Nguyễn Xuân Xanh
25/11/2025
“…Nhưng, tôi nghĩ, nếu mình muốn trở về xây dựng đất nước thì không nên để những điều đó (tiêu cực) làm tâm hồn mình bị nặng nề. Hãy để trái tim mình nhẹ nhàng. Tất nhiên chuyện tiêu cực phải nhanh chóng được sửa đổi. Vấn đề quan trọng nhất là các bậc lãnh đạo phải thật sự là người trong sạch, làm gương sáng, tận tụy và sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân trước đại sự”. Phạm Gia Thụ
Phạm Gia Thụ
9 tháng 7, 1945 – 25 tháng 5, 2024, 79t
Anh chị thân mến,
Phạm Gia Thụ, một cựu sinh viên khoa toán những năm 1960 tại Đại học Khoa học Sài gòn, một nhà toán học thống kê có tên tuổi thế giới, có 37 năm công tác tại Đại học Moncton, Canada, nhận được nhiều giải thưởng quốc tế, vừa ra đi gày 25 tháng 5, 2024, sau thời gian chống chọi với bệnh hiếm MSA, teo đa hệ thống (Multiple Systems Atrophy) để lại muôn vàn thương tiếc cho gia đình, bạn bè và đất nước. Anh hưởng thọ 79 tuổi.
Phạm Gia Thụ sinh ra ngày 9 tháng 7 năm 1945 tại Ninh Bình, con của ông bà Phạm Gia Hệ và ông Nguyễn Thiện Bảo. Ông theo học trường Lycée Jean-Jacques Rousseau ở Sài Gòn và tỏ ra là một học sinh xuất sắc.
Trong giới bạn bè, anh la người có tác phong là một “chính khách” tương lai, tôi thầm nghỉ, phát biểu hay, sâu sắc trước công chúng. Có lẽ do anh được hưởng nền giáo dục Pháp thời Trung học.
Phạm Gia Thụ tốt nghiệp cử nhân Toán tại Đại học Khoa học Sài Gòn năm 1966. Anh ấy không chỉ học giỏi toán, mà còn quan tâm đến chuyện thời sự chính trị, ăn nói có duyên, điềm đạm, và cosmopolitan. Vâng, những người học trường Pháp thường hiểu biết nhiều về thế giới hơn, có giáo dục khai phóng tốt. Thụ sau này, tôi thầm nghĩ, nếu làm chính khách, sẽ rất thành công. Sau đó Thụ sang Mỹ du học và lấy bằng thạc sĩ Toán tại Đại học Hawaii, Honolulu năm 1969. Năm 1972, anh bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài “Convolutions And Non-Quasi-Analyticity In Several Variables“, dưới sự hướng dẫn của Madhav Heble tại Đại học Toronto, Canada. Tài năng của anh gặp được những mảnh đất rất thuận lợi.
Từ năm 1973, Thụ là giáo sư trợ lý tại Đại học Moncton, Canada. Anh trở thành phó giáo sư năm 1978 và được phong giáo sư năm 1984. Anh giữ chức trưởng khoa Toán Đại học Moncton hai nhiệm kỳ liên tiếp từ năm 1994 đến 2000. Từ năm 2010, Thụ trở thành giáo sư emeritus.
Anh được biết là một nhà nghiên cứu năng động trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình. Anh là tác giả hoặc đồng tác giả của khoảng 75 bài báo được xuất bản có thẩm quyền, một số trong đó đã giành được các giải thưởng lớn. Anh đã có nhiều bài thuyết trình và gửi một số bài báo khoa học tới các hội nghị quốc tế trên khắp thế giới. Anh là nhà toán học đầu tiên tại Đại học Moncton nhận được những khoản tài trợ lớn từ Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật Canada (NSERC) và tiếp tục nhận được chúng trong suốt sự nghiệp của mình. Anh cũng từng là chuyên gia giám định cho một số ấn phẩm khoa học ở cấp quốc tế. Anh cũng nổi tiếng quốc tế nhờ các dự án của mình với các nhóm như Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CIDA), Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (IDRC) và Agence francophone pour l’enseignement supérieur et la recherche, Cơ quan nói tiếng Pháp cho giáo dục đại học và nghiên cứu.
Phạm Gia Thụ nhận được các giải thưởng danh giá: Thomas. L. Saaty Award cho công trình xuất sắc về thống kê và vận trù học trên tạp chí American Journal of Mathematical and Management Sciences năm 1995; giải thưởng cho 25 năm cống hiến xuất sắc từ Natural Sciences and Engineering Research Council của Canada (NSERC) vào năm 2003. Thụ là thành viên của Hội thống kê hoàng gia (Royal Statistical Society, RSS). Hội này được thành lập năm 1834 bởi Richard Jones, Charles Babbage, Adolphe Quetelet, William Whewell, Thomas Malthus, và William Henry Sykes.
Hội nghị Thống kê và Tương tác của nó với các ngành khoa học khác (SIOD) được tổ chức tại Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 6 năm 2013. Phạm Gia Thụ chủ trì và đọc diễn văn khai mạc.
Từ năm 1991 trở đi, Thụ đã nhiều lần về Việt Nam và đã có những đóng cho ngành Thống kê Toán nước nhà. Từ năm 1995 đến 2000, trong vai trò giám đốc một dự án với giá trị dự án 2 triệu CAD của Chính phủ Canada nhằm giúp Đại học Kinh tế Quốc dân Việt Nam đào tạo giáo viên ngành Kinh tế và Thống kê, ông đã về Việt Nam thường xuyên và giúp đưa 26 nghiên cứu sinh sang Canada tu nghiệp, lấy chứng chỉ và bằng cấp thạc sĩ. Anh tiếp tục giúp đỡ sách báo chuyên ngành cho Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM và Đại học Cần Thơ, hướng dẫn nghiên cứu sinh trong việc thực hiện luận án tiến sĩ.
Thụ cuối cùng đi sâu vào ngành toán, và tìm thấy ở đó quê hương để phát triển tài năng, cũng như tìm thấy hạnh phúc, chứ không phải làm chính trị như tôi từng nghĩ. Trường Tây đã cung cấp cho anh loại giáo dục khai phóng rất tốt, cái vốn sống quý báu, giúp phát huy năng lực khoa học của anh một cách vững vàng, trong khi những người học trường ta như chúng tôi phải chật vật chiến đấu để sau nhiều lần trial and error mới ra khỏi cái bóng vô minh to lớn của mình. Thật là tiếc, tôi không còn gặp Thụ nữa, ngay cả lúc Thụ về Việt Nam làm việc. Tôi chỉ gửi thông tin cho Thụ biết những việc làm của tôi. Lần cuối, cách đây vài năm, Thụ viết cho tôi, bảo rằng tôi hãy tiếp tục công việc đang làm. Những lá thư thăm Thụ sau đó không còn được hồi âm nữa, cho đến hôm nay nhận được tin thì bạn đã vĩnh viễn ra đi.
Năm 2006, anh tham gia một bài viết cho Kỷ yếu Mừng Sinh Nhật thứ 80 của GS Đặng Đình Áng do tôi mời. Có đoạn anh viết:
Ngoài vấn đề học tôi còn nhớ đến những buổi họp mặt có ăn uống với Thầy. Mấy chục năm trước, khoảng cách thầy trò còn rất lớn, nên việc đi ăn chung rất là hãn hữu. Một buổi ăn chả cá ở nhà hàng Sơn Hải đường Lý Trần Quán tụ tập nhiều anh em cùng với hai thầy Áng và Nguyễn đình Ngọc. Bữa ăn rất vui và chúng tôi có dịp hỏi Thầy nhiều câu hỏi có tính cách riêng tư và thầy trả lời rất thành thật, không một chút khách sáo, hay tô điểm. Bữa ăn thứ hai được tổ chức ngay tại nhà Thầy ở Làng Đại Học Thủ Đức. Buổi liên hoan này họp mặt gần 30 anh chị em, và tôi được hân hạnh chở chị Dung từ Saigon lên. Chị Dung cùng khoá sư phạm và lúc đó đã tốt nghiệp và đang đi dạy ở Mỹ Tho. Các anh chị em cùng khóa khoa học có đầy đủ, như các anh Tùng, Hòa, Anh, Tú, Sĩ, Học, Nhơn, Nghệ, Xanh, Kính, Lộc,vv. Tôi còn giữ một bức hình đen trằng trong đó các anh chị em đứng túm xung quanh Thầy Áng đang cầm ống điếu. Bức hình này đối với tôi là vô giá.
Rồi vì biết bao biến chuyển trong tình hình chính trị trong nước, sau khi tôi đi du học ở ngoại quốc, tôi không còn có liên lạc nhiều với Thầy, mặc dầu vẫn theo dõi tình hình toán học bên nhà. Tôi được biết nhiều thế hệ đàn em vẫn được thầy giảng dạy tận tụy và hướng dẫn hăng say như thuở nào. Nhiều vị đàn em này đã theo gương thầy để đào tạo nên thế hệ sau, với nhiều thành công rực rỡ.
Tôi chỉ gập lại Thầy đầu năm 91, khi được cử về công tác ở Tổng Cục Thống Kê Hanoi. Sau buổi công tác tôi đã bay ngay vào Saigon để gập lại Thầy và vài bạn cũ. Lại thăm Thầy ở căn nhà khi xưa, trên đường Điện Biên Phủ tôi bồi hồi gặp lại một người thầy năm xưa với mái tóc nay đã bạc trắng, nhưng vẫn tráng kiện, vẫn ân cần, vui vẻ và nhất là vẫn hăng say khi bàn về toán và khảo cứu. Tôi có cảm tưởng như là thời gian tuy có mang vài thay đổi trên người thầy, nhưng đã ngừng trôi đối với những tình cảm và liên lạc của thầy với các học trò cũ. Đặc biệt tôi cảm phục thầy hơn nữa khi biết là, dù gặp nhiều khó khăn trong việc tìm và đọc tài liệu để viết bài thầy và các học trò vẫn có đều đều bàì đăng báo trong những năm đất nước có rất ít liên lạc khoa học với bên ngoài. Từ ngày đó đến nay tôi đã về nước rất nhiều lần, và mỗi lần tôi lại có dịp lại thăm thầy để đựơc hân hạnh dùng chung với thầy một bữa cơm, vài lon bia, đôi tách trà, để giữ ngọn lửa toán học thiêng liêng những năm 60 luôn luôn cháy trong lòng tôi.
Ngảy 16/11/2007 báo Vietnamnet có bài phỏng vấn sau đây với GS Phạm Gia Thụ, nội dung rất bổ ích, tôi xin phép được đăng lại dưới đây.
GS.TS Phạm Gia Thụ: Hãy để trái tim mình nhẹ nhàng
40 năm ở nước ngoài vẫn giữ trong lòng những tình cảm đẹp về đất nước và con người Việt Nam.
-“Tôi lớn lên tại Hà Nội nên còn giữ nhiều kỷ niệm của đất Tràng An, khi tôi 7, 8 tuổi. Những đại lộ chia đôi, tiếng ve kêu trong hè, rồi bờ hồ – nơi chủ nhật được dẫn đi ăn kem, Hồ Tây – nơi lâu lâu được dẫn đi ăn bánh tôm v.v. Nhớ cả những mùa đông, mưa phùn gió bấc, cả gia đình mặc áo len và khoác măng-tô, tôi co ro đi ra ngoài đường đi học.
Trong Sài Gòn sau đó, lẽ tất nhiên là tôi có nhiều kỷ niệm hơn, vì đây là nơi tôi trưởng thành. Thời gian học trung học thì vô tư nghịch ngợm, rồi sau đó là Đại học Khoa học, nơi mà những sinh hoạt văn nghệ sinh viên đã để lại cho tôi những niềm vui khó quên, dù rằng những nỗi buồn của thời chiến tranh cũng rất là ray rứt…”
Giáo sư Phạm Gia Thụ mở đầu câu chuyện bằng những kỷ niệm trong trẻo thời ấu thơ cất giữ trong ngăn tủ ký ức dường như vẫn chưa hề cũ kỹ, mặc dù đã 50 năm qua. Phải chăng “Kỷ niệm không là gì, khi lòng ta bôi xóa. Kỷ niệm là tất cả, khi lòng ta khăc ghi”
– Điều gì GS vẫn giữ trong lòng trong bao nhiêu năm học tập và sinh sống ở nước ngoài?
– Những tình cảm đẹp về đất nước tôi vẫn giữ từ khi rời VN năm 1967. Khi ở ngoại quốc, tôi luôn luôn nghĩ về một mảnh đất gấm vóc, với bao nhiêu nét đẹp thiên nhiên, ruộng đồng xanh mướt, những bãi biển với bờ cát trắng tuyệt vời, những chùa chiền cổ kính, những đường phố cây cao bóng mát, những ngôi nhà nhỏ bé nhưng xinh xắn v.v. Tôi vẫn luôn nhớ về những người thân và bạn hữu đã xa rồi, tôi vẫn cảm thấy như những sợi dây tình cảm gắn bó vẫn còn đó, chỉ tạm thời bị trì hoãn thôi. Những người không thân, tôi vẫn giữ ý nghĩ họ là những người hiền hòa, cần cù và lúc nào cũng cầu tiến, mặc dầu tình thế đất nước lúc đó khó khăn.
Tôi vẫn hằng yêu quí ba mẹ tôi. Tuy hai ông bà đã mất từ lâu, nhưng vẫn luôn luôn là nguồn tình cảm quý mến của mười anh chị em tôi. Như những bậc phụ mẫu trong các gia đình Việt, ba mẹ tôi đã không quản ngại hy sinh để giúp các con, lo cho chúng tôi từ tấm bé cho tới hồi thành gia thất, và cả sau đó nữa.
Tôi cũng rất quí mến những người thầy tận tuy với nghề nghiệp và học trò. Đặc biệt, tôi rất yêu quý thầy Đặng Đình Áng, một giáo sư Toán có tên tuổi và sắp được bát tuần. Thầy Áng là người hướng dẫn tôi trên đường học tập bốn mươi năm trước và nhiều bạn lứa sau tôi nữa. Tôi cũng có một số bạn thân, chúng tôi giao thiệp, giúp đỡ và sinh hoạt chung bất vụ lợi.
Nhưng phải chăng ta chỉ nên giữ lại những kỷ niệm hay và đẹp thôi, mà quên đi những chốn bùn lầy nước đọng ngay trong thành phố, và những con người không đẹp gì mấy về tinh thần?!
– Xin ông vui lòng nói rõ hơn về ý này?
– Tôi muốn nói, trên thực tế vẫn có nhiều chuyện xảy ra không đẹp và ít nhiều tiêu cực, nhưng khó phát lộ chân tướng ra ngoài. Nhưng, tôi nghĩ, nếu mình muốn trở về xây dựng đất nước thì không nên để những điều đó làm tâm hồn mình bị nặng nề. Hãy để trái tim mình nhẹ nhàng. Tất nhiên chuyện tiêu cực phải nhanh chóng được sửa đổi. Vấn đề quan trọng nhất là các bậc lãnh đạo phải thật sự là người trong sạch, làm gương sáng, tận tụy và sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân trước đại sự.
Cán bộ lãnh đạo của mình nhiều người tốt nhưng cũng còn những kẻ cơ hội. Ví dụ như vụ PMU 18…
– Ông có hài lòng về bản thân? Những niềm vui của ông?
– Ngay khi bước chân vào giảng đường đại học ở Sài Gòn, tôi đã rất “thần tượng” vị giáo sư đầu tiên mà tôi gặp. Lúc ấy tôi đã nghĩ: chắc nghề giáo sư đại học sẽ hợp với tôi. Vì nghề này có rất nhiều tự do, ít khi có cấp trên dòm ngó; nếu như có khả năng trong việc khảo cứu chuyên môn thì có thể có một chút danh tiếng và có cơ hội đi nói chuyện, diễn thuyết tại các đại học khác trên thế giới. Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng là nghề này có vẻ được xã hội trọng vọng, và như vậy cho mình có một ảo tưởng và ảo ảnh là mình có một sự quan trọng nào đó.
Những cố gắng khảo cứu, đưa đến những bài báo được đăng trên các tập san chuyên môn là một niềm vui lớn của nghề GS đại học. Những cố gắng về khảo cứu của tôi để mang lại vài kết quả, được các bạn đồng nghiệp đánh giá cao là niềm vui chính trong nghề nghiệp. Việc được mời đi nói chuyện tại nhiều đại học trên thế giới, và sự thành đạt của các học trò cũng như của con cái, cũng là những niềm vui lớn. Nhưng niềm vui sâu sắc, niềm hãnh diện đặc biệt là được may mắn đóng góp, giúp đỡ vài đại học và cá nhân trong cùng ngành bên nhà.
– Ông có thể kể một chút về gia đình?
– Hiện tôi là Giáo sư thực thụ về Thống kê tại một trường đại học ở miền biển của Canada. Cuộc hôn nhân thứ nhất của tôi có 2 đứa con, một gái, một trai, đã trưởng thành và đi làm ở xa. Mẹ của hai cháu là người Việt. Chúng tôi đã chia tay. Vợ tôi hiện nay là người Canada, và cũng là GS tại ĐH này, cuộc hôn nhân thứ hai không có con chung.
Đất nước đang ở thời kỳ rất thuận tiện để xây dựng, đoàn kết và tiến lên.
– Đã trở về nhiều lần, ông nhận thấy quê hương như thế nào?
– Từ ngày đất nước mở cửa đến nay, tôi đã quay về nhà trên 30 lần. Lần đầu vào tháng giêng năm 91, để bàn việc hợp tác với Tổng cục Thống kê Hà Nội – tôi đã được gặp ông Tổng cục trưởng ở một hội nghị quốc tế năm trước. Sau đó, tôi có về tham dự Hội nghị Việt kiều năm 1993. Khi có một dự án lớn của cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CID) do Chính phủ Canada tài trợ. Dự án này nhằm để giúp đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đào tạo gấp một số cán bộ giáo viên, có thể giảng dạy ngay một vài môn mới liên quan đến kinh tế thị trường, như: marketing, quảng cáo, hoặc về những phương pháp thống kê mới để “đo đếm” những biến chuyển trong xã hội và kinh tế. Tôi đã được đề cử làm giám đốc của dự án này.
Từ lần đầu về thăm quê hương đó, mỗi năm khi quay về một hay hai lần, tôi lại thấy đất nước thay đổi, mở mang nhiều hơn, tiến bộ về mọi mặt. Sự thay đổi ở các thành thị rõ nét hơn vùng thôn quê. Chẳng hạn, những năm đầu thập niên 90, điện thoại, fax hay taxi, gần như không có. Và nay đó là những dụng cụ hàng ngày ở khắp nơi, cũng như internet ngày hôm nay. Những nỗ lực xóa đói, giảm nghèo đã có kết quả tốt, nhưng chắc cũng cần thêm nhiều thời gian và nhiều cố gắng nữa mới đạt được mục đích.
Là một người lạc quan, tôi nghĩ là đất nước đang ở thời kỳ rất thuận tiện để xây dựng, đoàn kết và tiến lên.
– GS có điều gì bức xúc trăn trở… đối với đất nước?
– Những điều làm tôi băn khoăn nhất có lẽ là những bài báo nói về chuyện tiêu cực, luộm thuộm, bè phái và tham nhũng tại nhiều cơ quan bên nhà và tại các vùng xa Thủ đô, những bài báo này được đăng ngay trên các nhật báo trong nước hay ở ngoại quốc. Sự nghèo khó vẫn còn hoành hành tại nhiều nơi cũng làm tôi rất đau lòng.
Tôi vẫn hy vọng là với một số nhà lãnh đạo có uy tín, có năng lực trong nước, và nhất là có thiện chí và trong sạch, thì nước ta, một ngày nào đó sẽ đạt được mục tiêu công bằng, bác ái, xây dựng và hoà thuận là luật sống chung. Việt Nam sẽ được xếp bên cạnh các nước tiến bộ.
– GS có còn điều gì chưa vui? Và muốn chia sẻ với mọi người?
– Nhưng điều còn chưa vui của tôi là thấy vẫn còn một hố chia cách vài cá nhân và bộ phận kiều bào với nước nhà. Hố này lớn hay nhỏ đều cần phải hoàn toàn được lấp đi. Tôi cũng cảm thấy chưa vui khi thấy nhiều việc bên nhà vẫn còn cần phải thay đổi rất nhiều để bắt kịp đà tiến bộ thế giới.
Vì vậy tôi đã làm bài thơ ƯỚC MƠ:
Ta vẫn ước mơ một ngày nào,
Nước non cường thịnh, dân trí cao.
Phố phường rực rỡ, vui như hội.
Nông thôn trù phú, rộn ràng sao!
Đói nghèo từ độ biệt tăm hơi,
Trí thức ngoài, trong: ra giúp đời,
Một tấm lòng son vì Tổ quốc,
Giang sơn gấm vóc ngập xuân tươi!
Thơ bay ngàn cánh, nhạc cùng nơi
Hương ngát đồng xanh, mơ ngát trờì!
Tôi cũng cố gắng mang văn thơ Việt Nam cận đại ra giới thiệu với các trí thức ngoại quốc, đã dịch ra tiếng Pháp và tiếng Anh và đã đăng một số bài thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử vv..
Việc đóng góp của kiều bào, nếu chỉ hô hào vận động và hy vọng suông, sẽ mang lại rất ít kết quả.
– Ông nhận xét và đánh giá thế nào về các anh chị trí thức VK và cộng đồng người Việt ở nước ngoài nói chung?
– Đội ngũ trí thức Việt Nam ở ngoại quốc rất đông đảo và chuyên sâu trên nhiều lĩnh vực. Trí thức ở nước ngoài có nhiều thành phần, như ở bất cứ đâu. Đa số rất lưu ý đến những gì đang xảy ra trong nước, rất muốn về thăm đất nước, và được đóng góp (bất vụ lợi) ít nhiều, tùy theo khả năng. Cộng đồng kiều bào cũng vậy. Nhưng phần đông họ còn bận bịu với cuộc sống rất bon chen mỗi ngày, ở ngoại quốc, nên mặc dầu luôn nghĩ về quê hương, sự đóng góp của họ cũng chỉ hạn chế, giới hạn vào một số cá nhân có điều kiện và phương tiện. Hai luồng tư tưởng đó đều đúng. Nhưng nhìn vào số tiền rất cao mà Việt kiều chính thức gửi về mỗi năm, ta sẽ thấy rất lạc quan cho tương lai.
Từ khi VN mở cửa và đổi mới, kiều bào ở hải ngoại rất quan tâm và theo dõi sát tình hình trong nước. Đa số kiều bào muốn đất nước phát triển, nhiều người trở về và mong muốn đóng góp cụ thể, số chống đối chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhưng rất tiếc, những vụ việc tiêu cực như vụ bê bối của PMU 18 lại là những chất làm bùng nổ những uất ức và khích bác Việt Nam, gây hoang mang trong lòng nhiều VK trí thức.
– Có người cho rằng, “kiều bào là một năng lực tiềm ẩn của Việt Nam, như là sức gió, ánh nắng – cần có sự tập họp để chuyển thành năng lượng mạnh mẽ đẩ xây dựng đất nước”. Có người lại cho rằng, “đừng quá ảo tưởng về Việt kiều, vì họ như chim trời cá nước, tư tưởng lại phân hóa, chia rẽ không thể tập họp thành sức mạnh được”. Ý của ông thế nào?
– Đây là một lực lượng hùng hậu nếu được tập họp lại, tuy nhiên ở nước ngoài không phải trí thức Việt kiều là hoàn toàn vượt trội, vì vậy không nên quá đề cao. Mà cũng đừng nên tự ti vì chúng ta cũng không thua kém ai. Tôi nghĩ các trường đại học là địa điểm quy tập các anh chị trí thức Việt kiều.
Nếu như đại đa số Việt kiều có khả năng di chuyển, sẵn sàng về để thăm thú, du lịch và sống lại trong khung cảnh quen thuộc khi xưa, thì chỉ có một thiểu số có thể đóng góp cụ thể, bằng tiền bạc, hoặc chất xám, hoặc bằng cách hợp tác thương mại với người trong nước. Tôi nghĩ, 2 tổ chức Hội người Việt ở nước ngoài và kênh truyền hình VTV4, đã có ảnh hưởng tốt đối với kiều bào nói chung. Báo Người Viễn Xứ cũng vậy. Nhưng nếu muốn biến họ thành một nguồn năng lượng mạnh mẽ thì chắc cần có những biện pháp, quy chế rõ rệt hơn để họ thấy thực sự được ưu đãi nếu có đóng góp, hoặc để họ có thể về làm ăn, sinh sống, đi lại dễ dàng, và có nhiều quyền quyết định hơn về các lợi nhuận của họ khi kinh doanh.
Nói tóm lại, với bà con kiều bào, nếu chỉ hô hào vận động và hy vọng suông, dựa trên thiện chí thôi, sẽ mang lại rất ít kết quả trong việc đóng góp cho đất nước. Tôi nghĩ Nhà nước nên thông qua và công bố những biện pháp cụ thể để các VK nào có khả năng đóng góp được (về cả trí tuệ lẫn tài chính thương mại) cảm thấy được tưởng thưởng về tinh thần, hay vật chất, sẽ mang đến nhiều kết quả mạnh mẽ hơn.
Một thí dụ về giáo dục chẳng hạn, một trường đại học VN có thể ra quyết định đề bạt chức danh “Giáo sư thỉnh giảng” hay “Giáo sư danh dự” chẳng hạn (hoàn toàn không lương, như nhiều đại học trên thế giới) cho một GS Việt kiều, để giúp họ có điều kiện dễ dàng trong thủ tục “đi – về” làm việc thường xuyên với trường đại học. Nhưng việc này Bộ GDĐT vẫn chưa chấp thuận, mặc dầu quí vị giáo sư Việt kiều đó sẵn sàng chịu hết các phí tổn di chuyển và ăn ở. Với chức danh này thì còn có thể xin học bổng cho các nghiên cứu sinh hoặc xin trợ cấp giúp giáo viên Việt Nam sang Canada nghiên cứu.
Nhà nước nên có biện pháp cụ thể trong việc trọng đãi về tinh thần, để họ cảm thấy thoải mái khi trở về làm việc, góp phần cống hiến chất xám vào công cuộc xây dựng đất nước. Tôi mong sao những liên lạc giữa các người Việt Nam, trong nước và đang ở ngoại quốc sẽ thoải mái và nồng hậu, như sự liên lạc giữa hai tập thể đó tại một nước tiến bộ, như Đức hay Pháp chẳng hạn.
Chỉ vì chưa có qui chế cụ thể về vấn đề này nên từ trước đến nay phần nhiều trí thức Việt kiều âm thầm về nước kết nối và trợ giúp về chuyên môn cho các trường đại học và sinh viên trong nước mà chỉ có thể hoạt động với tính cách vô danh hoặc cá nhân với cá nhân.
Rất mong có thể hợp tác chặt chẽ với một ĐH trong nước về ngành Thống kê Áp dụng
– Những đóng góp của GS cho đất nước trong hiện tại? Và những dự định trong tương lai?
– Tôi đang trực tiếp giúp về tài liệu khoa học và góp phần trực tiếp đào tạo Tiến sĩ cho ĐH Khoa học Tự nhiên TP.HCM. Tôi cũng thường xuyên liên lạc và giúp đỡ ĐH Huế và Cần Thơ. Giúp đỡ tài liệu khảo cứu và sách báo cho nhiều phân khoa Thống kê tại Việt Nam. Tôi đang xin tài trợ để tổ chức hội thảo về xác suất Thống kê tại Việt Nam. Trong dịp nghỉ nghề nghiệp (sabbatical leave) sắp tới tôi sẽ về giảng dạy dài hạn tại Việt Nam. Trong tương lai tôi tiếp tục hướng dẫn nghiên cứu sinh tại Việt Nam. Cộng tác với một đại học tư thục tại TP.HCM. Tôi rất mong có thể hợp tác chặt chẽ với một ĐH tại VN về ngành Thống kê áp dụng, một ngành chưa được mở mang nhiều tại VN hiện nay, tuy rằng ở ngọai quốc, ngành này rất đựợc mở mang. Vài năm nữa khi đã về hưu tôi sẽ có nhiều thời giờ hơn và lúc đó tôi mong muốn sẽ có một chương trình hoạt động tích cực ở VN, như trong giai đoạn 1994-2000
– GS có góp ý với ngành giáo dục đại học về điều gì không?
– Sao cho các giáo viên có cơ hội, thời gian và phương tiện để học hỏi thêm những kiến thức mới của thế giới và có thời gian để khảo cứu chuyên môn. Tôi nghĩ các trường đại học là địa điểm quy tập các anh chị trí thức Việt kiều trở về hợp tác, xây dựng…
– GS có đặt niềm tin vào sự phát triển của Việt Nam?
– Việt Nam mình hiện vẫn chưa hoàn toàn theo nền kinh tế thị trường, nhiều công ty quốc doanh vẫn còn được Chính phủ bao bọc, nhiều công ty nhà nước chưa hoạt động một cách hiệu quả nhưng vẫn nắm giữ sự độc quyền. VN mình có nhiều tiềm năng, nhưng cần phải củng cố bộ máy, cải tổ cơ cấu hành chính cho thoáng hơn nữa. Và cũng phải tạo điều kiện thu hút Việt kiều hơn nữa, tôi tin với sự góp sức của kiều bào khắp nơi thì đất nước sẽ tiến rất xa. Ví dụ, Trung Quốc bằng sự nỗ lực trong nước cộng với chính sách thu hút Hoa kiều tốt nên những năm gần đây đã phát triển rất nhanh. Trung Quốc trong 5 năm nữa sẽ thành một cường quốc.
– Theo GS, những điều kiện tiên quyết để VN phát triển là gì?
– Tôi nghĩ, trước tiên những người lãnh đạo, người cầm quyền phải hoàn toàn trong sạch và phải làm gương cho các cấp dưới thì đất nước mới tiến nhanh được. Phải đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi cá nhân, không cắt xén, không đục khoét; người dân phải mạnh dạn tố cáo những cán bộ lạm dụng quyền hạn, tham nhũng. Phải có kế hoạch tầm quốc gia để đầu tư phát triển những ngành mũi nhọn của đất nước. Mức lương cơ bản của cán bộ – công nhân – viên chức phải được nâng cao hơn để nâng cao đời sống toàn xã hội lên. Chính phủ phải có trách nhiệm để người lao động không bị bóc lột sức lao động, tổ chức công đoàn phải bảo vệ quyền lợi người lao động…
– Ngành Thống kê sẽ góp phần như thế nào trong tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước?
– Mỗi người, mỗi ngành đều có một vai trò trong guồng máy vận hành quốc gia. Nếu ai cũng cố gắng thì đất nước nhất định sẽ phát triển. Ngành thống kê là một ngành khoa học, có thể xử lý tất cả những dữ kiện, những con số trong các ngành khoa học, kinh tế – xã hội… Đầu tiên, phương pháp thống kê sẽ cho ta biết thông tin về tình trạng, giúp mô hình hóa, so sánh sự “đi lên” hay “đi xuống”, tăng hay giảm trong từng giai đoạn và có thể tiên đoán một cách khoa học và logic về sự phát triển như thế nào trong tương lai… Thứ hai, với nhiều phương pháp khoa học, lấy mẫu nhiều nơi, tính ra các chỉ số…, ngành thống kê có thể giúp tìm kết quả chính xác. Thứ ba, thống kê giúp cho sự dự báo tiên đoán về những hiện tượng trong tương lai.
Đa số những tập đoàn sản xuất lớn luôn có một ê-kíp chuyên theo dõi, nghiên cứu và tiên đoán… để giúp Ban Giám đốc đẩy mạnh phát triển sản xuất hoặc lo lường mọi nguy cơ tiềm ẩn… Ví dụ, việc tăng giá hay giảm giá một dòng sản phẩm, ngoài tác động của luật cung cầu, ta có thể dùng mô hình kinh tế lượng để xem xét nhiều yếu tố liên quan như giá trị đồng USD, nhân công…
– Vấn đề tâm huyết nhất của GS đối với ngành thống kê Việt Nam?
– Thống kê là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhưng từ trước đến nay vẫn chưa được xem trọng đúng mức. Trước đổi mới, Việt Nam thực hiện phương pháp thống kê theo kiểu báo cáo. Cấp dưới báo cáo sao, cấp trên nghe con số ấy mà không có phân tích, giải thích một cách khách quan. Do đó, rất nhiều nơi thống kê không phản ánh đúng tình trạng thật. Kéo theo việc giao kế hoạch, thực hiện kế hoạch không sát… (Ở các nước mở mang, ngành thống kê – kế hoạch “xông thẳng vào” từng ngành nghề để lấy mẫu trực tiếp, xác thực, khách quan, rõ ràng). Những năm 1990, Tổng cục Thống kê Việt Nam đã trực tiếp xuống cơ sở để lấy mẫu thực trạng, áp dụng phương pháp thống kê một cách khoa học, nhưng số cán bộ thống kê chưa được đào tạo một cách bài bản.
Hiện tại, hy vọng đã có sự tiến bộ. Ngành thống kê nên tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp khoa thống kê ở các trường đại học. Trong ngành đại học, nên có những chương trình bài bản về thống kê áp dụng để sinh viên ra trường có thể áp dụng kiến thức của mình để lấy mẫu một cách khoa học.
– Đất nước đã thống nhất 30 năm qua, nhưng dường như lòng người thật sự vẫn chưa thống nhất, chưa có sự tin tưởng và đoàn kết 100%. GS nghĩ thế nào về sự hòa hợp hòa giải, sự đoàn kết toàn dân tộc?
– Điều này cũng là điều tất yếu. Vì trong một đất nước có chiến tranh, hai bên thường vẫn còn có sự hiềm khích, lo sợ, ích kỷ… không thể đoàn kết để xây dựng. Phải cần có thêm một thời gian nữa để người Việt chúng ta có thể tin lẫn nhau, để mọi người có cùng cách nghĩ “đặt lợi ích chung lên trên” và hợp tác một cách đoàn kết để cùng có những dự án lớn giúp Việt Nam bước ra thị trường thế giới.
– Xin cảm ơn những ý kiến của GS
Theo Quỳnh Lệ
Thụ vào Đại học Saigon có chút mơ mộng về tương lai, và rồi, giấc mơ đó đã chấp cánh anh bay xa, rất xa, nhưng vẫn luôn luôn nhớ về đất nước, về Đại học Sài gòn, về Thầy. Anh luôn luôn là người khiêm tốn, như truyền thống của những người học rộng. Sau 1975, tôi mất hết các bạn học đại học thân thiết ngày xưa. Chúng tôi là một đại gia đình rất hạnh phúc những năm 1960. Nhưng rồi bạn bè tôi đã đi hết, ở Úc, Pháp, Bỉ, đông nhất là ở Mỹ. Lý tưởng xây dựng đất nước không thiếu, nhưng sau 1975, lý tưởng đó đã tan vỡ ở đa số, họ đã ra đi mãi mãi âm thầm “gác kiếm”. Một cú sốc mà có lẽ họ không chịu nổi để vượt qua. Thật là buồn. Lê Quang Ánh có lẽ là người duy nhất còn viết lách về lịch sử toán. Rồi anh cũng sớm ra đi một cách nghiệt ngã. Lũ chúng tôi đang lùi dần vào quá khứ, mang theo một “giấc mộng nửa chừng xuân” đỗ vỡ giữa đường. Một bi kịch. Thụ trở về kết nối với quê hương có lẽ là đốm sáng duy nhất trong bọn chúng tôi. Hy vọng, thế hệ mới sẽ làm được nhiều điều vượt xa những ước mơ nhỏ bé của chúng tôi.
Thụ ơi, bạn hãy yên nghĩ.
Không có nhận xét nào