Header Ads

  • Breaking News

    Lê Hữu Khóa – Trí tuệ tù nhân lương tâm Việt tộc


    Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc
     Trí tuệ tù nhân lương tâm Việt tộc

    Đa và đạo

    Tù nhân lương tâm mở cửa cho dân tộc thấy chân trời của nhân quyền, đẩy cửa cho đồng bào thấy rạng đông của dân chủ, bằng chọn lựa của hệ đa: nhận đa đảng để đón đa tài, quý đa trí để dâng đa năng, trọng đa dũng để tạo đa hiệu. Tù nhân lương tâm xuất hiện rồi dùng nhân tính để xóa não bộ của bạo quyền độc đảng toàn trị, dùng nhân lý để tẩy não trạng của tà quyền cơ chế độc trị, dùng nhân bản để gỡ não hoạn của ma quyền công an trị. Tù nhân lương tâm đầy chính nghĩa là những đứa con ngoan dũng của Việt tộc: «Sống có nhân mười phần không khó».Tù nhân lương tâm bồng, ẳm, bế, cõng hệ đạo trong chính nhân kiếp của mình, để làm sáng lên đạo lý: Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ của tổ tiên, để làm rõ ra đạo đức của Việt tộc: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Chính đạo lý khi song hành cùng đạo đức làm nên luân lý qua bổn phận và trách nhiệm của Việt tộc khi gọi nhau là đồng bào, cùng tổ tiên, cùng huyết thống. Trên thượng nguồn lập quốc con dân Việt đã sinh ra cùng một bào thai thủa nào của cha Lạc Long Quân, của mẹ Âu Cơ, luôn thấy để thấu: «Máu chảy ruột mềm». Tù nhân lương tâm là những đứa con đoan chính của Việt tộc qua dấn thân: «Máu chảy tới đâu ruột đau tới đó».

    Tù nhân lương tâm: công chúng của công bằng

    Khi thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các báo đài của tuyên giáo khẳng định là Việt Nam: không có tù nhân lương tâm! và Việt Nam có Nhà nước Pháp quyền! Họ đã làm các chuyên gia về Việt Nam phải «bật cười» vì phản xạ man trá của họ đã thành «bẩm sinh» trong phản ứng bưng bít để bịp bợm công luận. Các ngành khoa học xã hội nhân văn có những chỉ báo rất rõ về để đi từ định nghĩa tới định luận thế nào là lương tâm? Và ai là tù nhân lương tâm? qua các giải luận sau đây:

    Triết học đạo đức phân tích rõ các công dân là những con người có mong cầu được sống trong một chế độ tốt biết bảo quản cho một xã hội tốt, một định chế tốt biết bảo hành một cuộc sống tốt. Chính tính từ tốt đã làm nên định đề để định vị nhân quyền của con người là luôn muốn có một quan hệ tốt giữa họ và chính quyền. Và khi họ phải trực diện dùng tính mạng để dấn thân chống một chế độ xấu sản sinh ra một xã hội tồi, một định chế ác đã tạo ra một cuộc sống tục, thì họ có thể trở thành tù nhân lương tâm bất cứ lúc nào bởi bạo quyền cầm quyền. Nếu chính quyền xấu và ác đó bỏ tù họ, đẩy họ vào vòng lao lý thì chính quyền đó không những xấu, tồi, tục, dở mà nó còn thâm, độc, ác, hiểm đã dùng bạo lực để truy sát những cái hay, đẹp, tốt, lành đã có trong tính lương thiện, làm nên lương tâm, dựng lên lương tri của họ. Mà trường hợp tiêu biểu là chặng đường đấu tranh của sinh viên trẻ Trần Hoàng Phúc chỉ đến miền Trung để làm từ thiện giúp các đồng bào miền Trung tại Nghệ An đang chịu lũ lụt, đã bị bắt cóc, bị tra tấn dã man, bị trấn lột bởi công an trá hình, bị lột trần truồng, bị bỏ giữa rừng ngay biên giới Lào Việt, để sau đó bị bắt trở lại và phải nhận một bản án 6 năm tù giam và 4 năm quản chế.

    Chính trị học nhận thức giải thích là quá trình nhận thức của một công dân trước bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đã liên minh với nhau thành một tổng thể để vơ vét tài nguyên đất nước, trấn lột tiền bạc của đồng bào. Tại đây, quá trình đấu tranh cũng được xây dựng như một tổng thể mà nhận thức là hạ nguồn, mà thượng nguồn là kiến thức tới từ thực trạng xấu của một xã hội đang bị đồi bại hóa bởi bạo quyền độc đảng. Khi kiến thức khi được xếp đặt thành tri thức để biết về một dân tộc đang bị âm binh hóa bởi tà quyền tham quan làm giàu bằng tham ô và tham nhũng. Sự xuất hiện của ý thức khi khám phá ra một ma quyền tham tiền khi tham đất thì phá nhà để cướp đất, biến dân lành thành dân oan, giờ đây đã định hình thành nhận thức. Mà nhận thức chính là sự tỉnh thức trước bất công của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, đã làm nên sự cảnh tỉnh trước các hiểm họa đang đe dọa một đất nước, một dân tộc, một tiền đồ, một đạo đức quốc gia. Đó là trường hợp của anh Lưu Văn Vịnh và các người đồng hành cùng anh trong phong trào Dân Tộc Tự Quyết, họ muốn Việt tộc phải có quyền tự quyết, ra khỏi cái nhà tù vô hình đang trùm phủ lên số phận của cả một đất nước, đang vùi lấp ngay trên tương lai của của cả một dân tộc.

    Tù nhân lương tâm: công chúng của công lý

    Khi thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các báo đài của tuyên giáo xác định là Việt Nam: không có tù nhân lương tâm! và Việt Nam có nhà nước Pháp quyền! Thì họ đã làm các ký giả thâm hiểu về thảm trạng Việt Nam phải «phì cười» trước phản xạ dối trá của họ mà các quan sát viên của Liên Hiệp Quốc và các hội đoàn quốc tế về nhân quyền đã xếp vào loại: «đểu cáng» trong phản ứng loại tà ngữ trong điếm nghiệp. Riêng các ngành khoa học xã hội nhân văn có những tiêu chí rành mạch về để đi từ định đề tới định vị thế nào là lương tâm? Và ai là tù nhân lương tâm? qua các diễn luận có lý luận, có lập luận sau đây của xã hội học chính trị đã thiết lập một hệ thống tri thức từ nghiên cứu tới khảo sát, tự điều tra tới điền dã, nơi mà sự thật tới từ thực địa luôn có nền móng của chân lý ngay trên ba định đề đã giúp xã hội học ra đời:

    *Thứ nhất là đời sống xã hội có công bằng hay đang chịu bất công, trong hiện trạng của Việt Nam, thì chính bạo quyền độc đảng là nguồn gốc của mọi bất công từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới nghề nghiệp, từ cá nhân tới tập thể, từ cộng đồng tới dân tộc. Tại đây, sự phân biệt trong đảng và ngoài đảng, là nguồn cơn sâu xa của một hệ thống bất công và rất bất nhân.

    * Thứ nhì, là sinh hoạt xã hội, trong đó những kẻ được xem là trong đảng, tức là được ĐCSVN bảo hộ rồi bảo kê thì được vào «đúng quy trình» của tham quyền để thành tham quan, rồi lấy tham ô mà tham nhũng, và thảnh thơi trong tham tiền trong vi hiến và phi pháp, mà công lý của pháp quyền luôn bị vùi dập.

    * Thứ ba là quan hệ xã hội của thảm kịch Việt nay hiện nay là hối lộ để mua chức bán quyền của loài ký sinh trùng hút máu chính đồng bào của mình để vinh thân phì da. Đa số này đã trở thành bọn sâu dân mọt nước, thừa nước đục (độc đảng) để thả câu mưu lợi vì tự lợi của chúng.

    Hiện nay đời sống xã hội đã và đang bị bạo động hóa bởi bạo quyền độc đảng với hành vi xấu, tồi, tục, dở; khi sinh hoạt xã hội đã và đang bị đồi trụy hóa bởi tà quyền tham quan với hành tác trộm, cắp, cướp, giật, khi quan hệ xã hội với đã và đang bị âm binh hóa bởi ma quyền. Mà trong lịch sử thì Việt tộc là một minh tộc có thông minh luôn biết đuổi ngoại xâm phương Bắc ra khỏi bờ cõi của mình, là một dũng tộc bất khuất và kiên cường trong đấu tranh để giữ toàn vẹn lãnh thổ vì độc lập dân tộc. Trên những phân tích của xã hội học chính trị về thảm trạng mà đất nước Việt đang chịu, về thảm cảnh mà dân tộc Việt đang gánh, thì chắc chắn là phải có tù nhân lương tâm!

    Các tù nhân lương tâm sẽ ngày càng nhiều nếu bạo quyền độc đảng còn cầm quyền, tà quyền tham quan còn giữ quyền, ma quyền tham tiền còn có quyền, khi chúng tiếp tục vùi dập nhân tâm, truy diệt nhân bản, ám sát nhân quyền.

    Tù nhân lương tâm: công chúng của công pháp

    Các tù nhân lương tâm chính là công pháp vì công chúng để vạch mặt chỉ tên bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đang trù ếm nhân phẩm của Việt tộc. Tại đây, lương tâm là gì? Các tù nhân lương tâm là những ai? Hãy dùng giáo dục học phân tích để đi sâu vào hành vi, hành động, hành tác của họ, bằng những chỉ báo mà khoa học giáo dục tri thức và xã hội học lao động đã biết trợ lực cho nhau để làm xuất hiện các định nghĩa, định đề, định luận sau đây:

    *Thành người trong giáo dục: mọi công dân trong một nhà nước pháp quyền đều được hưởng thành công trong giáo dục, nơi mà kiến thức giúp sự trưởng thành về nhân cách luôn song hành cùng tri thức của khoa học nơi mà sự thật của khoa học làm nên chân lý của nhân sinh. Thảm trạng của Việt Nam hiện nay là cái giả đã ngự trị để giết cái thật với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Khi sự bất công đã có mặt ngay trên thượng nguồn khi học làm người, tức là ngay tại học đường, với mua bằng bán cấp, chính nó đã đánh thức tính lương thiện, đã làm tỉnh thức lương tâm, để lương tri để một công dân đi vào cuộc dấn thân vì giáo dục, giáo lý, giáo luận.

    *Thành tài trong nghề nghiệp: mọi công dân khi rời trường lớp, rời một hệ thống giáo dục để làm người trưởng thành như một chủ thể có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với tổ quốc, có lương tâm tốt để phục vụ tốt cho nghề nghiệp mà chính học có tự do chọn lựa. Thảm họa của xã hội Việt hiện nay là mua chức bán quyền để vinh thân phì da, nơi mà nhất nghệ tinh nhất thân vinh không chỗ đứng ghế ngồi, mà phải nhường chỗ cho hoạn bịnh của chế độ độc đảng giữ độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong quản lý, bằng ung thư do chính nó tạo ra: tiền tệ-quan hệ-hậu duệ để diệt trí tuệ của nghề lẫn nghệ của tất cả ai yêu nghề, trọng nghệ để có một nghiệp tốt.

    *Thành công trong kinh tế: mọi công dân trong một nhà nước pháp quyền biết bảo vệ nhân quyền đều phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để chuyện thành người trong học đường và thành công trong nghề nghiệp cụ thể trở nên thành công trong kinh tế, với đời sống vật chất vững, với vốn liếng tài chính bền. Sự bền vững của một cuộc sống kinh tế có thăng tiến là chỉ báo rành mạch của một xã hội có chính quyền liêm chính, có chính phủ liêm sỉ, vì có chính sách lãnh đạo liêm minh. Nơi đây, tà quyền tham quan không có chỗ đứng, tại đây ma quyền tham tiền không có ghế ngồi, mà chỗ đứng ghế ngồi của chúng là các tòa án của lương tâm mà từ chứng nhân tới với chứng từ được công bố bởi chính các tù nhân lương tâm đã là nạn nhân của chúng.

    *Thành tựu trong xã hội: mọi công dân trong một quốc gia có văn minh vì trọng dân chủ, một xã hội có văn hiến vì yêu nhân quyền khi đã thành người trong giáo dục, thành tài trong nghề nghiệp, thành công trong kinh tế sẽ được công nhận bằng thành tựu trong xã hội, nơi mà những chặn đường hay, đẹp, tốt, lành của một định chế sẽ tạo dựng được thành quả của cả một đời người. Như vậy, các tù nhân lương tâm là ai? Họ chính là những chủ thể đấu tranh đang chống lại bạo quyền, tà quyền, ma quyền đã trộm, cặp, cướp giật đi các thành quả này của họ và của đồng bào họ!

    Tù nhân lương tâm: công chúng của công luật

    Khi thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các báo đài của tuyên giáo xác định là Việt Nam: không có tù nhân lương tâm! và Việt Nam có Nhà nước Pháp quyền! thì họ đã làm các quan sát viên về thảm họa Việt Nam phải «nghẹn cười» trước phản xạ gian manh của họ. Các quan sát viên đã quan sát bi kịch của Việt tộc từng ngày, nên quan sát viên đã xếp tuyên bố này vào loại: «đểu ngôn» mang trong phản ứng của loài ma từ trong tà lộ. Khi các quan sát viên quốc tế và quốc nội đã chia sẻ các nhận định, các phân tích, các giải thích cùng với các tù nhân lương tâm, tại đây họ đã có những đồng thuận từ hiện tượng luận trước bi nạn của Việt tộc tới hiện tượng học trực cảnh của thảm kịch đang chờ đón Việt tộc đang bên bờ vực thẳm của mất nước tới từ ma trận của; Tàu họa, Tàu họan, Tàu nạn, Tàu tà, Tàu tặc, được tiếp tay bởi bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, là những thành phần phản dân hại nước:

    *Đã đưa Tàu họa qua ô nhiễm môi trường với công nghiệp bẩn.

    *Đã đón Tàu hoạn bằng thực phẩm bẩn với hóa chất độc,

    *Đã mở cửa cho Tàu nạn vào lập cơ ngơi để buôn ma túy, lập cơ sở để điếm hóa phụ nữ Việt, lập cơ nghiệp để bài bạc hóa ngay trên đất nước Việt.

    *Đã để Tàu tà lập cơ đồ để buôn người rồi bán nội tạng của dân Việt.

    Một công chúng bị điều khiển bởi bọn phản dân hại nước, một công pháp bị điều hành bởi bọn sâu dân mọt nước, vụ lợi để tư lợi, là chúng sẵn sàng đi thêm một bước nhỏ nữa để trở thành bọn buôn dân bán nước, vì nhân sinh quan ký sinh trùng của chúng luôn mang mầm móng của bọn mại quốc cầu vinh trước Tàu tặc. Như vậy, các tù nhân lương tâm là ai? là các chủ thể nhận bổn phận với dân tộc, lãnh trách nhiệm với tổ quốc để lập nên phương trình đôi để đấu tranh bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền:


    Phương trình thứ nhất của thượng nguồn nhân bản: lương thiện-lương tâm-lương tri, có trong nhân tính Việt, có trong nhân lý Việt.


    Phương trình thứ nhì của hạ nguồn nhân vị: công bằng-công lý-công pháp, có trong nhân nghĩa Việt, có trong nhân tri Việt.

    Sự liên kết từ thượng nguồn tới hạ nguồn làm nên sự liên minh trong dấn thân, trong đấu tranh qua một phương trình đôi để khẳng định nội công, bản lĩnh và tầm vóc của các tù nhân lương tâm:


    Phương trình đầu tiên của hệ hành: lấy hành vi lương thiện làm nên sự tỉnh thức của lương tâm, lấy định vị của lương tâm làm nên ảnh hưởng của lương tri trong quần chúng, trong xã hội.


    Phương trình tiếp theo của hệ kháng: lấy đối kháng để trực diện với bạo quyền độc đảng phản dân chủ, với đối luận để đối đầu với tà quyền tham quan phản công bằng, với đối trọng chống ma quyền tham tiền phản đạo đức dân tộc.

    Các tù nhân lương tâm là ai? Họ là những công dân Việt đã hiểu, đã thấu đạo lý tổ tiên Việt: Cây ngay không sợ chết đứng!

    Tù nhân lương tâm: công chúng của công luận

    Hãy giải luận phạm trù công luận trước khi giải lý phạm trù công chúng, qua các hành động cụ thể của các tù nhân lương tâm, qua kinh nghiệm của các chủ thể rất cụ thể trong công cuộc đấu tranh bằng dấn thân và cả bằng tính mạng của họ, đó là trường hợp:

    * Nguyễn Năng Tỉnh, nhà giáo của thành phố Vinh, làm việc có lương tâm, biến lương tri thành hành động không những giúp đỡ các đồng bào, các đồng loại trong khó khăn, mà còn biến sự lương thiện của mình để phản bác các man trá của bạo quyền lãnh đạo, các bưng bít của tà quyền địa phương, các bịp bợm của ma quyền tham tiền tất cả đang lũng đoạn xã hội Việt, dân tộc Việt.

    *Lưu Văn Vịnh, cùng các bạn của ông trong Liên Minh Dân Tộc Tự Quyết đã hiểu Hiến pháp là dân tộc và đất nước Việt Nam là của mọi người dân Việt, chớ không phải sở hữu riêng của một đảng cầm quyền đã thành tội phạm, với tà quyền khi sâu dân mọt nước bằng tham nhũng, với ma quyền của phản dân hại nước. Nhóm Liên Minh Dân Tộc Tự Quyết không kêu gọi lật đổ chính quyền độc đảng, họ chỉ tuyên bố là họ sẵn sàng để thay thế chính quyền độc tài bất tài này khi nó sụp đổ.

    *Trần Long Phi, một thanh niên 20 tuổi đã biểu tình chống lại luật đặc khu, chính là luật cho phép tà quyền độc đảng bán nước cho kẻ thù phương Bắc là Tàu tặc, khi nhận bản án 8 năm tù giam và 3 năm quản chế, với lương tâm vững đã thành lương tri sáng, thanh niên này đã không hề sợ và tuyên bố trước phiên tòa bất nhân là: «Nếu ai cũng sợ thì dân tộc này bao giờ mới có tự do!».

    *Huỳnh Đức Thanh Bình, một sinh viên có mặt trong hoạt động xã hội vì tự do và công bằng đã bị bắt giam từ nhiều tháng mà vẫn được tiếp cận với luật sư để bảo vệ mình, mà chính luật pháp hiện hành đã viết rõ là người bị bắt giam phải được có luật sư trong 24 giờ. Khi công an kết tội là sinh viên này có hành động tổ chức lật đổ chính quyền, thì luật sư Nguyễn Văn Miếng đã có đầy đủ hồ sơ thì khẳng định ngược lại là đây chỉ là một công dân yêu nước và chỉ thể hiện quyền yêu nước của mình.

    *Trần Hoàng Phúc, một sinh viên có mặt trong hoạt động từ thiện, bằng hành động thiện nguyện để giúp đỡ các đồng bào miền Trung trong lũ lụt, đã bị bắt cóc, bị tra tấn, bị trấn lột, bị lột trần, bị bỏ vào rừng, và khi nhận bản án 6 năm tù và 4 năm quản chế đã tuyên bố với bạo quyền thế nào là tội! thế nào là xử tội trước bọn quan tòa của ma quyền: «Ngày nay các ông xử tôi, thì ngày sau nhân dân sẽ xử tội các ông!».

    Còn bao tù nhân lương tâm không phải là tù nhân hình sự, chẳng phải là tội nhân phạm pháp, họ ngược lại với tập đoàn tội phạm lãnh đạo, với bè lũ tà quyền đã bán lương tâm cho ma quyền tham tiền. Vì tù nhân lương tâm đã thực hiện được, đã thể hiện được một nhân lý lồng trong nhân tính, một nhân trí lồng trong nhân tri là họ đã: đứng về phía nước mắt! (nước mắt của nạn nhân). Một nhân sinh quan, một thế giới quan trung tâm ngay trong địa lý, địa dư, địa phận, địa danh của nước mắt, một chuyện mà không sao bạo quyền, tà quyền, ma quyền làm được, vì chúng chính là tác giả và tác nhân rất bất nhân đã làm ra: nước mắt!

    Tù nhân lương tâm : giá trị lý trí

    Tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu, được bầu là người tù thế kỷ với hơn 30 năm trong nhà tù của bạo quyền độc đảng đã dùng tà quyền tư pháp làm công cụ để hủy diệt một công dân chỉ muốn nói lên tiếng nói của công chúng, đòi công lý cho các nạn nhân của chế độ bạo tà này. Nguyên nhân sâu xa trên thượng nguồn là sự uất ức đã biến thành lòng quả cảm của Nguyễn Hữu Cầu trước tội ác của bọn tà quyền lãnh đạo là Viện kiểm soát và bọn ma quyền công an của tỉnh Kiên Giang, đã tổ chức thành một lực lượng âm binh được che chở bảo lãnh đạo toàn trị của chúng ở trung ương. Tội ác của bọn tà quyền lãnh đạo Viện kiểm soát và bọn ma quyền công an của tỉnh Kiên Giang là cướp của, cướp tiền của các đồng bào vượt biên tìm tự do sau 1975, khi chế độ âm binh toàn trị trùm phủ lên số phận của dân tộc. Rồi cũng chính chúng đã tổ chức hãm hiếp các phụ nữ vượt biên bị chúng bắt giam ngay trong công sở của chính quyền, mà số nạn nhân lên hằng trăm. Đó là những năm tháng nhơ nhớp của chế độ ma bùn, ngày ngày che chở bọn ma xó tội phạm Viện kiểm soát và bọn ma trơi công an của tỉnh Kiên Giang. Liên minh âm binh này có công an trong tay, có trong tòa án trong tay để cướp của, hãm người, lại được trung ương của chúng bao che. Khi Nguyễn Hữu Cầu viết đơn, viết thư để tố cáo chúng thì chính liên minh hàng dọc từ trung ương tới bí thư tỉnh đã làm « ô dù », đã « chống lưng » cho bọn ma xó tội phạm Viện kiểm soát và bọn ma trơi công an này.

    Nguyễn Hữu Cầu chấp nhận số kiếp tù nhân lương tâm thế kỷ để công chúng thấy, hiểu, thấu mà đòi công lý cho các nạn nhận, mà cũng cho chính họ. Từ tra tấn tới ép cung, từ đổi lời khai tới vụ cáo, vu khống với những xảo thuật gian trá lập biên bản giả để vụ họa rồi tuyên án tử hình Nguyễn Hữu Cầu. Tù nhân lương tâm này không hề nhận lỗi, nhận tội qua biên bản của bọn bạo quyền ma trơi công an, tà quyền ma xó của Viện kiểm soát, và trước sự căm phẫn của công chúng đã đổi án tử hình thành án chung thân khổ sai. Tiếng nói đòi công lý của Nguyễn Hữu Cầu, cũng là nhạc sĩ với tiếng hát lời ca đòi công bằng, đòi nhân phẩm, và trước sự vây hãm, trù dập của bọn âm binh từ trung ương tới địa phương, chúng ngày ngày tìm cách truy diệt ông ngay trong nhà tù. Khi còn trong tù ông đã được bác sĩ khám là mang nhiều trọng bịnh, khi ra khỏi nhà tù các trọng bịnh này đã đặt ông trước cái chết ngay ngày đầu tiên được tự do. Nhưng tình thương của gia đình, hàng xóm, bạn bè song hành cùng lòng quý trọng của các bác sĩ, luật sư đối với ông đã cứu ông. Họ cứu mạng sống tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu như cụ thể cứu lấy gốc, rể, cội, nguồn của công lý !

    Tù nhân lương tâm : giá trị trí tuệ

    Bác sĩ Nguyễn Đang Quế mang giá trị trí tuệ của một tù nhân lương tâm, với 3 lần bị bắt giam, với hơn 20 năm trong ngục tù của bạo quyền độc đảng. Một giá trị trí tuệ thông suốt, của nhìn xa trông rộng, từ thảm trạng hiện nay tới tương lai sau này mà lối thoát của Việt tộc chỉ có thể là dân chủ hóa, để bảo đảm tự do cho dân tộc và phát triển trong văn minh cho đất nước. Năm 1978, cùng với thành viên trong Mặt trận Dân tộc Tiến bộ, Bác sĩ Nguyễn Đang Quế kêu gọi tranh đấu bất bạo động trước bạo quyền độc tài, ông đã bị bắt và giam không xét xử. Năm 1990, bác sĩ Nguyễn Đang Quế cho ra đời tổ chức Cao Trào Nhân Bản kêu gọi độc đảng toàn trị hiện nay phải tôn trọng nhân quyền, đa nguyên chính trị và tuyển cử tự do. Bác sĩ Nguyễn Đang Quế bị bắt lại ngay với tội “âm mưu lật đổ chính quyền”, với bản án tuyên án 20 năm khổ sai, cộng thêm 5 năm quản thúc tại gia. Mà chỉ tên của tội này : “âm mưu lật đổ chính quyền”, có trong hầu hết các bản án để đưa các nhà đấu tranh vì tự do, dân chủ, nhân quyền, mà ai cũng thấy cái độc đoán của độc đảng chính là bịnh ung thư thâm sâu của một bạo quyền độc đảng luôn bị bại liệt ngay trong trí tuệ của nó. Vì nó là không bao giờ dám : đối diện để đối thoại, đối luận để đối trí, với các tù nhân lương tâm có nội công của nhân bản, nội lực của nhân quyên như Bác sĩ Nguyễn Đang Quế. Nhưng thế giới bên ngoài đại diên cho văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền đã nhận ra và công nhận công cuộc đấu tranh của bác sĩ Nguyễn Đang Quế, ông được trao các giải :


    Giải Nhân quyền Raoul Wallenbergnăm 1994, Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy năm 1995.


    Giải Hellman/Hammettcủa Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) năm 2002.


    Giải Nhân quyền Heinz R. Pagelsnăm 2004.


    Giải nhân quyền Gwangju(Hàn Quốc) năm 2016.

    Bác sĩ Nguyễn Đang Quế còn được đề cử làm ứng viên cho Giải Nobel về hòa bình, vì ông là một biểu tượng của hòa bình bằng con đường đấu tranh bất bạo động vì dân chủ, vì đa nguyên để phục vụ cho nhân quyền. Khi tổng kết các công bố cũng như các lý luận có trong các câu trả lời khi báo chí và truyền thông quốc tế hỏi ông về tình hình Việt Nam hiên nay, thì Bác sĩ Nguyễn Đang Quế đã trao cho chúng ta có một chìa khóa để mở cửa tù của độc đảng toàn trị đang trùm phủ lên số phận của dân tộc Viêt, đang vây bủa đất nước Việt, tên chìa khóa đó là : dân chủ hóa ! Và chỉ con đường dân chủ hóa này thì Việt tộc mới thoát được :


    Độc quyền của độc đảng, để nhận tự do mà phát triển đất nước.


    Độc đảng của độc trị, để có đa nguyên bằng dân chủ để đấu tranh toàn diện chống Tàu tặc đang truy hiếp ĐCSVN, để truy sát số phận của Việt Nam.


    Độc tài của độc tôn, để lấy lại nhân quyền và chỉ có nhân quyền tạo nên nhân phẩm, thì nhân vị của công dân Việt mới được tôn trọng, thì dân tộc Việt sẽ cống hiến trọn vẹn cho sinh mệnh của dân tộc và tương lai của đất nước

    Tù nhân lương tâm: giá trị trí lực

    Khi cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Tuấn Nam qua đời, nhiều người dân Việt mới biết ông là một tù nhân lương tâm bất khuất trước bạo quyền. Nguyễn Tuấn Nam còn có bút hiệu là Bảo Giang, là nhà giáo đã làm việc, đã sống dưới chế độ toàn trị này. Và khi khám phá ra bộ mặt thật của chính quyền độc đảng gian trá, ông đã rời bỏ đất nước qua để qua Campuchia tiếp tục nghề giáo giúp các con em Việt đang lang thang trên quê hương này.

    Ông đã gia nhập vào chương trình Nhân Dân Hành Động để đòi tự do, dân chủ, nhân quyền và đa đảng cho Việt Nam. Năm 1996 cảnh sát của xứ sở này đã bắt 28 thành viên của Nhân Dân Hành Động, sau đó ông có tên trong số 18 người bị dẫn độ về Việt Nam, vào năm 1999 là tòa án Long Xuyên xử ông với bản án bất nhân là 20 năm tù.

    Phẩm chất của Nguyễn Tuấn Nam ngày ngày lộ rõ trong vòng lao lý, ông nhận gánh vác những chuyện nặng nhọc cho các bạn tù khác, nên ông nhận được sự kính nể và quý trọng của các bạn tù. Nhưng trước bọn quản giáo và cai tù thì ông luôn có thái độ rõ ràng của người cương quyết bảo vệ lý tưởng vì tự do, vì dân chủ của mình. Bằng những hành động cụ thể trong mọi cuộc đấu tranh cùng với các bạn tù trước điều kiện hà khắc của nhà tù, từ đấu tranh trực diện tới tuyệt thực nhiều ngày, rồi với tuổi đời đã cao, ông dùng sinh lực còn lại của mình để hô to ngay trong nhà giam : « Đả đảo bạo quyền đàn áp tù nhân chính trị ! ». Khi mãn án tù, ông rời nhà tù rồi bơ vơ như kẻ không gia đình, không nhà cửa. Là người đã theo đạo thiên chúa, ông được dòng Chúa Cứu Thế giúp đỡ đưa ông về trại dưỡng lão Cần Giờ. Ngày đám tang của tù nhân lương tâm Nguyễn Tuấn Nam không một người thân thuộc tới dự, những người tới dự đám tang chính là các bạn tù của Nguyễn Tuấn Nam. Họ nhận tang như nhận lương tâm của Nguyễn Tuấn Nam đã nhập nội vào lương tâm của họ để họ có thêm hùng lực đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước. Vì họ là những lương tâm thật, như vàng đã thử lửa, họ luôn là đối phương để đối diện với độc tài, cùng hứa với nhau là sẽ gỡ đi các độc hại đến từ cái độc đoán của độc đảng!

    Tù nhân lương tâm: giá trị tâm lực

    Chúng ta có thể nhận ra giá trị tâm lực của các tù nhân lương tâm không qua tuyên bố gian trá trước báo chí phương Tây của tên thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã lẻo miệng bằng phản xạ mang trá của hắn khi hắn tuyên bố là: « Tại Việt Nam không có tù nhân lương tâm! ». Mà chúng ta có thể nghe, thấy, thấu các giá trị tâm lực của các tù nhân lương tâm qua các lời cầu nguyện của những tín đồ tôn giáo có lương tâm, còn lương tri, vì lòng lương thiện của họ luôn nguyên vẹn, mà thí dụ rõ nét nhất chúng ta nghe được qua bài đọc của linh mục Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, Chúa nhật 18 thàng 9 năm 2016, tại Thái Hà. Câu chuyện giá trị tâm lực của các tù nhân lương tâm của mục sự này có nội dụng gì ? Nó có nội dung lương thiện luôn làm chỗ dựa cho các giá trị của lương tâm, khi ông phân tích :


    Các tù nhân lương tâm là một thiểu số còn ít ỏi nhưng họ dùng sự cản đảm của họ để đánh thức xã hội, để cảnh tỉnh dân tộc, để thức tỉnh đồng bào trước các bất công của bạo quyền độc đảng, tà quyền độc trị, ma quyền độc tôn để tham quyền vì tham ô, tham nhũng vì tham tiền.


    Chính sự can đảm đấu tranh của các tù nhân lương tâm bắt họ phải trả những cái giá thật đắt với các bản án ròng nhiều năm tù, khi họ còn biết nói lên các hiểm họa xâm lược của Tàu tặc, đại nạn ô nhiễm môi trường của Tàu họa, hậu nạn thực phẩm bẩn với hóa chất độc của Tàu hoạn. Tất cả hiểm nạn của Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn làm nên Tàu nạn mà đất nước, đồng bào đang gánh chịu bây giờ và trong nhiều thế hệ mai sau nữa.


    Chính các án tù dài đăng đẳng không làm các tù nhân lương tâm lùi bước, vì chính họ là đại diện cho sự chính trực làm nên công minh của lương tâm trước bạo quyền độc đảng, với các ý đồ ma quyền của nó, vừa chà đạp lên sự thật, vừa truy hủy lương tri để truy diệt lương thiện có trong mỗi con dân Việt.


    Chính các tù nhân lương tâm không lùi bước, mà còn đi xa để cao hơn nữa là họ đã và đang cảnh tỉnh các lãnh đạo cấp cao nhất trong tập đoàn độc đảng toàn trị là bạo quyền của họ, tà quyền của bè đảng họ, ma quyền của tay chân họ đang đưa đồng bào và đất nước từ hiểm lộ để lọt vào tử lộ mà sự tồn vong của đất nước đang bị đe dọa hàng ngày.


    Chính các tù nhân lương tâm đã rất mạch lạc trong phân giải của họ là : từ khi ĐCSVN cầm quyền nhưng chưa bao giờ được nhân dân bầu ra, nó chỉ biết bảo vệ quyền lợi của đảng phái, mà giờ đây đã thành tư lợi của các tập đoàn tội phạm có mặt trong Trung ương Đảng và trong chính quyền, nơi đây số phận đất nước, số kiếp đồng bào chỉ là những món hàng để bọn này mua đi bán lại, để chúng buôn dân bán nước…

    Tù nhân lương tâm: giá trị tuệ giác

    Giá trị tuệ giác của Thượng tọa Thích Quảng Độ có trong mọi câu trả lời của Thượng tọa về công cuộc đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam, khi ông trả lời các báo chí quốc tế về câu hỏi : « Phật giáo thì dính dáng gì tới chuyện đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền ? », Thượng tọa Thích Quảng Độ trả lời : « Phật giáo đấu tranh để mưu cầu hạnh phúc, đưa chúng sinh ra khỏi thống khổ, và con đường dân chủ và nhân quyền là con đường đưa con người khỏi thống khổ để đi tới hạnh phúc ». Tuệ giác này còn được làm sáng lên với lòng từ bi, chính là sự thông minh của tuệ giác Phật đạo. Khi được hỏi là : « Thượng tọa có căm thù những người lãnh đạo Cộng Sản độc tài hiện nay hay không ? », Thượng tọa Thích Quảng Độ nói rõ: « Tôi không căm thù những người lãnh đạo Cộng Sản độc tài hiện nay, tôi chỉ đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền vì hành phúc của người Việt đang đau khổ dưới chế độ độc đảng-độc tài này ; Tôi cũng biết là những người lãnh đạo Cộng Sản độc tài hiện nay họ không có hạnh phúc, họ cũng khổ tâm vì những ai dùng bạo quyền để đàn áp, dùng tà quyền để cướp bóc, thì những người đó không bao giờ có hạnh phúc ! »

    Thượng tọa Thích Quảng Độ là Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ năm 2008, đã được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto năm 2006, mà cùng là một nhân vật nhiều lần được đề cử cho giải Nobel Hòa bình , ông được báo chí quốc tế xem là một trong những người có cơ hội đoạt giải này. Trong Phật trình thì Thượng tọa Thích Quảng Độ đã được bầu làm Tổng thư ký Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) năm 1965. Khi các giáo phái Phật giáo ở hai miền Việt Nam bị ép buộc vào Mặt trận tổ quốc mang tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị giải tán bởi bạo quyền toàn trị hiện nay mà không có một văn bản chính thức nào. Ngay sau đó chính bạo quyền toàn trị hiện nay đã tuyên cáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là bất hợp pháp ! Phật trình của Thượng tọa của là lộ trình của một tù nhân lương tâm bất khuất vì Phật đạo và vì dân tộc. Sau 1975, Thượng tọa bị lưu giam ở Thái Bình vì không chấp nhận cho bạo quyền thao túng và giật dây giáo hội, sau đó lại bị bạo quyền bắt giam năm 1977. Đến năm 1982 thì Thượng tọa và mẹ của Thượng tọa bị trục xuất về nguyên quán xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Thượng tọa lại bị bắt giam vào tháng 8 năm 1995, tòa án đã tuyên án Thích Quảng Độ cùng cùng các sư đã đồng hành cùng ông : Không Tánh, Đồng Ngọc, Nhật Thường, Trí Lực mức án 5 năm tù giam và 5 năm quản chế. Trước áp lực quốc tế, Thượng tọa được trả tự do và được mời đi tỵ nạn tại Mỹ, nhưng Thượng tọa đã từ chối và khẳng định rằng: « Tôi phải ở lại với quần chúng Phật tử của tôi! » để chia sẻ mọi nỗi khổ niềm đau cùng với họ.

    ***

    Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc *Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

    (viettudomunich.org/)

    Không có nhận xét nào