Xuất hiện trong chương trình truyền
hình ‘Chào nước Anh’ hôm 5/6 khi đang có chuyến thăm cấp nhà nước đến
nước này, người đứng đầu nước Mỹ đã nói về chiến tranh Việt Nam như sau:
“Tôi đã nghĩ đó là một cuộc chiến tệ hại.”; và rằng “Cuộc chiến đó
không phải là điều mà chúng ta nên tham gia,”…
Ông Trump tại cuộc họp báo với thủ tướng Anh, Theresa May, 4 tháng Sáu, 2019. |
Phát
ngôn này của Tổng thống Mỹ Donald Trump về chiến tranh Việt Nam gây ra
những phản ứng khác nhau trong công luận, có người thông cảm, nhưng cũng
có người phản đối. Sự bất đồng này mang tính chủ quan theo vị trí, cách
nhìn và đánh giá của mỗi cá nhân khi bày tỏ.
Bài viết này, muốn trả lời khách quan hơn cho hai nhận định chủ quan của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, rằng:
Chiến tranh Việt Nam có là “một cuộc chiến tệ hại như nhận định của Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump không?
Qua
nhận định của Tổng thống Trump, rằng “Tôi dã nghĩ đó là một cuộc chiến
tệ hại” dường như Ông muốn nói đến sự tệ hại vì “nhiều người đã chết”
trong cuộc chiến này. Nhưng có lẽ Ông Trump chỉ nghĩ đến sự tệ hại đối
với nước Mỹ, với cái chết của 58 ngàn chiến binh Hoa Kỳ tham chiến và
hàng chục ngàn người Mỹ bị thương cách này cách khác; mà không quan tâm,
có thể đã không biết đến sự tệ hại hơn nhiều về phía các bên Việt Nam,
với cái chết của hàng triệu quân và dân người Việt Nam hy sinh ở cả hai
chiến tuyến đối nghịch Miền Bắc (cộng sản Bắc Việt) Miền Nam (quốc gia
Nam Việt).
Có
lẽ, sự tệ hại còn là vì Hoa Kỳ đã bỏ ra hàng tỷ dollar tài trợ cho một
cuộc chiến ở “một đất nước rất xa xôi và vào lúc đó không có ai từng
nghe đến đất nước đó cả…” như Ông Trump nói, để cuối cùng phải rút chân
ra khỏi cuộc chiến mà nhiều người Mỹ như Ông vẫn không hiểu “ điều gì
đang xảy ra ở đó vậy?”. Dường như Ông không quan tâm để biết rằng, một
điều tệ hại hơn nữa “đã xẩy ra ở đó” là Hoa Kỳ đã thực hiện “chính sách
Việt Nam hóa chiến tranh” sau bốn năm “Mỹ hóa chiến tranh” (1965-1969)
bằng cách đưa quân tham chiến trực tiếp, nói là để giúp chính phủ và
nhân dân Việt Nam nhanh chóng đánh bại cuộc xâm lăng của CSBV, bảo vệ
chế độ dân chủ và Miền Nam Việt Nam tự do không bị cộng sản hóa. Thế
nhưng mục tiêu này đã không thành đạt, dù Hoa Kỳ đã huy động cao độ mọi
khí tài, phương tiện chiến tranh hiện đại, rốt cuộc không đem lại chiến
thắng, ngoài lợi nhuận khổng lồ cho các tập đoàn tư bản quân sự quốc
phòng Hoa Kỳ và đồng minh. Nay lại tìm cách rút chân ra khỏi cuộc chiến
bằng chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, trao lại gánh nặng chiến đấu
cho quân lực VNCH (mà Việt cộng gọi là “thay màu da trên xác chết”),
với những cam kết không có bảo chứng.Hậu quả tệ hại là chỉ ít năm sau
CSBV đã dùng bạo lực cưỡng chiếm được Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam ngày
27-1-1973, trước sự phủi tay của Hoa Kỳ và làm ngơ của những cam kết
quốc tế.
Thực
tế là như thế. Vậy mà Tổng thống đương nhiệm Hòa Kỳ đã không biết “điều
gì đang xảy ra ở đó vậy?” Sự thể này cho thấy tình trạng Tổng thống
Trump cũng như nhiều người Mỹ lúc đó và cho đến bây giờ vẫn không hiểu
biết gì về sự tham dự của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam (1954-1975) dù
đã kết thúc hơn 44 năm rồi (1975-2019), nhiều tài liệu về chiến tranh
Việt Nam đã dược giải mật.
Phải
chăng vì vậy mà Tổng Thống Trump đã cho rằng “Cuộc chiến đó không phải
là điều mà chúng ta (người Mỹ) nên tham gia”? Ông nói thế và cho biết
mặc dù lúc đó ông không xuống đường phản chiến như nhiều người, nhưng
ông không hề ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Nhưng cũng có người cho rằng
Tổng thống Trump nói ra điều này còn là một phản ứng mặc cảm tâm lý, vì
muốn biện minh cho việc trốn tránh nhập ngũ qua chiến đấu tại Việt Nam
thời tuổi trẻ, kể cả bằng cách gian lận để được cấp giấy chứng nhận ‘bị
gai xương gót chân’. Các đối thủ của ông đã chỉ trích việc ông trốn lính
là ‘gian trá’ và giấy tờ ông đưa ra là ‘giả tạo’. Hồi tháng Hai năm
nay, ông Michael Cohen, cựu luật sư của ông Trump, đã khai trước Quốc
hội rằng ông Trump ‘đã dựng lên chuyện thương tật đó’ để trốn quân dịch.
Vậy thì Tổng thống Hoa Kỳ nói “Cuộc chiến đó không phải là điều mà chúng ta nên tham gia…” có đúng không ?
Theo
nhận định của chúng tôi, vấn đề không phải là nên hay không nên mà do
tình thế buộc Hoa Kỳ phải tham gia vào cuộc chiến Việt Nam. Vấn đề chỉ
là Hoa Kỳ tham gia đến mức độ nào để đỡ tệ hại nhất mà vẫn thành đạt
được mục đích tham chiến tối hậu của mình.
Bởi
vì, sau khi Thế Chiến II kết thúc (1939-1945) đã hình thành một cuộc
chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa. Liên Xô đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ “Cách
mạng vô sản” để giải phóng giai cấp, chống các đế quốc xâm lược, giải
phóng dân tộc bị áp bức, để xây dựng một “xã hội không còn cảnh người áp
bức bóc lột người…”. Hoa Kỳ lãnh đạo phe tư bản chủ nghĩa (còn gọi là
Thế giới tự do) thì phất cao ngọn cờ “Đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa tự do”. Để lôi kéo các nước nghèo yếu đi vào quỹ đạo của mình.
Liên
Xô đã thông qua các đảng cộng sản bản xứ làm lính xung kích, phát động
và tiến hành các cuộc chiến tranh dưới ngọn cờ “giải phóng dân tộc”
(ngụy dân tộc, vì chủ nghĩa quốc tế CS không có hấp lực mà xa lạ và còn
là hiểm họa gây kinh hoàng đối với người dân ở các nước) để cộng sản hóa
các nước, mở mang bờ cõi cho phe XHCN. Trong tình thế này và với vai
trò cường quốc lãnh đạo phe các nước tư bản chủ nghia, Hoa Kỳ buộc lòng
phải tìm cách giúp các nước đang có hiểm họa bị cộng sản hóa, trong đó
có Việt Nam cũng rất cần sự tham chiến của Hoa Kỳ.
Hiểm
họa cộng sản hóa Việt Nam khởi sự từ năm 1930, sau khi đảng CSVN được
Ông Hồ Chí Minh nhận lệnh từ Đệ tam quốc tế CS đứng ra thành lập. Cuộc
nội chiến ý thức hệ giữa những người Việt Nam mang ý thức hệ quốc gia
(gọi tắt Việt Quốc) và những người Việt Nam theo ý thức hệ cộng sản (gọi
tắt Việt Cộng) khởi phát từ đây. Theo thời gian cuộc nội chiến này ngày
một gia tăng mức độ, cường độ, phạm vi, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh
Việt Nam (1954-1975). Cuộc chiến tranh này là một giai đoạn của cuộc
nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam (hai giai đoạn kia là “Tiền
chiến tranh Quốc- Cộng” (1930-1954) và hậu chiến tranh Quốc
Cộng”(1975-nay vẫn chưa kết thúc).Vì vậy cuộc chiến tranh Việt Nam mang ý
nghĩa song đôi, nội chiến giữa người Việt Nam vốn mang ý thức hệ quốc
gia (Nationalism) đối kháng với ý thức cộng sản (communism). Nhưng vì
cuộc chiến này lồng trong khung cảnh cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu
giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên cả hai gọi chung là
cuộc chiến Việt Nam.
Cuộc
chiên Việt Nam mang hai ý nghĩa song đôi này khởi sự từ năm 1954, sau
khi thực dân Pháp thất thủ trận Điện Biên Phủ, đã phải ký Hiệp Định
Genève 1954 chia đôi Việt Nam. Hệ quả là Pháp đã mất một nửa thuộc địa
Miền Bắc Việt Nam cho Việt cộng, với đảng CSVN thiết lập chế độ độc tài
toàn trị cộng sản dưới bảng hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (ngụy dân chủ
ngụy cộng hòa từ trong kháng chiến chống Pháp để dấu mặt cộng sản).
Thực chất cũng như thực tế đảng và nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã là
công cụ tri tình cho cộng sản quốc tế làm tên lính xung kích, chủ động
phát động và tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam, cộng sản hóa
cả nước, mở mang bờ cõi cho phe XHCN đứng đầu là hai tân đế quốc CS
Nga-Tàu.
Thế
nhưng, để tạo chính nghĩa lôi kéo được quần chúng tham gia cuộc chiến
này, CSBV đã ngụy trang cuộc chiến dưới ngọn cờ “ Kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước” để khơi động lòng yêu
nước, tinh thần chống ngoại xâm của người Việt Nam. Vì vậy, khi khởi sự
phát động chiến tranh vào tháng 12-1960, CSBV đã thành lập một công cụ
quân sự ngụy dân tộc là “Mặt trân dân tộc giải phóng Miền Nam” và sau đó
thành lập “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”
(1967).Cuộc chiến tranh này đã được Liên Xô, Trung cộng và các nước xã
hội chủ nghĩa tài trợ tối đa tài lực, nhân lực, vũ khí đạn dược và mọi
phương tiên chiến tranh hiện đại để xâm chiếm cho kỳ được Miền Nam Việt
Nam.
Trong
khi đó, còn nửa nước Miền Nam, sau Hiệp Định Genève 1954, Pháp phải
trao trả độc lập hoàn toàn, sau khi đã trao trả độc lập từng phần cho
chính quyền chính thống quốc gia của vua Bảo Đại từ 1948, qua các Thủ
tướng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Bửu Lộc, Nguyễn Văn Tâm và sau cùng là
Thủ tướng chính phủ quốc gia Ngô Đình Diệm. Cuộc trưng cầu dân ý ngày
23-10-1955 đã truất phế vua Bảo Đại, cáo chung chế độ quân chủ chuyên
chế tồn tại hàng ngàn năm lịch sử, chuyển đổi qua chế độ dân chủ pháp
trị Việt Nam Cộng Hòa và Thủ tướng Ngô Đình Diệp được coi là vị Tổng
Thống đầu tiên của Đệ Nhất VNCH trên nền tảng Hiến pháp ban hành ngày
26-10-1956.Hệ quả tất nhiên là chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam
Cộng Hòa phải thực hiện một cuộc chiến tranh tự vệ, trước mắt là để
chặn đứng cuộc chiến tranh xâm lăng của CSBV để bảo vệ độc lập, chủ
quyền trên một nửa đất nước còn lại như di sản của tiền nhân; để sau đó
về lâu dài tìm cách thống nhất giang sơn về một mối. Thống nhất một cách
hòa bình bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị VNCH và giầu mạnh
của Miền Nam, đối với chế độ độc tài toàn trị cộng sản nghèo yếu, lạc
hậu đang tạm chiếm Miền Bắc Việt Nam.(như thực tế nước Đức thống nhất
sau Chiến tranh Lạnh, với ưu thế chế độ Tây Đức dân chủ trên chế độ Đông
Đức độc tài CS…).
Tất
nhiên để thực hiện được mục tiêu gần xa này, trong gọng kìm của cuộc
chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, chính quyền chính thống quốc gia VNCH
rất cần và phải được sự trợ giúp toàn diện từ ngoại viện, không chỉ từ
cường quốc Hoa Kỳ mà của tất cả các quốc gia đồng minh khác trong phe
thế giới tự do. Điều này cũng là hiển nhiên, để đối xứng với sự chi viện
tối đa mọi mặt của Liên Xô, Trung cộng và các nước XHCN cho công cụ xâm
lăng của cộng sản quốc tế là CSBV.
Tuy
nhiên, vấn đề chỉ là Hoa Kỳ tham chiến đến mức độ nào để dỡ tệ hại nhất
mà thành đạt được mục đích tối hậu của mình. Theo nhận định của chúng
tôi, thì ngay từ khi CSBV phát động cuộc chiến, Hoa Kỳ chỉ nên tham gia
đúng với vai trò một nước đồng minh, có mức độ theo yêu cầu của chính
quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa; tôn trọng, độc lập chủ
quyền của một quốc gia độc lập, không can thiệp quá sâu vào công việc
nội bộ của VNCH; coi vai trò chống cộng chủ yếu, chủ động là của VNCH và
chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến giữa người Việt quốc gia và người
Việt cộng sản để giải quyết mâu thuẫn ý thức hệ đối kháng; Hoa Kỳ chỉ
đóng vai phụ trợ giúp, tuyệt đối không đưa quân trực tiếp tham chiến tại
Việt Nam. Vì điều này sẽ (và đã) là “Mỹ hóa chiến tranh”, làm mất chính
nghĩa quốc gia “độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa tự do” của chính
quyền VNCH, giúp đối phương CSBV ngụy dân tộc tạo được chính nghĩa
“chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng, Miền Nam, thống nhất đất
nước”…Như thực tế đã xẩy ra.
Đến
đây, có thể tạm kết luận là Hoa Kỳ cần phải tham gia vào cuộc chiến
Việt Nam do vai trò lãnh đạo phe Thế giới tự do tư bản chủ nghĩa, để trợ
giúp chính quyền chính thống quốc gia VNCH ngăn chặn, đẩy lùi hiểm họa
xâm lăng của phe xã hội chủ nghĩa đứng đấu là Nga-Tàu, trong bối cảnh
cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu hình thành sau Thế chiến II. Tuyệt
nhiên không phải như Tổng thống Hoa kỳ Donald Trump nói, rằng “Cuộc
chiến đó không phải là điều mà chúng ta nên tham gia”. Còn chiến tranh
Việt Nam vẫn luôn là tệ hại (vì chiến tranh nào cũng là điều tệ hại)
chẳng ai mong muốn xẩy ra. Vì đó cũng là điều mà nhân dân Việt Nam trên
cả hai miền Bắc-Nam đều không bao giờ muốn có cuộc chiến tranh “cốt nhục
tương tàn” này. Tất cả chỉ là nạn nhân của lịch sử và trách nhiệm lịch
sử thuộc về những kẻ cầm quyền trên hai miền Bắc Nam trong cuộc chiến
Việt Nam đã chấm dứt 44 năm qua (1975-2019)
Thiện Ý
Houston, ngày 14-6-2019
(Blog VOA)
Không có nhận xét nào