cơ kinh tế nhằm thay đổi hành vi cá nhân, đồng thời ít đòi hỏi phải cải tổ các chuẩn mực hiện hành. Chẳng hạn, xe điện góp phần giảm ô nhiễm không khí và khí thải nhà kính; tuy nhiên, nhiều người lại ngộ nhận rằng chỉ cần chuyển sang xe điện là đủ – mà không cần điều chỉnh đáng kể thói quen đi lại hay cấu trúc hạ tầng giao thông đô thị hiện hữu. Một ví dụ khác là việc gia tăng sử dụng thuốc vốn được phát triển để điều trị tiểu đường cho mục đích chống béo phì mà không kèm theo thay đổi căn bản nào trong thói quen ăn uống, tập thể dục hay trong cấu trúc hệ thống thực phẩm của xã hội.
Token hóa lòng trắc ẩn: Blockchain trong logic của techno-solutionism
Xuất hiện như một hậu bối của tầm nhìn techno-solutionism, chủ nghĩa nhân đạo blockchain (blockchain humanitarianism) thể hiện cách blockchain – công nghệ chuỗi khối cho phép lưu trữ dữ liệu phân tán mà không cần trung gian kiểm soát – ngày càng được quảng bá và thử nghiệm không chỉ như một công cụ tài chính và thương mại mà còn là chiếc đũa thần mới của lòng nhân đạo toàn cầu. Với thế mạnh truy xuất nguồn gốc, công nghệ này được kỳ vọng sẽ giúp cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong phân phối viện trợ.
Không phải ngẫu nhiên mà blockchain trở thành ứng cử viên cứu trợ sáng giá trong bối cảnh tổn thương, khủng hoảng và phúc lợi xã hội. Chiến lược truyền thông của ngành tiền mã hóa (crypto) và các diễn ngôn blockchain (blockchain discourse) vốn thường tự gắn chúng với các giá trị như “tài chính bao trùm,” “tự do khỏi ngân hàng trung ương,” “trao quyền cho cộng đồng”, “chống chủ nghĩa độc tài” (anti-authoritarianism), v.v. nhằm tạo ấn tượng rằng tầm nhìn của blockchain và crypto song hành với những chương trình phát triển quốc tế “vì con người”.
Cần làm rõ rằng, động cơ lợi nhuận mạnh mẽ ẩn trong các tuyên bố vị tha của nhiều doanh nhân công nghệ không nhất thiết phải bị phê phán, miễn là họ thực sự không hề sáo rỗng về khả năng hỗ trợ thế giới tốt đẹp hơn. Trong nhiều trường hợp, khi được tiến hành một cách có trách nhiệm cùng với nguồn lực hiệu quả, chính những thực thể ích kỷ (hay động lực thị trường) có thể thúc đẩy chuyển đổi tích cực cho xã hội.
Tuy nhiên, vì động cơ kinh tế hoặc đạo đức không tĩnh tại, rủi ro xê dịch quá đà của phía vị kỷ vẫn luôn hiện diện. Khi “tác động xã hội” được quy đổi thành chỉ số đầu tư, logic thị trường bắt đầu định hình lại ý nghĩa của nhân đạo. Hiệu quả cứu trợ có thể không còn được đo bằng mức độ cải thiện cuộc sống hay giảm thiểu tổn thương, mà bằng khả năng thu hút vốn, lượt truy cập nền tảng, hay số lượng token được giao dịch. Trong bối cảnh đó, “cứu trợ” dễ dàng trở thành một chiến lược thương hiệu – nó mang tính trình diễn (performative), hướng vào khả năng kể chuyện và tạo niềm tin cho nhà đầu tư hơn là phục vụ người thụ hưởng thực sự.
Mặt trái này từng được quản trị viên chính của Cash4Work – một dự án thí điểm được đối tác The Blockchain Pilot hỗ trợ triển khai tại các trại tị nạn Al-Za’atari và Al-Azraq ở Jordan nhằm hỗ trợ sinh kế có điều kiện cho phụ nữ tị nạn – thừa nhận với nhà nhân chủng học kỹ thuật số (digital anthropologist) Margie Cheesman rằng: “Các nhà tài trợ thích nghe chúng tôi sử dụng blockchain vì họ đề cao sự đổi mới, đặc biệt trong việc nâng cao hiệu quả vận hành và khả năng theo dõi minh bạch dòng tiền đầu tư của họ. Và như ai cũng biết, trong lĩnh vực viện trợ nhân đạo, các nhà tài trợ chính là ‘tất cả’ (the be all and end all) – họ quyết định mọi thứ.”
Cụ thể, Cash4Work (2018-2019) vận hành trên một hệ thống blockchain riêng tư và được cấp phép (permissioned), với quyền xử lý giao dịch chỉ thuộc về quản trị viên của các tổ chức viện trợ. Công nghệ mới không trao quyền cho người nhận, vì các ví kỹ thuật số thực chất do Cash4Work kiểm soát chứ không phải của chính họ – họ không thể truy cập số dư hay hồ sơ giao dịch trên thiết bị cá nhân, không thể nạp tiền mà chỉ có thể rút. Hệ thống này cũng không còn cho phép nhân viên cứu trợ trao tiền mặt và hỗ trợ thông tin tại các trung tâm phụ nữ (women’s centers - điểm tiếp xúc nhân đạo trực tiếp của các các trại tị nạn), mà thay bằng việc thanh toán qua thu ngân siêu thị – những người không có thẩm quyền hay chuyên môn để xử lý sự cố thanh toán. Khi người nhận bị nợ lương (người tị nạn tham gia các công việc được tổ chức như dọn dẹp, duy tu cơ sở hạ tầng trong trại tị nạn hoặc cộng đồng để được trả lương), họ bị đùn đẩy trách nhiệm qua lại giữa bộ phận thu ngân và nhân viên trại.
Báo cáo mô tả những hiện tượng ấy là “khoảng trống” (disappearances) – điểm mù và sự lệch pha giữa kiến thức kỹ thuật và thực tại xã hội, nảy sinh ngay trong quá trình thiết kế và duy trì vận hành hằng ngày cho blockchain. Chính sự phụ thuộc vào diễn ngôn kỹ thuật mơ hồ để thu hút nguồn tài trợ đã tạo nên khoảng trống hiểu biết giữa các bên tham gia, qua đó gây suy giảm hiệu quả thực thi của dự án.
Thậm chí, khi đối mặt với những phê bình từ người tị nạn, ban quản trị dự án còn đánh lạc hướng – chuyển trọng tâm thảo luận khỏi cảm nhận (ưu tiên, sở thích) của người thụ hưởng và kiến thức quan trọng về chính sách trại tị nạn sang những chỉ số định lượng, chẳng hạn như tốc độ giao dịch và mức giảm chi phí giao dịch đến 90% của các khoản chuyển tiền viện trợ so với trước đây, nhờ tránh các trung gian tài chính truyền thống (ngân hàng địa phương).
Không ngạc nhiên khi một số người gọi các blockchain riêng tư với quyền can thiệp dữ liệu thuộc về vài cơ quan viện trợ được cấp phép như vậy là “các bảng tính được tô vẽ, thổi phồng” (glorified spreadsheets). Cụm này được dùng để mỉa mai những ứng dụng blockchain vốn không có đặc điểm phân quyền và chống giả mạo thực sự mà chỉ ghi chép dữ liệu lên chuỗi khối như một bảng Excel khổng lồ và vẫn được điều hành tập trung – cả người tị nạn lẫn nhân viên cứu trợ đều không thể truy cập hay kiểm chứng thông tin.
Mặc dù không nhất thiết phải mong đợi nhân viên cứu trợ hiểu rõ cơ chế hoạt động bên trong công nghệ, nhưng họ cần hiểu được những tác động thực tiễn và hiệu quả của chúng đối với công việc của mình, từ đó tạo điều kiện cho các quyết định sáng suốt liên quan đến dịch vụ cung cấp và cộng đồng người dùng cuối.
Đối với trường hợp này, “blockchain” thực chất chỉ mang tính trình diễn ngôn ngữ đổi mới (innovation rhetoric), vì nó chỉ nhằm tạo hào quang công nghệ để hợp thức hóa một dự án vốn dĩ có thể được vận hành bằng cơ sở dữ liệu thông thường. Như vậy, Cash4Work chính là một dự án “BINO” (Blockchain In Name Only - Blockchain Chỉ Trên Danh Nghĩa). Thậm chí trong giới công nghệ, câu nói “cứ đem nó lên blockchain đi!” (put it on a blockchain) đã trở thành khẩu hiệu châm biếm cho sự phản kháng trước cơn sốt giải pháp công nghệ.
Nhìn chung, kể cả khi xuất phát từ thiện ý, động lực nhân đạo vẫn dễ dàng rơi vào bẫy định hình vấn đề và giải pháp trong giới hạn diễn giải do các nhà đầu tư mạo hiểm, các nhà phát triển công nghệ và giới tỷ phú tiền mã hóa kiến tạo.
Từ lòng trắc ẩn đến quyền kiểm soát: Cái bẫy thực dân trong đổi mới công nghệ
Tương tự nhiều dự án hạ tầng dữ liệu khác trong bối cảnh hậu thuộc địa (postcolonial settings), việc triển khai blockchain trong Cash4Work phản ánh sự phân tầng lao động về giá trị (differentially valued divisions of labour). Cụ thể, lao động kỹ thuật cao (như kiến trúc phần mềm, quản trị dữ liệu) được định giá cao và thường do các đối tác công nghệ phương Tây (Bắc Bán cầu) đảm nhiệm. Trong khi đó, tri thức địa phương (như quản lý trại, nhân viên thu ngân, đội ngũ hỗ trợ người thụ hưởng) bị xem nhẹ và bị gạt ra ngoài quá trình ra quyết định về thiết kế xã hội của công nghệ – cách công nghệ được định hình, điều chỉnh và vận hành trong thực tế hằng ngày.
Trong một số trường hợp, các nhân viên ngoại quốc vô tình tái sản xuất những định kiến phương Đông (Orientalism) khi nhìn nhận các nhân viên người Jordan của Cash4Work – phần lớn là phụ nữ Ả Rập – như những người chậm chạp và lạc hậu cần được tri thức phương Tây cứu rỗi hơn là trao quyền. Biểu hiện này cũng phản ánh tư duy “dĩ Âu vi trung” (Eurocentrism) và chủ nghĩa cứu thế da trắng (white saviourism), vốn vẫn thấm sâu trong nhiều hoạt động viện trợ tại các quốc gia nói tiếng Ả Rập.
Như vậy, giá trị và tính chính chính danh của giải pháp không nằm ở nhu cầu địa phương mà nằm ở công nghệ và năng lực của đội ngũ “phương Tây”. Cả nhân viên cứu trợ địa phương lẫn người tị nạn đều trở thành những bên thụ động tiếp nhận các dự án viện trợ gia trưởng “trên bảo dưới nghe” (“top down” paternalistic aid projects) – vốn mang tư duy ban ơn và áp đặt. Đây chính là sự thực dân hóa công nghệ – quyền lực tri thức, chuẩn mực công nghệ, diễn ngôn đổi mới và hệ giá trị của phương Tây tiếp tục chi phối các xã hội hậu thuộc địa.
Chưa kể, lý tưởng quản trị của blockchain dựa trên nguyên tắc dữ liệu bất biến (immutable data) tiềm ẩn những rủi ro chính trị và đạo đức sâu sắc. Chính tính bất biến khiến dữ liệu của các cộng đồng yếu thế có thể bị lưu trữ vĩnh viễn mà không thể xóa hoặc chỉnh sửa, từ đó mở ra khả năng truy cập và giám sát dài hạn vượt ra ngoài mục đích ban đầu của dự án. Các cơ quan hành chính trung gian, nhà thầu an ninh (security contractors), tổ chức tình báo tư nhân, hay cơ quan chính phủ nước ngoài có thể khai thác kho dữ liệu này để phân tích hành vi, di chuyển, hoặc mô hình nhân khẩu học ở khu vực xung đột. Khi đó, dữ liệu được tạo ra với mục đích hỗ trợ cộng đồng lại bị biến thành công cụ phục vụ cho việc hoạch định chính sách can thiệp, kiểm soát di cư, thao túng nguồn viện trợ, hay thậm chí củng cố các chiến lược ảnh hưởng nhằm gián tiếp duy trì trật tự quyền lực bất cân xứng trong khu vực.
Một ví dụ điển hình là Biên bản ghi nhớ (MOU - Memorandum of Understanding) giữa chính phủ Papua New Guinea và Ledger Atlas, một công ty Mỹ được chống lưng bởi Tim Draper – nhà đầu tư mạo hiểm và nhà truyền bá Bitcoin nổi tiếng ở Thung lũng Silicon. Biên bản này đề xuất chuyển một phần lãnh thổ Papua New Guinea thành đặc khu kinh tế blockchain “ngoài lãnh thổ” (extraterritorial zone) – một không gian thử nghiệm công nghệ mà luật lệ và chủ quyền quốc gia tạm thời bị “treo”. Ledger Atlas sẽ hoạt động như một thực thể hành chính độc lập chịu trách nhiệm quản lý khu vực ấy.
Cấu trúc này phơi bày chiến thuật hợp pháp hóa (legitimacy play) – kết hợp danh nghĩa đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế với sự chấp thuận hợp pháp của nhà nước. Từ đây, các doanh nghiệp và quỹ đầu tư đến từ trung tâm quyền lực toàn cầu như Ledger Atlas có thể hợp thức hóa việc chiếm hữu và kiểm soát hạ tầng dữ liệu lẫn dòng giá trị số ở những không gian ngoại vi (đặc khu, cộng đồng, hoặc quốc gia).
Tựu trung, những thất bại của các dự án blockchain nhân đạo không chỉ bắt nguồn từ giới hạn kỹ thuật hay năng lực thực thi, mà còn từ sự ràng buộc mang tính cấu trúc của chính chúng trong bộ máy quan hệ công chúng (PR) vận hành theo logic chủ nghĩa giải pháp công nghệ và nền kinh tế đầu cơ tiền mã hóa (tích lũy tư bản kỹ thuật số). Đối với các nhà phát triển và nhà truyền bá blockchain, ngôn ngữ và biểu tượng nhân đạo trở thành tấm bình phong truyền thông để đánh lạc hướng những câu hỏi cốt lõi về chi phí môi trường khổng lồ, sự tập trung quyền lực và của cải vào tay một thiểu số nhà đầu cơ, cũng như vai trò của tiền mã hóa trong việc tiếp tay cho các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia như rửa tiền, trốn thuế hay tài trợ bất hợp pháp.
Tránh trở thành một xã hội phúc lợi kỹ thuật số phản địa đàng (digital welfare dystopia): Bài học cho Việt Nam
Từ các sáng kiến chính phủ điện tử như Cổng Dịch vụ Công Quốc gia, hệ thống định danh VNeID cho đến nông nghiệp thông minh, cụm từ “chuyển đổi số” đã và đang thấm sâu vào các chiến lược phát triển giáo dục, y tế hoặc nông thôn mới của đất nước. Theo Quyết định số 749/QĐ-TTg, Chính phủ định hướng đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành quốc gia số ổn định, thịnh vượng và tiên phong thử nghiệm công nghệ mới, đồng thời đổi mới toàn diện quản lý nhà nước, hoạt động doanh nghiệp và đời sống xã hội trong một môi trường số an toàn và nhân văn.
Những năm gần đây, nhiều dự án ứng dụng blockchain trong nông nghiệp đã được thử nghiệm. Các nền tảng như FarmTrust truy xuất gạo Tám Xoan, Agridential của Vietnam Blockchain Corporation truy vết xoài Đồng Tháp đạt chuẩn VietGAP-GlobalGAP (các tiêu chuẩn về Thực hành Nông nghiệp Tốt), hay VinEco và TH True Milk minh bạch hóa chuỗi cung ứng chứng minh công nghệ có thể gia tăng tính minh bạch và niềm tin vào thương hiệu nông sản Việt. Đây chính là những đóng góp thực tế cho quá trình chuyển đổi số của Việt Nam.
Tuy nhiên, chính trong quá trình ấy, Việt Nam cần tránh rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa giải pháp công nghệ. Điều này không chỉ đúng với blockchain, mà còn với AI, dữ liệu lớn, Internet vạn vật hay điện toán đám mây – những lĩnh vực đang được thúc đẩy mạnh mẽ trong chuyển đổi số. Công nghệ, nếu không được gắn chặt với việc nâng cao nhận thức xã hội, hiểu biết bối cảnh địa phương và cải cách năng lực thể chế, rất dễ trở thành lời hứa trừu tượng và bị dẫn dắt bởi các mô hình nước ngoài không tương thích – đặc biệt khi chuyển đổi số tại Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc nhiều vào các hệ thống nền tảng sẵn có trên thế giới, do chưa làm chủ được nhiều công nghệ lõi.
Phần lớn những hạ tầng điện toán đám mây và dịch vụ dữ liệu quan trọng như Amazon Web Services, Google Cloud hay Microsoft Azure; các bộ công cụ AI của OpenAI, Google hoặc các chuẩn blockchain phổ biến, đều đang chi phối không gian công nghệ trong nước. Việc phát triển các công cụ AI tạo sinh bản địa, chẳng hạn, có thể giảm thiểu sự thiên vị liên quan đến lợi ích chính trị hoặc thương mại nước ngoài, đồng thời giúp Việt Nam thích ứng với những ràng buộc quốc tế về công nghệ và dữ liệu. Nỗ lực này đặc biệt quan trọng khi các dịch vụ từ những tập đoàn Mỹ, như Amazon, phải tuân thủ luật xuất khẩu của Mỹ – qua đó có thể hạn chế quyền truy cập dựa trên các mối quan hệ địa chính trị. Cụ thể, quyền chủ động số của Việt Nam có thể bị thu hẹp nếu quan hệ giữa Hà Nội với Washington xấu đi.
Trường hợp của chị Mai Anh – một cựu sinh viên Đại học FPT cùng với đồng nghiệp phát triển nền tảng thongtincuuho.org tập trung dữ liệu cứu hộ cho người dân hứng chịu lũ lụt ở Thái Nguyên – phản ánh tinh thần chuyển đổi số mà Việt Nam cần: lấy con người làm trung tâm, công nghệ làm công cụ, và tri thức bản địa làm nền tảng. Mô hình này cần được nhân rộng và phát triển để giúp xã hội Việt Nam củng cố quyền tự chủ số (digital sovereignty), đồng thời tránh sa vào cạm bẫy thần thánh hóa công nghệ hay biến nó thành phương tiện phô trương rỗng tuếch, nhằm bảo đảm rằng đổi mới công nghệ luôn phục vụ lợi ích thiết thực cho cộng đồng.
Bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tốc độ tiếp thu và làm chủ công nghệ sẽ tiếp tục định hình năng lực cạnh tranh và tầm vóc của Việt Nam. Quan trọng hơn, chính cách chúng ta kiến tạo sức mạnh công nghệ trên nền tảng nhân văn, tôn trọng phẩm giá và quyền tự quyết của người thụ hưởng mới là thước đo đích thực cho tầm vóc phát triển bền vững.
Thái Bảo Ngọc hiện là sinh viên ngành Kinh doanh và Công nghệ tại Đại học RMIT Việt Nam. Mối quan tâm của Ngọc là Blockchain, trí tuệ nhân tạo, quan hệ quốc tế, văn hoá và truyền thông. Độc giả có thể trao đổi với tác giả qua email: ngocthaijune@gmail.com.
VSF
Không có nhận xét nào