CaoBao Do is in Hanoi, Vietnam.
24/11/2025
Trong quá trình đi tìm câu trả lời từ các tổ chức khoa học quốc tế có uy tín cho câu hỏi “Thủy điện có phải là tác nhân gây ra lũ lụt ở hạ lưu không?”, tôi tìm thấy một nghiên cứu mới nhất của AGU được công bố vào ngày 25/9/2025 với tiêu đề “Thủy điện có khiến thế giới dễ bị lũ lụt hơn không?”
AGU là viết tắt của Advancing Earth and Space Sciences - Liên minh Địa vật lý Hoa Kỳ, tổ chức khoa học phi lợi nhuận chuyên phát triển khoa học Trái Đất và Không gian, bao gồm cả khí quyển, đại dương, thủy văn, không gian và hành tinh.
Nghiên cứu của AGU xem xét nghiêm túc mối quan hệ phức tạp giữa phát triển thủy điện và rủi ro lũ lụt thông qua phân tích 107 đập thủy điện lớn ở các khu vực khác nhau trên thế giới kéo dài trong khoảng thời gian 40 năm.
NGUYÊN TẮC CHỌN THỦY ĐIỆN NGHIÊN CỨU:
AGU tìm kiếm toàn diện từ hơn 7.000+ đập lớn và lọc nó theo địa hình và khí hậu thủy văn để chọn ra các thủy điện ở những khu vực có địa hình dốc cao, uốn lượn và lượng mưa cao (trên 1.900mm một năm), sau đó loại bỏ các đập thủy điện ở Na Uy, Nhật Bản, Mỹ là những quốc gia có thu nhập cao để tập trung nghiên cứu vào khu vực các nước kinh tế đang phát triển.
Theo nguyên tắc này, AGU chọn ra 107 đập thủy điện ở Trung Mỹ (19 thủy điện), Nam Mỹ (18 thủy điện), Châu Phi (10 thủy điện), Nam Á (25 thủy điện) và Đông Nam Á (37 thủy điện, trong đó Việt Nam ~ 14 thủy điện).
DỮ LIỆU (chuyên môn hơi sâu):
Sử dụng đầy đủ dữ liệu viễn thám vệ tinh và quan sát Trái đất trong hơn 40 năm (dữ liệu vệ tinh có thể cung cấp nhiều thông tin và hiểu biết có giá trị về biến đổi thủy văn, sử dụng đất và hoạt động của hồ chứa).
Bằng cách kết hợp ước tính mực nước với dữ liệu diện tích bề mặt viễn thám, có thể ước tính những thay đổi trong lưu trữ hồ chứa. Những biến thể này, cùng với dữ liệu dòng chảy vào dựa trên mô hình thủy văn, cho phép tính toán lượng xả hồ chứa thông qua việc sử dụng các phương trình cân bằng nước.
Dữ liệu khí hậu được sử dụng làm nguồn cho hồ sơ dài hạn, độ phân giải cao về lượng mưa, nhiệt độ và tốc độ gió. Các bộ dữ liệu này cho phép tái tạo dòng chảy lịch sử, tốc độ bốc hơi của hồ chứa và sự thay đổi lượng mưa, tạo nền tảng vững chắc để hiểu các tác động khí hậu dài hạn đối với hoạt động của hồ chứa.
Các bộ dữ liệu bổ sung được sử dụng là dân số, độ che phủ đất và bức xạ ánh sáng ban đêm. Bản đồ độ che phủ đất và dữ liệu ánh sáng ban đêm cung cấp thông tin quan trọng về kinh tế xã hội và sử dụng đất cũng như hoạt động của con người và nhu cầu năng lượng, trong khi lưới dân số cho phép đánh giá những thay đổi nhân khẩu học và mở rộng đô thị gần các hồ chứa thủy điện. Bản đồ che phủ đất cung cấp các bản cập nhật chi tiết hàng năm, cho phép theo dõi sự mất độ che phủ rừng, xu hướng đô thị hóa và mở rộng nông nghiệp ở thượng nguồn và hạ lưu của các hồ chứa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Sử dụng dữ liệu vệ tinh và dựa trên mô hình thủy văn để tạo ra dòng chảy hồ chứa, mô hình lưu trữ, xả nước và mức độ trong lũ lụt hạ lưu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Một phần đáng kể các vị trí đập thủy điện được phân tích đã chứng minh khả năng giảm thiểu rủi ro lũ lụt ở hạ lưu ở mức độ lớn. Tuy nhiên, khoảng 26,2% đập thủy điện được phát hiện có khả năng làm trầm trọng thêm nguy cơ lũ lụt ở hạ lưu, trong đó có khoảng 6% đập thủy điện được phát hiện có tác động bất lợi đáng kể đến tình hình lũ lụt với mức độ tin cậy cao.
Kết quả chi tiết:
1) Có 48 đập thủy điện (41,1%) có đặc tính giảm thiểu lũ lụt bằng cách đệm chống lại các dòng chảy cực đoan.
2) Có 28 đập thủy điện (26,2%) có khả năng làm trầm trọng thêm nguy cơ lũ lụt, chủ yếu là do tốc độ mưa tăng đều đặn và mất công suất hồ chứa do bồi lắng lâu ngày.
3) Nam Mỹ và Nam Á thể hiện sự tập trung cao hơn của các địa điểm "Có khả năng gây lũ lụt" và "Có khả năng gây lũ lụt (độ tin cậy cao)", phản ánh rủi ro lũ lụt đáng kể ở hạ lưu ở khu vực này.
4) Đông Nam Á có số lượng đập cao nhất được phân loại là "Có khả năng bảo vệ lũ lụt", cho thấy thực hành quản lý hồ chứa hiệu quả hơn hoặc điều kiện thủy văn thuận lợi ở khu vực này.
Trong 37 thủy điện ở Đông Nam Á được nghiên cứu có 32 thủy điện (86,49%) không làm cho lũ lụt tăng nên (trong đó có 17 thủy điện có khả năng làm giảm lũ lụt), chỉ có 5 thủy điện (13,51%) có khả năng làm trầm trọng thêm lũ lụt ở hạ lưu (trong đó có 3 thủy điện thuộc dạng có độ tin cậy cao)
Việt Nam, trong báo cáo của AGU không có con số tường minh, nhưng nhìn bản đồ minh họa đi kèm thì tôi đếm được 14 thủy điện, trong đó có 12 thủy điện (85,71%) không làm cho lũ lụt tăng thêm, chỉ có 2 thủy điện (14,28%) có khả năng làm trầm trọng thêm lũ lụt ở hạ lưu (ở dạng có độ tin cậy không cao).
Nguyên nhân khiến các thủy điện “có khả năng gây lũ lụt”:
1) Do thiên nhiên: lượng mưa cao, tăng trưởng lượng mưa trung bình hàng năm cao, xuất hiện nhiều các trận mưa cực đoan.
2) Do khu vực xung quanh thủy điện: đô thị hóa dưới hạ lưu tăng cao, diện tích rừng thượng lưu bị thu hẹp.
3) Do chính thủy điện: khả năng lưu trữ nước của hồ giảm do lắng đọng, diện tích bề mặt lòng hồ giảm, chiều dài hạ lưu sông ngắn.
BÌNH LUẬN
Thế giới có khoảng 90.000 thủy điện, AGU chọn ra 107 thủy điện (Việt Nam có 382 thủy điện, AGU chọn ra 14 thủy điện) mà họ cho rằng có nguy cơ tăng lũ lụt ở hạ lưu để làm đối tượng nghiên cứu, kết quả là số thủy điện “có khả năng gây lũ lụt” là 26,2% với toàn cầu và 14,28% với Việt Nam.
AGU cho rằng những thủy điện không nghiên cứu (chiếm 96,34% đến 98,8%) khả năng lớn là những thủy điện có tác dụng giảm thiểu lũ lụt (hay ít ra là không phải tác nhân gây ra lũ lụt ở hạ lưu). Vì vậy tỷ lệ thủy điện “có khả năng gây lũ lụt” thực tế thấp hơn nhiều, cũng như tỷ lệ thủy điện “có khả năng giảm thiểu lũ lụt” cao hơn nhiều.
Chưa hết, có đến 2/3 nguyên nhân khiến một thủy điện bị đánh giá là “có khả năng gây lũ lụt” là do các nguyên nhân bên ngoài thủy điện (thiên nhiên, đô thị hóa hạ lưu, rừng thượng lưu), chỉ có 1/3 nguyên nhân là do chính thủy điện mà thôi.
Cho đến thời điểm này, tôi mới tìm được một nghiên cứu khoa học này về chủ đề thuỷ điện làm giảm lũ lụt & tăng nguy cơ gây lũ lụt.
Ảnh: bản đồ kết quả nghiên cứu (xanh là giảm lũ lụt, ghi là mơ hồ, đỏ là có khả năng tăng lũ lụt).
https://www.facebook.com/share/p/17h3cfszax/
Góp ý:
Lê Công Thành
Góc nhìn phản biện: Khi con số thống kê cần được đọc bằng tư duy quản trị rủi ro
Chào bạn, trước hết tôi rất trân trọng nỗ lực của bạn trong việc tìm đọc và tóm tắt chi tiết báo cáo của AGU (tháng 9/2025). Việc tiếp cận nguồn dữ liệu gốc là nền tảng của mọi tranh luận khoa học. Tuy nhiên, từ góc độ chuyên môn về quản lý rủi ro thiên tai và kỹ thuật thủy lợi, tôi xin có một vài chia sẻ sâu hơn về phần "Bình luận" của bạn, nơi mà cách diễn giải số liệu có thể đang vô tình tạo ra một cảm giác an toàn chưa sát với thực tế.
Dưới đây là 3 điểm "mù" trong lập luận mà chúng ta cần nhìn nhận lại một cách nghiêm túc:
1. Đừng nhầm lẫn "Sự vắng mặt của bằng chứng" với "Bằng chứng của sự an toàn"
Bạn lập luận rằng AGU chỉ nghiên cứu 107 đập, suy ra hơn 96% đập còn lại trên thế giới (không được nghiên cứu) là an toàn hoặc giảm lũ. Đây là một lỗ hổng tư duy thống kê (Argument from Ignorance).
Các đập được AGU chọn là những Đập Lớn (Large Dams) có dữ liệu vệ tinh rõ ràng và quy trình vận hành được lưu trữ tốt trong 40 năm. Những đập không được chọn thường do thiếu dữ liệu, nằm ở vùng khuất hoặc quy mô nhỏ.
Ví dụ: Giống như việc chúng ta kiểm tra sức khỏe cho 10 người có điều kiện nhất và thấy 2 người bệnh, rồi vội vàng kết luận rằng 90 người còn lại (không có hồ sơ y tế) đều khỏe mạnh. Thực tế, rủi ro lớn nhất thường nằm ở "vùng tối dữ liệu" – nơi các công trình thiếu quy chuẩn đang vận hành.
2. Con số 26,2% là "Hồi chuông báo động", không phải "Thành tích"
Bạn nhận định tỷ lệ đập gây lũ là 26,2% (toàn cầu) và ~14% (Việt Nam) là thấp. Nhưng trong kỹ thuật an toàn dân sinh, đây là những con số không thể chấp nhận được.
Một công trình hạ tầng trọng điểm can thiệp vào tự nhiên mà có xác suất gây hại (làm lũ tệ hơn) lên tới hơn 1/4 là một thất bại về mặt quy hoạch hệ thống. Nếu ngành hàng không hay y tế chấp nhận tỷ lệ rủi ro này, xã hội sẽ tê liệt. Nghiên cứu của AGU thực chất là một lời cảnh báo đỏ: Cứ 4 đập lớn ở vùng núi thì có hơn 1 đập đang phản tác dụng. Chúng ta cần nhìn nó như một "lỗi hệ thống" cần sửa chữa gấp (nạo vét, thay đổi quy trình), chứ không phải dùng nó để an ủi rằng "đa số vẫn ổn".
3. "Thủy điện nhỏ" và sự khác biệt về địa hình Việt Nam
Đây là điểm quan trọng nhất mà bài viết của bạn đã bỏ qua. Nghiên cứu của AGU tập trung vào hồ chứa lớn (Reservoirs) có dung tích phòng lũ. Còn nỗi ám ảnh lũ lụt tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam phần lớn đến từ hàng trăm thủy điện nhỏ và vừa (dạng đập dâng/thủy điện dòng dẫn - Run-of-river).
Loại hình thủy điện nhỏ này (như hình minh họa) không có hồ chứa lớn để "cắt lũ" như đối tượng nghiên cứu của AGU. Khi lũ về, chúng buộc phải xả tràn ngay lập tức. Việc dùng số liệu của những "gã khổng lồ" có năng lực điều tiết để bao biện cho hàng trăm công trình nhỏ không có khả năng cắt lũ là một sự so sánh khập khiễng về mặt kỹ thuật.
Hơn nữa, báo cáo AGU cũng chỉ rõ: Sông càng ngắn và dốc, đập càng dễ gây lũ (Flood-inducing). Đây chính xác là đặc điểm địa hình của miền Trung Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu này thực tế đang xếp Việt Nam vào nhóm "nguy cơ cao", thay vì nhóm an toàn như bạn suy luận.
4. Về trách nhiệm thiết kế
Cuối cùng, việc đổ lỗi cho "nguyên nhân bên ngoài" (mưa cực đoan, biến đổi khí hậu) là chưa thỏa đáng về mặt triết lý kỹ thuật. Nhiệm vụ cốt tử của công trình thủy lợi là phải thích ứng (resilience) với môi trường. Nếu mưa lớn về mà công trình trở thành tác nhân làm lũ dữ hơn, thì đó là do công nghệ và quy trình vận hành đã lỗi thời, không theo kịp biến đổi khí hậu. Đó là lỗi chủ quan của con người trong tính toán, không phải lỗi của ông trời.
Lời kết chân thành
Nghiên cứu của AGU là một tài liệu khoa học quý giá vì sự trung thực của nó. Nó dũng cảm chỉ ra rằng huyền thoại "thủy điện luôn cắt lũ" đã không còn đúng trong kỷ nguyên biến đổi khí hậu.
Thay vì dùng nó như một tấm khiên để bảo vệ quan điểm "thủy điện vô tội", tôi mong chúng ta hãy dùng nó như một lời nhắc nhở để rà soát lại quy hoạch, loại bỏ các thủy điện nhỏ kém hiệu quả và nâng cấp quy trình vận hành cho các đập lớn. Đó mới là thái độ cầu thị cần thiết để bảo vệ sự bình yên cho hạ du.
—
Đây là nội dung phản biện được Gemini 3.0 Pro tổng hợp từ tư duy logic của nhà khoa học và kinh nghiệm thực tế của kỹ sư thủy lợi. Bài viết giữ giọng văn chân thành, xây dựng, nhưng kiên quyết bóc tách các ngụy biện để người đọc nhìn thẳng vào sự thật, bảo vệ trách nhiệm với cộng đồng.
Bài báo được trích dẫn: https://agupubs.onlinelibrary.wiley.com/.../2025EF006648
Thành Nguyễn
Em thấy nghiên cứu trên không đồng nhất với kết luận của anh . Nghiên cứu của AGU đưa ra nhiều thông tin hữu ích, nhưng có một số điểm cần được làm rõ để người đọc phân biệt rạch ròi giữa kết luận khoa học của họ và và cách diễn giải của anh.
1. Phạm vi nghiên cứu không đồng nghĩa với “đập còn lại đều an toàn”
AGU chọn 107 đập để phân tích vì các vị trí đó hội đủ đặc tính mà họ muốn nghiên cứu: địa hình dốc, mưa lớn, biến động thủy văn mạnh và nằm trong các quốc gia thu nhập thấp đến trung bình. Việc phần lớn các đập không nằm trong mẫu không có nghĩa chúng “an toàn” hoặc “ít rủi ro hơn”.
Đây đơn thuần là giới hạn mẫu nghiên cứu, không phải kết luận suy rộng.
2. Nghiên cứu thừa nhận rõ ràng một tỷ lệ đáng kể đập thủy điện làm tăng rủi ro lũ
Kết quả của AGU cho thấy:
• 26,2% đập trong mẫu có khả năng làm trầm trọng thêm lũ hạ lưu
• Khoảng 6% đập gây tác động bất lợi với độ tin cậy cao
Trong nghiên cứu về hạ tầng, con số 26% là một tỷ lệ rất lớn.
Điều này cho thấy tác động bất lợi không phải là ngoại lệ hiếm gặp.
3. Nguyên nhân gây hại không chỉ đến từ các yếu tố bên ngoài
AGU liệt kê nhiều yếu tố khiến một đập có xu hướng làm tăng lũ:
Mất dung tích hồ do bồi lắng
Chiều dài sông hạ lưu ngắn
Mưa cực đoan tăng nhanh
Thay đổi trong vận hành dẫn tới xả đột ngột
Suy giảm khả năng điều tiết do biến đổi khí hậu
Trong số này, nhiều yếu tố liên quan trực tiếp đến thiết kế và vận hành hồ chứa, chứ không chỉ là do thiên nhiên hay đô thị hóa xung quanh. Điều này cần được nhìn nhận cân bằng để tránh cảm giác rằng “thủy điện chỉ bị ảnh hưởng, không gây ra ảnh hưởng”.
4. Kết luận riêng cho từng quốc gia không được nêu rõ trong nghiên cứu
AGU công bố phân tích theo vùng, không đưa ra bảng số liệu chi tiết cho từng quốc gia. Do đó, các con số cụ thể cho Việt Nam nếu được ước tính từ bản đồ minh họa cần được hiểu rõ là ước lượng chủ quan, không phải dữ liệu chính thức.
5. Nghiên cứu nhấn mạnh tính hai mặt và rủi ro gia tăng
Nội dung cốt lõi của AGU là:
• Thủy điện có thể giảm lũ trong nhiều trường hợp
• Nhưng cũng có thể làm tăng lũ trong những điều kiện nhất định
• Biến đổi khí hậu và thay đổi thảm phủ làm hệ thống trở nên nhạy cảm hơn theo thời gian
• Không có mô hình nào luôn tuyệt đối an toàn nếu điều kiện nền thay đổi
Vì vậy, không thể dùng nghiên cứu này để kết luận rằng “thủy điện nói chung không làm tăng lũ”, cũng như không thể dùng nó để khẳng định “mọi thủy điện đều gây hại”.
Doan Vinh
Sản phẩm Thuỷ điện mới chỉ là một phần thôi Thày. Còn Quy trình vận hành bám sát theo Thời tiết và bản thân đội ngũ vận hành nữa.
Michael Dinh
Dữ liệu của anh đúng, nhưng đó không phải dữ liệu của hệ thống thủy điện "vận hành theo quy chuẩn VN".. cho nên arguement của anh đưa ra không áp dụng để diễn dịch cho hoàn cảnh và thực tế ở vùng lãnh thổ VN.
Ngoài ra, đây là chỉ số "gây ra lũ lụt" chứ không phải chỉ số "mức độ tác đông của lũ lụt".. kể cả 100% gây ra lũ lụt nhưng ở cường độ / mức độ thấp (gây mức nước tối đa 0.5m-1m) sẽ khác với gây ra mức 3m-4m là mức chết người diện rộng.
Thao Mai
Có lẽ có ai đó đang định hướng để bà con cãi nhau và đổ lỗi cho thuỷ điện, cho dù lỗi có là của thuỷ điện thì nếu có lũ lại như thế này thì hậu quả vẫn lớn như cũ. Lỗi lớn nhất là của bên dự báo và kế hoạch cứu hộ, mà tranh cãi vụ này chắc chắn sẽ tốn 7 củ rưỡi, nên bà con tranh cãi lỗi của thuỷ điện cho an toàn . Chuyện lũ là đương nhiên, xả lũ là đương nhiên, nhưng thiếu điểm tập kết an toàn, thiếu phương án cứu hộ, thiếu tàu + ca nô, thiếu diễn tập lũ lụt … không phải là chuyện đương nhiên.
Phạm Minh Trí
Em có thằng đệ ở vùng ngập lụt Đông Hoà, Phú Yên nói tình trạng khá giống bài sau của Gã Khờ:
“Có những văn bản pháp luật được viết ra để cứu người.
Nghị định 02/2023/NĐ-CP là một trong số đó. Nhưng luật nằm trên giấy. Còn nước lũ thì nằm trong nhà dân. Và giữa hai thứ ấy là một khoảng cách quá lớn - lớn đến mức người ta vẫn chết, dù đã có đầy đủ quy định về cảnh báo, về vận hành, về an toàn hạ du.
Câu hỏi đặt ra không phải: “Luật đúng hay sai?”
Câu hỏi là:
“Vì sao luật đúng, nhưng người dân vẫn không được bảo vệ?”
1. Nghị định yêu cầu cảnh báo sớm - nhưng cảnh báo đến khi nước vào bếp. Nghị định 02 yêu cầu:
• tin nhắn SMS;
• loa xã;
• còi hụ;
• bảng điện tử;
• báo trước đủ thời gian để di dời.
Nhưng thực tế tại Phú Yên – Gia Lai – Đắk Lắk – Khánh Hoà:
• có xã không nhận được tin nhắn vì mất sóng,
• có xã được báo sau khi nước đã lên cửa,
• có nơi loa xã tắt vì… mất điện,
• có nơi cán bộ địa phương còn không biết hồ xả lúc nào.
Cảnh báo không đến được dân → Nghị định 02 bị vô hiệu hoá ngay ở bước đơn giản nhất.
2. Nghị định yêu cầu “hạ mực nước hồ trước khi mưa”
— nhưng hồ vẫn đầy như chưa từng nghe dự báo
Nghị định 02 quy định rất rõ:
Phải chủ động hạ thấp mực nước để đón lũ dự báo.
Nhưng thực tế tại Sông Ba Hạ:
• trước đợt mưa lớn, lưu lượng xả thấp,
• hồ giữ nước ở mức gần đầy,
• đến khi mưa cực đoan ập xuống, hồ mất toàn bộ dung tích phòng lũ,
• buộc phải xả “nước về bao nhiêu – xả bấy nhiêu”.
Hậu quả không thể tránh:
16.100 m³/s xả vào hạ du như “cắt dây cho thác đổ”.
Nghị định yêu cầu phòng ngừa. Nhưng vận hành thì lại chạy theo sự đã rồi.
3. Nghị định yêu cầu bản đồ ngập lụt - nhưng dân đâu biết họ sống trong vùng nguy hiểm. Hồ chứa phải lập bản đồ ngập lụt theo nhiều kịch bản:
• xả thường,
• xả khẩn cấp,
• vỡ đập.
Tỉnh, huyện phải công khai để dân biết họ đang ở mức độ nguy cơ nào.
Nhưng xin hỏi:
• Có bao nhiêu người dân ở Hòa Thịnh – Sơn Giang biết họ sống trong vùng ngập sâu 3- 6 mét?
• Có ai được tập huấn đường thoát hiểm?
• Có ai biết “thời gian nước đến” là bao lâu?
• Có xã nào được diễn tập sơ tán theo kịch bản vỡ đập?
Nghị định có. Nhưng không được đưa đến tay người dân. Luật không cứu được người không biết luật tồn tại.
4. Nghị định yêu cầu phương án ứng phó khẩn cấp -
nhưng cứu hộ đến sau 2–4 ngày. Nghị định viết rõ:
• phải có phương án,
• phải tập huấn,
• phải diễn tập,
• phải kích hoạt ngay khi có nguy cơ.
Nhưng ở Đắk Lắk – Gia Lai – Bình Định:
• xã bị cô lập 3- 4 ngày,
• dân đói lạnh,
• trẻ con ngất lịm,
• người chết phải bó chiếu neo vào cột,
• cứu hộ chỉ đến khi “đường bay được”,
• nhiều nơi chỉ có đoàn cứu trợ tự phát mò vào trước.
Đó không phải “ứng phó khẩn cấp”. Đó là đến khi có thể, chứ không phải khi phải đến.
Nghị định yêu cầu “kích hoạt ngay”, nhưng thực tế lại là “chờ chỉ đạo”.
5. Nghị định yêu cầu minh bạch dữ liệu - nhưng dưới hạ du, dân mù thông tin.
Chủ hồ phải công khai:
• mực nước,
• lưu lượng xả,
• dự báo lũ,
• tình trạng hồ.
Nhưng người dân ở Sơn Giang – Phú Thứ - Hoà Thịnh - không ai biết hồ đang xả bao nhiêu.
Mù thông tin = mất khả năng tự cứu.
Nghị định có. Nhưng dữ liệu không “chảy”, chỉ có nước chảy.
6. Nghị định yêu cầu bồi thường khi sai phạm - nhưng “bất khả kháng” đang trở thành tấm áo cho mọi lỗi lầm.
Nếu:
• vận hành sai,
• cảnh báo thiếu,
• không hạ mực nước trước lũ,
→ phải bồi thường.
Nhưng thực tế: Chỉ cần một câu: “Mưa lịch sử - thiên tai cực đoan - sự kiện bất khả kháng.”… là mọi trách nhiệm được lau sạch như nước cuốn bùn. Bất khả kháng đúng - nhưng không phải mọi thứ đều bất khả kháng.
VÌ SAO NGHỊ ĐỊNH TỐT NHƯ THẾ, NHƯNG HẠ DU VẪN CHẾT? Gã xin nói thẳng: Vì chúng ta có luật – nhưng không có kỷ luật. Có quy trình – nhưng không có thực thi.
Có cảnh báo – nhưng không đến được dân. Có trách nhiệm – nhưng không ai chịu trách nhiệm.
Nghị định 02/2023 được viết ra rất chuẩn, rất nhân văn, rất đúng tinh thần hiện đại.
Nhưng:
• không thực hiện → vô nghĩa
• không giám sát → vô hiệu
• không xử lý sai phạm → vô luật
Và người phải trả giá cuối cùng lại là những người đứng thấp nhất trong xã hội, những người không có quyền hỏi, không có quyền chọn, không có cơ hội chạy.
Nghị định thì có, nhưng sinh mạng dân thì mất. Đợt lũ này để lại một câu hỏi treo lơ lửng trên đầu tất cả những người cầm quyền: Nếu mỗi điều trong Nghị định 02 được thực hiện đúng – liệu hôm nay chúng ta có còn phải đếm số người chết?
Gã tin rằng: Đã đến lúc phải đưa Nghị định xuống mặt đất.
Đưa pháp luật xuống từng mái nhà. Đưa cảnh báo đến từng người.
Và quan trọng nhất:
Đưa trách nhiệm về đúng nơi nó cần nằm.”
Justin Nguyen
Bài viết hay quá anh, có cơ sở nghiên cứu rõ ràng. Giờ thì nếu ai đã đọc bài này rồi mà còn đỗ thừa lũ tại thủy điện nữa thì chịu!
Do Huu Hung
Những bài ntn em nghĩ cực kỳ nên cẩn trọng anh Bảo ah
1. Điều gì xảy ra nếu chúng ta sai (khi đã tin vào report này): người dân sẽ chủ quan, cơ quan nhà nước, câc đơn vị vận hành thuỷ điện sẽ viện cớ để đổ những thiệt hại khủng khiếp cho yếu tố môi trường
2. Ngay cả khi report này đáng tin cậy & áp dụng được cho Việt Nam thì trên thế giới 26% đập gây nguy hiểm (dù chưa nghiên cứu đủ mẫu) và Việt Nam 14%. Cũng như chưa tính tới biến đổi khí hậu làm vượt ngưỡng mưa => tỷ lệ này tăng lên
Dù trong cả 2 trường hợp, sự cổ xuý cho người dân tin rằng Thuỷ điện ko gây ra (tức ko có vai trò gây nguy hiểm, thậm chí còn tốt) => là rất rủi ro! Những vấn đề như này nên đặt ra câu hỏi và dù trường hợp nào (tự nhiên) thì các bên: người dân, cơ quan nhà nước, cơ quan điều hành thuỷ lợi, đập...) phải tiến hành nhiều thay đổi => tránh những thảm hoạ như vừa qua!
Không có nhận xét nào