Header Ads

  • Breaking News

    Thiện Tùng - Người với Đất


    Con người sống không thể thiếu đất. Đất là nơi để ở và canh tác khi sống, để vùi thây khi chết.
     Người với Đất

    Trong 90 năm qua, tính từ năm 1930 cho đến nay 2020, người dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng, lận đận vì đất đai luôn biến thái, khi thì người dân được quyền sở hữu đất, khi thì chỉ được quyền sử dụng đất. Có thể tạm chia làm 3 giai đoạn lịch sử để minh chứng cho việc nầy. Vì là dân Nam bộ, khá rõ về đất đai ở Nam bộ, nên bài viết nầy tôi nặng nói về Nam bộ – thấy sao nói vậy không thiên vị .

    1/ Thời kỳ 1930-1950 – Quyền sở hữu đất về tay Địa chủ

    Đây là thời Thực dân, Phong kiến . Đất nước bị Pháp đô hộ, vua quan triều đình hư vị, bọn gian manh dựa vào Pháp cướp đất của dân trở thành những tên Chúa đất.

    Nhứt là thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, sách sử cũng đã ghi: dân “đàng ngoài” đổ vào “đàng trong” khai phá đất hoang. Từ đường biển vào, đầu tiên cụm ở 2 nơi Biên Hòa và Gò Công; Từ xuôi dòng sông Mékong đến cụm ở kinh Mang Thít (Cái Thia). Ba cụm dân nầy lân lượt bung ra chiếm lĩnh, khai hoang cả vùng đất Nam bộ.

    Đất đai do họ khai phá, lẽ ra quyền sở hữu thuộc về họ? Nhưng, những kẻ gian manh ôm chân Pháp, cứ thấy vùng đất nào “ngon xơi” thì chúng tự vẽ ra sơ đồ cho chính quyền đô hộ (Pháp) chuẩn y để tước đi quyền sở hữu mà chỉ cho người nông dân quyền sử dụng đất, biến họ thành tá điền, phát canh thu tô trên chính mảnh đất do họ dài công khai phá. Không chỉ thế, nhà cầm quyền Pháp còn cơ cấu bọn gian manh nầy vào cơ quan lập pháp cùng khắp các địa phương : Hội đồng Trạch, hội đồng Nhơn, hội đồng Bền, đốc phủ Kiểng… chẳng hạn, tha hồ đè đấu cỡi cổ dân. Từ đó, việc tranh chấp đất đai xuất hiện khắp nơi, lẽ phải nằm trong tay kẻ có quyền. Khi kẻ cướp cầm quyền, người dân thuận thì sống chống thì chết. Sức chịu đựng của con người bao giờ cũng có giới hạn, khi quá sức chịu đựng, một ông già ở huyện Ba Tri (Bến Tre) đội sớ đi bộ hàng ngàn cây số ra Triều đình Huế kiện bọn quan lại địa phương, kết quả: con kiến mà kiện củ khoai, như nước đổ đầu vịt, quan binh quan phủ binh phủ. Nói miệng không được phải dùng phương tiện để giữ đất – “Máu thấm Đồng Nọc Nạn” là vụ án điển hình ở Nam bộ đầy máu và nước mắt thời bấy giờ.

    2/ Thời kỳ 1955-1975 – Ở miền Nam Dân được quyền sở hữu đất

    Đây là thời Việt Nam tạm chia làm 2 miền, lấy vị tuyến 17 làm ranh. Từ vị tuyến 17 trở ra Bắc thuộc “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, từ vị tuyến 17 trờ vào Nam thuộc “Việt Nam Cộng hòa”.

    Năm 1955, qua cuộc “trưng cầu dân ý” ông Ngô Đình Diệm thay vua Bảo Đại làm Tổng thống Nam Việt Nam. Ông Diệm thay đổi thể chế chính trị từ “Vua chúa Phong kiến” thành thể chế dân chủ “Việt Nam Cộng hòa”. Khi có Chính phủ, có Hiến pháp, ông Diệm ra Chỉ dụ 57 về “Cải cách Điền địa” với mục đích: biến những địa chủ thành những nhà tư sản kinh doanh trên lãnh vực Công nghiệp và Dich vụ; biến quyền sử dụng ruộng đất của dân thành quyền sở hữu bằng cách: Trưng mua đất của địa chủ với giá thấp rồi cấp quyền sở hữu đất ở và canh tác cho dân. Liền sau đó, Ông còn chủ trương cho nông dân vay vốn nhẹ lãi mang tên “Nông tín cuộc” để dân có vốn đầu tư khai thác có hiệu quả đất vừa được cấp / Cho đào nhiều con kinh cấp thoát nước (thủy nông) để phục vụ cho nông dân canh tác ruộng vườn / Đưa người, trong đó có Võ Tòng Xuân, sang Philipine học và nhận lúa giống ngắn ngày (ba trăng – 3 tháng) năng suất cao cho nông dân làm 2 vụ trong năm, thay cho tập tục làm lúa mùa năng suất thấp, mỗi năm chỉ có 1 vụ.

    Nhờ chủ trương “Cải cách Điền địa” theo “chỉ dụ 57” như vừa nói trên, giới Địa chủ trở thành Tư sản, yên tâm sản xuất kinh doanh Công nghiệp và Dịch vụ; Khi được quyền sở hữu đất đai, được Nhà nước trợ giúp nhiều mặt, Nông dân chí thú với ruộng vườn. Từ thiếu lương thực, thực phẩm, chỉ vài năm sau, nông sản chẳng những đủ trang trải trong nội địa mà còn thừa để xuất khẩu.

    3/ Thời 1975- 2020- Quyền sở hữu đất về tay Nhà nước

    Sau Đại hội Đảng lần thư 4, đổi tên nước thành nước CHXHCNVN, đổi tên Đảng thành Đảng CSVN. Đảng CSVN chủ trương tiến hành “Cải tạo XHCN” mọi mặt. Về Kinh tế, để thể hiện rõ tính chất Cộng sản, Đảng CSVN chủ trương tập thể và quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (1). Luật đất đai ra đời với nội dung: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện nhân dân quản lý”. Thế là Nhà nước CHXHCN Việt Nam tước đi quyền sở hữu mà chỉ để cho dân quyền sử dụng đất thổ cư và đất canh tác, chẳng khác chi thời Pháp thuộc với chế độ Phong kiến Vua chúa, Địa chủ?.

    Cái gì đến đã đến, khi nắm quyền sở hữu đất trong tay, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, chính quyền các cấp thấy chỗ nào đất tốt, tiện lợi khoanh thành những vùng quy hoạch, chẳng cần tham khảo ý kiến người dân tại chỗ. Biết rằng, muốn phát triển đất nước phải xây dựng, muốn xây dựng phải có đất, nhưng xây dựng cái gì, ở đâu, với quy mô nào, giải quyết việc sinh sống của người tại chỗ ra sao… nên đưa ra bàn bạc với dân sở tại, ít nhất cũng làm cho họ mát dạ trước khi nhìn ruộng đất, sản vật, mồ mả người thân… vốn có từ lâu bị ủi phá tan hoang.

    Quy hoạch làm ngay thì áp tới đền bù, giải tỏa. Nhà nước đã là chủ đất , đền bù chỉ tính giá trị sản vật hiện có trên mặt đất. Nhà nước nói giá nào người bị giải tỏa phải chấp nhận giá đó và lập tức di đi, nếu không thì bị cưỡng chế.

    Để những hộ bị giải tỏa trắng có nơi cất nhà ở, nhà nước lại quy hoạch ở một nơi nào đó, cũng bằng cách giải tỏa đền bù để lấy đất lập ra khu tái định cư cho số bị giải tỏa trước. Từ gây bất ổn ở nơi nầy dẫn đến gây bất ổn ở nơi khác, làm cho dân chúng mất an cư?.

    Để khỏi đền bù nhiều khi giải tỏa, áng chừng những việc sẽ làm, nhà cần quyền khoanh vùng quy hoạch treo. Những hộ lọt trong khu vực treo nầy không được sang nhượng đất, không được xây dựng mới, không được trồng cây lâu năm, không được chôn người chết…., chỉ được “tản cư” càng sớm càng tốt xương cốt người thân đã chôn ở đây ra khỏi khu vực. Người sống hãy ở đó chờ, nếu có mọc râu thì cạo, nếu chết tự do tìm chỗ trước mắt chưa quy hoạch mà chôn hay đem đốt tùy ý.

    Quy hoạch xây dựng những công trình công cộng mới, nhà nước có định giá thấp đôi chút dân có thể chấp nhận, coi như mình góp chút phần nhỏ cho công ích. Còn quy hoạch để rồi cho tư nhân xây dựng gì đó, lẽ ra phải để cho tư nhân ấy thương lượng giá đền bù trực tiếp với người bị giải tỏa, đàng nầy, nhà nước cử người đứng ra làm “cò”, định giá đền bù thì thấp, cho tư nhân thuê lại thì cao, vôi ra số tiền không nhỏ tha hồ mà “nhậu”. Cần đất cho công trình 1, quy hoạch giải tỏa bằng 2 hoặc 3 chẳng hạn, số đất vôi ra thành đắt địa rồi chia nhau “xơi”.. Đủ cách, đủ kiểu, xúm nhau ăn trên đầu trên cổ ông nội cha người ta, dân không buồn, không phản ứng mới là lạ?.

    Thương thay cho dân nghèo thành thị khi bị giải tỏa trắng, họ vốn sống bằng nghề mua bán, lao động dịch vụ, nhà như ổ chuột, bồi thường sản vật trên mặt đất có là bao. Đến vùng tái định cư, không hành nghề cũ được, thất nghiệp, với số tiền ít ỏi vừa được đền bù, mua đất cất cái nhà tạm bợ đủ che nắng che mưa. Họ phải sống sao đây, chẳng lẽ đợi tối rủ nhau ngữa mặt lên trời hứng sương mà sống ?!.

    Từ những bất hợp lý, bất công như đã nói, người dân khiếu nại, tố cáo, biểu tình về nhà đất ngày một tăng là lẽ đương nhiên. Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản, Cái Răng, Long Hưng, Thủ Thiêm, Lộc Hưng , Đồng Tâm ..v.v… là những vụ người dân đấu tranh giữ đất gay gắt và quyết liệt nhứt. Nếu ở Tiên Lãng, Đồng Tâm… người dân chống cưỡng chế bằng bạo lục gây đổ máu thì ở Cái Răng người dân chống cưỡng chế bằng bất lực: gia đình có 3 người, 1 nam uống thuốc độc đang sống dở chết dở, 2 nữ tự tuột áo quần trần truồng không còn mảnh vải che thân, đứng dang tay ngăn chặn lực lượng cưỡng chế giữa thanh thiên bạch nhựt, bị lôi kéo trước bàn dân thiên hạ, thử hỏi còn cảnh đau xót nào hơn?!. Họ bị đàn áp chỉ vì “ cái tội giữ đất cha ông để lại cho nhu cầu mưu sinh”. Lột tả vụ cưỡng chế đất ở Cái Răng nầy, bà Lê Hiền Đức đặt câu hỏi không cần lời đáp “cưỡng chế hay cưỡng dâm?!”.

    Gần như trên kháp cùng đất nước, lợi dụng luật đất đai thuộc “sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý”, quan chức từ thấp đến cao dùng quyền lực thi nhau cướp đất của dân để mưu sang, còn dân oan thi kéo nhau đi kiện cáo đòi lại đất của ông cha để lại cho mưu sinh. Trước thảm trạng, nhà thơ Nguyễn Duy trình làng bài thơ với tựa đề “CƯỚP”:

    Cướp xưa băng nhóm làng nhàng
    Cướp nay có Đảng, có Đoàn hẳn hoi
    có con dấu đóng đỏ tươi
    có còng, có súng, dùi cui, nhà tù.
    Cướp xưa lén lúc tù mù
    Cướp nay giống trống, phát cờ, phóng loa
    con trời bay lả bay la
    cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
    dân oan tuôn lệ ròng ròng
    mất nhà mất đất nát lòng dân quê.
    Tiếng than vang vọng bốn bề
    Cướp từ thôn xóm cướp về thành đô
    ai qua thành phố Bác Hồ
    mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm
    bây giờ mẹ phải dặn thêm
    quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày.

    (Nguyễn Duy)

    Người dân không đất để ở và canh tác thì tránh sao khỏi đói khổ?. Nếu Nhà cầm quyền không nhận ra và giải quyết thỏa đáng, thà chết sướng hơn, người dân sẽ tử thủ dầu phải đổ máu để giữ đất, sẽ giống như “Máu thấm Đồng Nọc Nạn” khi xưa và “Máu thấm Đồng Tâm” còn nóng hổi trong những ngày giáp Tết Canh Tý nầy. Và nếu tình hình đất đai không được cải thiện thì cầm chắc Đồng Tâm không phải là vụ án đẫm máu cuối cùng.

    Chú thích:

    (1) Những sản vật khi người lao động tác động vào tạo ra của cải vật chất như ruộng đất, nhà máy, hầm mỏ… đều được xem là tư liệu sản xuất.

    (quanvan.net)

    Không có nhận xét nào