Header Ads

  • Breaking News

    Nguyễn Đức Cung – Cộng sản và các đảng phái quốc gia. Phần 2 hết.

    Trong tác phẩm Giap, the victor in Vietnam, sử gia Peter Macdonald cho biết : “Trước sự sắp sửa rút lui của lực lượng Trung Hoa, các phe quốc gia trong khi cùng một lúc phải chống lại người Pháp và Việt Minh, đã trở nên mục tiêu dễ bị đánh phá. Lúc bấy giờ, tuyệt vọng trong việc giành lại thế thượng phong, họ tiến hành gấp rút các biện pháp quân sự và bắt đầu chỉ trích Giáp trên báo chí và phá uy tín của Giáp bằng các tin đồn miệng. Giáp giận dữ ra lệnh đóng cửa các tờ báo và triển khai các đơn vị Việt Minh chống lại các lực lượng phe quốc gia ở vùng ngoại ô, với sự giúp đỡ tiếp tay của Quân đội Pháp vốn coi phe quốc gia là mối đe dọa còn hơn cả cộng sản.” 45

       Trong cuốn sách Việt Nam Quốc Dân Đảng, lịch sử đấu tranh cận đại 1927-1954, tác giả Việt Dân Hoàng Văn Đào đã trình bày những tin tức mà ông thu thập được về vụ án này:

    “Võ Nguyên Giáp tuyên bố là có một tên công an đến mật báo với Giáp rằng: “Trong khi y bị đặc vụ VNQDĐ bắt giam tại số 7 phố Ôn Như Hầu (Bonifacy), y lắng tai nghe trộm được những người công tác trong cơ quan ấy bàn nhau dự định đến ngày 14 tháng 7 (14 Juillet) này, nhân dịp Pháp mời chính phủ chúng ta đến dự lễ duyệt binh VNQDĐ sẽ đặc phái đoàn quân cảm tử  đến hành thích nhân viên Chính phủ chúng ta; và người chỉ huy trong cơ quan Ôn Như Hầu, y thường nghe thấy mọi người đều nhắc đến tên Trí.”

    Thế là Võ Nguyên Giáp quyết định nhằm vào trụ sở số 9 phố Ôn Như Hầu, không cần biết có sự thực hay là không?

    Căn nhà số 9 phố Ôn Như Hầu lúc ấy là Trụ sở của Ban Tuyên huấn Đệ Thất Khu Đảng bộ VNQDĐ từ Nam Ngãi mới thuyên ra đóng trên tầng lầu; lớp dưới là nơi đang mở một lớp chính trị huấn luyện cho các cán bộ từ các khu đưa về.

       Nguyên biệt thự số 9 phố Ôn Như Hầu này trước kia quân đội Nhật Bản chiếm ở; đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân đội Trung Hoa lại thay quân đội Nhật ở luôn ở đấy; kịp khi quân đội Trung Hoa trở về nước, họ trao lại cho VNQDĐ, mới từ tháng 5-1946. Trong khi quân đội Trung Hoa ở biệt thự ấy, có một số quân nhân thuộc loại “Tầu phù” bị chết: chết bằng đủ mọi cách: vì đương đói, nay mới được ăn no đến bội thực mà lăn ra chết, chết về bệnh phù thũng v.v. đồng bọn cho đào hố vùi ngay bên hông hay sau những gốc chuối gần ngay cạnh biệt thự. Nhà thầu khoán Nguyễn Duy Hợi là người được trao phó việc sửa sang lại ngôi biệt thự này trước khi được dùng làm trụ sở VNQDĐ có cho chúng tôi biết rằng: vài ngày trước khi rút lui, bọn Tàu phù còn mới vùi dập thêm ở ngoài vườn biệt thự một số quân nhân Tàu mới chết nữa.” 46       

    Nói về sự dàn cảnh của vụ này, Hoàng Văn Đào viết tiếp: “Tối hôm ấy (12.7.1946) sở Quân vụ Thành phối hợp với Tư lệnh bộ ra lệnh giới nghiêm toàn thành; rồi lợi dụng thời gian giới nghiêm vắng người qua lại, sai sở công an Bắc bộ xuống Nhà thương Bạch Mai và Phủ Doãn chở một số xác chết vô thừa nhận (Ông Nguyễn Văn Huyên khi ấy làm thư ký     nhà thương Bạch Mai đã cho biết rằng: đêm 12.7.1946, công an C.S. đã xuống Nhà thương Bạch Mai lấy đi 3 xác chết vô thừa nhận) đem đến vứt trong trụ sở Ôn Như Hầu của VNQDĐ đồng thời cho mai phục súng ống đầy đủ xung quanh rồi bắt đầu mở cuộc đột kích vào.

       Đầu tiên bên VNQDĐ chống trả mãnh liệt và không cho họ được tự tiện xâm nhập trụ sở. Cuối cùng binh sĩ C.S. phải dùng đến áp lực súng đạn mới ập vào được. Thế là đang đêm họ bắt tất cả những người có trách nhiệm tại đó bí mật mang đi, trong số có: Phan Kích Nam, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Chữ, Phan Quán, Phạm Văn Thắng v.v... với một số giấy tờ, trong đó có một tài liệu quan trọng là chương trình kế hoạch đảo chính Chính phủ Hồ Chí Minh.

       Sáng hôm sau, (13.7) C.S. cho khai quật các xác chết ngoài vườn lên, xác chôn lâu có, xác mới chôn cũng có (số xác mà Công an Bắc bộ mới mang tới tối hôm trước), lập thành biên bản; rồi mời báo chí, đồng bào cũng như một số người ngoại quốc đến xem để chụp hình quay phim; rồi cho trưng bày hình ảnh tại phòng Thông tin cho công chúng vào xem, tuyên truyền vu cáo trước dư luận rằng:

    - VNQDĐ đã lập riêng nơi số 9 Ôn Như Hầu một “Hắc điếm” chuyên cướp của và bắt cóc giết người, thủ tiêu những thường dân vô tội, và sự thực đã chứng minh.” 47

       Cũng trong tài liệu vừa trích dẫn, tác giả Hoàng Văn Đào cho biết thêm rằng: “Tài liệu này đã tìm thấy trong tập hồ sơ của tên Lễ, là đại đội trưởng C.S. bị cơ quan an ninh của Hội đồng An dân thành phố Hà Nội bắt được hồi năm 1947. Tên Lễ đã khai: “chính y là người được Võ Nguyên Giáp cử ra đứng điều khiển việc vào chiếm và canh gác cơ quan Ôn Như Hầu, rồi đem xác chết từ các nhà thương đến chôn xuống, dàn cảnh để khám xét, khai quật những xác chết ấy lên, vu cáo cho VNQDĐ cướp của, bắt cóc, giết người để bôi nhọ.”48

     

       Trong tuyển tập Quan điểm về một số vấn đề Chính trị và Văn hóa Việt Nam, Minh Vũ Hồ Văn Châm, qua bài Câu chuyện xoay quanh lá cờ, đã giới thiệu về là cờ sao trắng, nói về Quốc Dân Đảng gốc Đại Việt và Quốc Dân Đảng gốc Việt Quốc trong bối cảnh một trường Quốc Học xứ Huế vẫn còn bầu khí e dè sợ sệt vì an ninh bản thân mặc dù một số các vị thầy giáo khả kính thuộc ĐV (đít vịt) hay QDĐ (quần dài đen) không ngớt âm thầm     truyền bá chủ nghĩa quốc gia trong lòng các thanh niên học sinh, đề cập đến quá trình lịch sử của các chính đảng quốc gia, và nhất là đã lên tiếng về các âm mưu bẩn thỉu của chế độ Việt Minh, trong năm 1946 với việc ngụy tạo vụ án Ôn Như Hầu, vụ cầu Chiêm Sơn nhằm mục đích triệt hạ các lực lượng quốc gia, để độc chiếm quyền lãnh đạo trên đất nước.49

       Với bài báo Đảng cộng sản khui lại vụ Ôn Như Hầu, nhằm trả lời chế độ CS Hà Nội, tác giả Nghiêm Văn Thạch cho biết ngày 19-8-2005 báo Nhân Dân, cơ quan của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đăng bài viết của Lê Hữu Qua, thiếu tướng công an CS tự giới Bấy giờ mới vỡ lẽ ra là nhiều chị hàng rong, anh xích lô, cả thầy giáo, cả thầy thuốc... trước kia bị mất tích là do “các nhà ái quốc này” bắt cóc về để hãm hiếp, tống tiền, sau đó là thủ tiêu tại chỗ!!!”

       Tác giả Nghiêm Văn Thạch đã “kê tủ đứng” vào họng bọn ngụy quyền Cộng Sản, khi vạch trần chính sách gian trá qua bài viết của Lê Hữu Qua: “Cũng lại là một trò dựng đứng vô lý với lời lẽ thô bỉ của một kẻ hạ cấp đắc chí. Cái gì bảo đảm rằng những xác chết, những vết máu không phải do chính công an mang tới? Đây là một trò vu khống cố hữu của công an cộng sản. Năm 1984 họ đã đem vũ khí vào trong chùa lấy cớ bắt hai đại đức Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát về tội âm mưu bạo loạn để tuyên án tử hình. Bây giờ thì họ mặc nhiên nhìn nhận là không có gì và đã trả tự do cho hai vị này dưới áp lực của dư luận. Họ cũng đã ném truyền đon do chính họ in ra vào các trụ sở Tin Lành để lấy cớ đóng cửa các nhà thờ và bắt giam các mục sư. Đó là hơn 40 năm sau, khi họ đã văn minh nhiều so với ngày trước.” 50

    Chính sách gian trá và hành động sử dụng bạo lực của chế độ Cộng Sản chỉ có thể đánh lừa hạng dân ngu khu đen, ít học lúc bấy giờ, hay bọn theo đóm ăn tàn, tuy có chút tri thức nhưng vụng suy hay sợ sệt ngón đòn gian ác của Việt Minh mà câm miệng, thủ khẩu như bình.

    Trong thực tế,  giới nghiên cứu sử học ngoại quốc cũng đã thấy được sự thật và mạnh dạn nói lên sự thật đó trong các công trình nghiên cứu đứng đắn của họ.

     

    Trong tác phẩm Victory at any cost, The genius of Vietnam’s Gen. Vo Nguyen Giap, sử gia Cecil B. Currey đã viết : “Vụ án phố Ôn Như Hầu”dọi ánh sáng trên các phương pháp của Giáp. Sau khi chỉ thị cho tay chân chiếm trụ sở chính của VNQDĐ ở phố Ôn Như Hầu tại Hà Nội, Giáp ra lệnh cho bọn đó thiết trí một phòng tra khảo. Bọn chúng đã đào một số xác chết chung quanh vườn lên để Giáp loan báo là bọn này đã phát giác  ở sau vườn một nấm mồ tập thể của nhiều đối thủ bị VNQDĐ giết. Trong thực tế những xác chết vô danh kia chính là các đảng viên VNQDĐ bị người của Giáp thủ tiêu. Tuy nhiên bọn Giáp vẫn cứ tuyên truyền với những ai đến xem đó là các xác chết bị người quốc gia giết. Bọn chúng bảo : “Coi đấy,  hành vi kinh tởm của bọn quốc gia là thế đấy.” Khi sự thật bắt đầu đồn đãi ra, vụ án Ôn Như Hầu đã thực sự mở mắt cho những ai còn chưa tin rằng Việt Minh là màu đỏ.”51

       Đến đây tưởng cũng nên nhắc đến Phan Kích Nam là người chủ chốt trong vụ án Ôn Như Hầu. Phan Kích Nam hay Phan Xuân Thiện quê quán tại Điện Bàn, Quảng Nam, con một mục sư đạo Tin Lành. Đậu Tú Tài Toàn Phần xong, ông không theo ngành công chức mà đi dạy học ở các trường tư và gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoạt động cách mạng. Ông bị bắt tại trụ sở Quốc Dân Đảng thuộc phố Ôn Như Hầu, chuyển về giam tại xà-lim án tử hình ở Hỏa Lò rồi sau đưa lên lao xá Phú Thọ giam dưới hầm kín (cachot) giữa sân. Một đêm vào đầu năm  năm 1947 Phan Kích Nam bị VM dẫn ra khu đất hoang gần lao xá tỉnh Phú Thọ  hạ sát  cùng với Lê Khang và 11 người khác.

       Với việc ngụy tạo vụ án Ôn Như Hầu, VM đã thành công tạo ra đòn tâm lý rất nặng đó là khiến nhiều người trước đây theo Quốc Dân Đảng nay bỏ hàng ngũ Việt Quốc, Việt Cách mà chạy theo VM 52, nhiều người bị lừa bịp như trường hợp Huỳnh Thúc Kháng.53Tuy nhiên, theo ghi nhận của Hoàng Văn Đào, đồng bào Thủ đô lúc ấy có rất nhiều người biết rõ sự thật câu chuyện vu khống này, nhưng vì áp lực chính quyền CS có ai dám hở môi. Còn những người có tên tuổi, có uy tín của phe quốc gia ở trong Chính phủ Liên hiệp thì đã xuất ngoại cùng một lúc hoặc trước khi quân đội Trung Hoa rút lui. Những kẻ chậm chân còn ở lại trong nước thì đang tìm cách lẩn tránh để khỏi bị sát hại; lấy ai đâu mà tẩy vết nhơ để thanh minh sự vụ trước đồng bào, trước lịch sử. 54

       Sau vụ án Ôn Như Hầu, bầu không khí khủng bố bao trùm cả Hà Nội, với biết bao cảnh bắt bớ, ám sát, thủ tiêu trên từng mỗi con phố, góc tường, vỉa hè v.v... Tác giả Bùi Diễm đã ghi lại hoàn cảnh sinh hoạt đầy tử khí lúc bấy giờ như sau: “Tôi không dám ngủ ở một nơi nào hai đêm liền. Đi đâu thì cũng phải nhìn trước nhìn sau, canh chừng đủ mọi thứ, đủ mọi người và khẩu súng lục giắt ở sau lưng có lẽ là thứ vật dụng được nghĩ tới ngày đêm. Ông Trương Tử Anh cũng sống như vậy, Vì Việt Minh thừa biết ông là đảng trưởng Đại Việt, nên ông bị truy lùng gắt gao, bởi vậy mà đêm nào ông cũng phải rút về nơi an toàn. Họp thì cũng chỉ với một hai người là cùng, và ngoài liên lạc viên không ai được biết trước nơi họp. Suốt vụ hè này, tôi được gặp ông luôn và một đôi khi ở cùng với ông vài ngày trong một căn nhà khu Nhà Diêm, phía Nam thành phố Hà Nội. Làm việc luôn với ông, tôi cảm thấy càng ngày càng cảm mến, kính trọng ông và lúc này, một nửa thế kỷ sau, nhớ lại những ngày ấy tôi lại càng kính mến ông.”55

       Nói về tinh thần đoàn kết giữa các chính đảng quốc gia, có lẽ qua kinh nghiệm của Mặt Trận Quốc Dân Đảng, Đảng Trưởng Trương Tử Anh đã có lần nói với ông Bùi Diễm : “Đoàn kết khó lắm, nhưng không có đoàn kết thì khó lòng đánh lại được Cộng Sản.” 56

       Trở lại với một con người điển hình bị CS lợi dụng đành mang một nỗi hận đau đớn cho đến chết đó là cụ Huỳnh Thúc Kháng, chấp nhận ra cộng tác với Hồ Chí Minh có lẽ cũng do sự thúc đẩy của ý thức đoàn kết.

       Huỳnh Thúc Kháng tên thật là Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên (vườn chè già, mính chứ không phải minh như một số tài liệu ghi nhầm), sinh năm 1876 tại làng Bình Thạnh, tổng Tiên Giang thượng, huyện Hà Đông, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Ông đỗ đầu kỳ thi Hương tại trường thi Thừa Thiên năm 1900, đỗ đầu kỳ thi Hội tại Huế và đỗ thứ tư trong kỳ thi Đình sau Đặng Văn Thụy, Trần Quý Cáp, Hoàng Kiêm. Huỳnh không ra làm quan nhưng trở về Quảng Nam vận động cuộc duy tân với Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, bị Pháp bắt năm 1908 vì can dự vào phong trào kháng thuế và bị đày ra Côn Đảo. Ông học chữ Pháp trong tù và tương truyền để có đủ chữ dùng, ông đã học thuộc lòng cả một cuốn từ điển Pháp Việt.

       Sau khi ra tù, Huỳnh Thúc Kháng về quê sinh sống, ứng cử vào Viện Dân biểu Trung kỳ năm 1926, đắc cử  và được bầu làm Viện Trưởng, năm sau (10-8-1927) ông xuất bản tờ báo Tiếng Dân có nhiều đụng chạm với người Pháp và triều đình Huế. Đối với phong trào cộng sản, từ năm 1930, họ Huỳnh không đánh giá cao trong các bài viết trên Tiếng Dân và bài phỏng vấn trả lời nữ ký giả Andrée Viollis năm 1931: “... Quần chúng Việt Nam hoàn toàn không biết đến lý thuyết Lénine. Vài người trẻ  ở hải ngoại đã du nhập lý thuyết nầy, nhưng dân chúng chẳng hiểu được gì và họ nghĩ rằng như mọi thuyết khác, nó hứa hẹn giúp họ thoát qua khỏi cảnh cùng cực...” 57.  Tuy nhiên có lẽ ông Huỳnh không biết gì về hiểm họa Cộng Sản so với một nhà tu thì nhà tu này lại tỏ ra sắc bén trong những nhận định về Cộng Sản, ngay từ khi chưa có Đảng Cộng Sản Đông Dương (được thành lập ngày 3-2-1930), đó là linh mục Nguyễn Văn Thích, con cụ Thượng Thư Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại, giáo sư Hán văn tại Viện Đại Học Huế 1957-1975. Từ năm 1927, khi ở Quy Nhơn, linh mục Nguyễn Văn Thích đã in một tập sách nhỏ có tên Vấn đề Cộng Sản trong đó tác giả nhận định :

     

       “Con quỷ của chủ nghĩa Cộng Sản đang nắm bắt những dịch vụ đương thời, những vấn nạn chính trị, những vấn đề vốn chỉ đặt ra cho các cơ sở chính quyền, và đem những việc đó thảo luận với đám bình dân cùng trẻ con là những kẻ vẫn còn chưa biết phải khảo sát các vấn đề ấy làm sao cho thích đáng. Những người cộng sản cũng khai thác bản tính tham lam, độc ác của các tầng lớp hạ lưu và sử dụng các phương tiện bạo lực, dã man để mau chóng đạt mục tiêu của mình.”  58

       Linh mục Nguyễn Văn Thích đã viết những điều này vào năm 1927, khi chưa có Đảng Cộng Sản Đông Dương, nhưng hai thập kỷ sau đó chính chế độ Việt Minh đã sử dụng các phương tiện bạo lực, các kế sách mọi rợ, dã man để đạt cho được mục tiêu của mình là cướp lấy và nắm chặt chính quyền một cách mau chóng. Cộng Sản đã khai thác bản tính tham lam của người dân quê VN nên đã tạo ra phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930) hứa hẹn lấy của nhà giàu chia cho người nghèo, áp dụng cả trong năm đợt Cải Cách Ruộng Đất (1949-1956) lấy ruộng địa chủ chia cho bần cố nông, khai thác bản tính độc ác của các tầng lớp hạ lưu bằng cách trao cho họ một vài chút uy quyền nơi phường, xã, thôn, ấp để sử dụng trong việc giết các đối thủ chính trị, những người bất đồng chính kiến một cách không nương tay, không ngại ngùng, không thương xót mà các biến cố đảng tranh giai đoạn 1945-46 tại Hà Nội, Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, biến cố Tết Mậu Thân ở Huế (1968) là những thí dụ rất điển hình.

    Trở lại với câu chuyện cụ Huỳnh Thúc Kháng.  Cụ thường hay xưng mình là một nhà cách mạng công khai (un révolutionnaire ouvert) trong quan hệ với người Pháp.

       Năm 1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần mời ra Hà Nội giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ trong Chính phủ Liên hiệp ra mắt ngày 2-3-1946.

       Nhận xét về thành phần chính phủ liên hiệp lúc bấy giờ, Nghiêm Kế Tổ đã viết rằng: “Nhìn qua thành phần chính phủ cải tổ, về hình thức thì hoàn toàn đoàn kết nhưng bên trong khác hẳn. Cụ Nguyễn Hải Thần già yếu nhu nhược, giữ ghế Phó chủ tịch làm gì. Địa vị Ngoại trưởng của Nguyễn Tường Tam, nào có ngoại giao gì đâu, ngoại giao với Pháp thì đường lối chính đã do Việt Minh vạch sẵn rồi, chỉ còn có ngoại giao với Trung Hoa thì cái thế anh em nhà  của Nguyễn ngoại trưởng với Lư Hán, Tiêu Văn lại là một điều lợi cho Việt Minh quá. Về Nội vụ, cụ già Huỳnh Thúc Kháng chỉ còn dư gân sức ký những sắc lệnh đã được thảo sẵn. Riêng bộ Quốc phòng của Phan Anh thì chỉ làm nhiệm vụ kiến quân, dưỡng quân và huấn quân, còn việc dụng quân lại thuộc Võ Nguyên Giáp...”59 Độc giả nên chú ý đến câu cuối của Nghiêm Kế Tổ bởi vì chính Võ Nguyên Giáp đã sử dụng quân đội trong việc đánh phá các chiến khu của Quốc Dân Đảng trong nhiều tỉnh ở Bắc Kỳ và dùng võ lực để tiêu diệt các lực lượng đối kháng tại Hà Nội điển hình qua vụ phố Ôn Như Hầu và cầu Chiêm Sơn mà chúng tôi sẽ nói đến ở phần sau.

       Cụ Huỳnh Thúc Kháng không có kinh nghiệm về Việt Minh, lại không có kinh nghiệm hoạt động chính trị đảng phái nên sau khi Võ Nguyên Giáp dàn dựng ra vụ Ôn Như Hầu và mời đến chứng kiến với tư cách bộ trưởng Nội vụ, cụ đã cực lực lên án rằng: “Không ngờ bên Việt Quốc lại có những hành động quá tàn ác như thế!” rồi sau đó, ngày 14-7-1946 với cương vị quyền Chủ tịch nhà nước, cụ Huỳnh ký nghị định trừng trị VNQDĐ 60.

       Trước khi sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh đã viết cho Huỳnh Thúc Kháng tấm thiệp trong đó có sáu chữ Hán “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không biến đổi để ứng phó với vạn cái biến đổi), mục đích là trói tay không cho cụ Huỳnh tiến hành một công việc nào đó khả dĩ làm hư các công tác khác của Việt Minh trong khi họ Hồ đi xa.

       Hồ quả thật nham hiểm tột độ sắp đặt mọi công tác cho đàn em tiến hành, đúng như ông trả lời Tướng Salan tháng 5 năm 1946 “Giáp hoàn toàn tận tụy với tôi. Ông ta tồn tại được vì nhờ tôi nâng đỡ. Ông ta cũng như những người khác không làm gì được nếu không có tôi. Tôi là người cha của cách mạng.”61

       Khi được Hồ Chí Minh cho về Quảng Nam, Huỳnh Thúc Kháng đau nặng nhưng không dám về quê Tiên Phước mà đi thẳng vào Quảng Ngãi, chết ở đó vì dư luận Quốc Dân Đảng lúc bấy giờ ở Quảng Nam rất sôi sục về hành động của cụ qua biến cố Ôn Như Hầu. Có người nêu nghi vấn là trước khi mất cụ Huỳnh dặn người nhà “chôn sấp” nghĩa là đặt thi thể cụ nằm úp mặt xuống đất nhưng người nhà thấy tội nghiệp quá, không đành làm như vậy.62 Nhiều nghi án về cái chết của cụ Huỳnh còn ghi lại trong đó Minh Vũ Hồ Văn Châm cho rằng “Theo tiết lộ của cán bộ cộng sản Hoàng Mạnh Đức, Trưởng ban Huấn  luyện Quân báo Liên khu 5, thì Huỳnh Thúc Kháng, sau khi đóng trọn vai trò bù nhìn bung xung, đã được cộng sản đưa về Quảng Ngãi dưỡng bệnh rồi chích thuốc thủ tiêu để diệt khẩu vào năm 1947.” 63

       Chính sách của Cộng sản là trở mặt sau khi đã đạt tới mục tiêu. Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp để tạm yên lòng các chính đảng quốc gia, cần có Quốc hội đoàn kết nên đã đành lòng chịu nhường cho Quốc Dân Đảng 50 ghế và phe Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) 20 ghế, giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương,  nhưng sau khi lực lượng quân sự của Trung Hoa kéo về nước, và sau khi đã đạt được thỏa hiệp với người Pháp qua hiệp ước sơ bộ 6 tháng 3,  đã đến lúc Việt Minh không cần khoác bộ áo quốc gia dân tộc nữa thì họ quay ra dứt điểm các thành phần bất đồng chính kiến với họ nhất là các đảng phái quốc gia đang sách động dân chúng yêu nước tố giác tội ác bán nước của họ. Một người như cụ Huỳnh Thúc Kháng khi xét thấy không cần dùng nữa thì Việt Minh thủ tiêu, với CS đó là chuyện bình thường, bởi vì “được chim bẻ ná, được cá đá lờ”.

       Tác giả Nghiêm Văn Thạch có lẽ đã nhận định đúng về Huỳnh Thúc Kháng: “Sau cùng, lệnh đàn áp đã đến từ Huỳnh Thúc Kháng, một ông đồ nho lẩm cẩm hoàn toàn do đảng cộng sản khống chế. Tôi thành thật không hiểu vì sao người ta vẫn còn dành cho ông sự kính trọng nào đó. Thật ra ông chẳng có một kiến thức hay một lý luận nào đáng kể. Việc làm duy nhất của ông là đã đặt bút ký lệnh phát động một đợt đàn áp đẫm máu mà những người yêu nước chân chính đã là nạn nhân. Ông không biết gì và cũng không có ác ý, ông chỉ là một công cụ ngoan ngoãn và ngây ngô trong tay đảng cộng sản mà thôi.”64

       Nếu vụ án Ôn Như Hầu tại Hà Nội là đòn của Việt Minh đánh vào bộ phận tuyên huấn của Quốc Dân Đảng Việt Nam thì vụ án cầu Chiêm Sơn cuối năm 1946 nhằm chủ đích đánh vào các thành phần nòng cốt lãnh đạo của đảng phái quốc gia tại Miền Trung Trung Bộ nơi mà Cộng Sản tuy có được chính quyền nhưng hơn một nửa quần chúng đã nghiêng về phía Quốc Dân Đảng VN.

       Trước đó, từ năm 1942, Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Phú Yên đã từng lãnh đạo 20,000 nông dân chống Công ty Đường Trung Kỳ (Société Sucrière d’Annam) của liên doanh tư bản Pháp – Hòa Lan chứng tỏ ảnh hưởng của Đại Việt còn rất sâu đậm trong dân chúng nông thôn. 65 

    Tại Quảng Nam, cũng do sự xông xáo của Phan Kích Nam (tức Phan Xuân Thiện) mà hoạt động của Quốc Dân Đảng VN bành trướng mau lẹ với các cán bộ lãnh đạo kiên cường của như Trương Phước Tường, Phan Bá Lân, Hoàng Tăng (Hoàng Bình), Huỳnh Hòa, Phan Ngô, Nguyễn Đình Thiệp từ cuối năm 1945 đã xây dựng được cơ sở vững mạnh trong quần chúng. Nhiều nơi Ủy Ban Hành Chánh Xã nằm trong tay cán bộ Quốc Dân Đảng nên các mệnh lệnh của chính quyền CS không được thi hành thậm chí các cuộc quyên góp cũng bị thất bại. Chính vì vậy, Tổng bộ Việt Minh cùng với Xứ Ủy Trung Việt Trần Hữu Dực, kết hợp với Nguyễn Duy Trinh, Tố Hữu quyết định đàn áp Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam để bảo tồn địa vị của họ.

     

       Trong cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng, tác giả Hoàng Văn Đào cho biết: “Ty công an CS Quảng Nam do Huỳnh Lắm, Trịnh Quang Xuân cầm đầu nhận lệnh của thượng cấp bố trí công việc đàn áp theo một kế hoạch chung. Trước hết ngầm vận động tên Nguyễn Phúc, tục gọi là Phó Đảnh làm nghề thợ rèn, nhà ở gầm cầu Chiêm Sơn thuộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam.

       Rồi một đêm vào hạ tuần tháng 7.1946, khi chuyến xe lửa chở binh sĩ tiếp viện cho mặt trận Nam bộ chạy đến cầu Chiêm Sơn, bỗng dưng ngừng lại, vì thấy có lửa đốt ra hiệu báo nguy.  Tưởng là có người bị nạn, nhưng xuống xem, thời lại thấy có người đương tháo đinh     bù-loong ở dưới gầm cầu; đó là theo lời khai của tài xế trên chuyến xe lửa ấy.

       Rồi ngay ngày hôm sau, Phó Đảnh cùng đứa con trai của y 15 tuổi, được ty công an đòi đến. Vì đã có sự dỗ dành mua chuộc với giá cả xong xuôi, bắt ép Phó Đảnh phải khai là những đảng viên VNQDĐ do Phan Bá Lân tổ chức với y phá cầu Chiêm Sơn, để cướp khí giới của đoàn quân đi Nam bộ, đặng có số khí giới cướp chính quyền tỉnh Quảng Nam. Kế tiếp công an CS lại đọc thêm từng tên khác, buộc Phó Đảnh phải ký cung. Nắm được tờ cung khai của Phó Đảnh, công an ra lệnh lùng bắt Phan Bá Lân, Huỳnh Hòa, Phan Ngô và một số đảng viên khác đem về giam, rồi dùng cực hình tra tấn dã man tàn ác hơn cả mật thám thời Pháp thuộc, bắt buộc phải nhận những điều hoàn toàn bịa đặt... Phó Đảnh khi thấy những người mà mình bắt buộc phải khai ra để được lãnh một số tiền thưởng, không ngờ chính mắt y thấy những người ấy lại bị tra tấn quá dã man, mà y cũng không được thả ra, y quay lại hối hận, rồi xé áo dùng làm giây treo cổ tự tử trong phòng xí; còn đứa con của y, vì biết rõ âm mưu ấy, CS thấy không thể tha được nữa, buộc lòng đem đập cho hết luôn!” 66

       Sau vụ án này, CS mở một màn đại khủng bố nhằm vào các cơ sở của Quốc Dân Đảng tại các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Quế Sơn, Đại Lộc, Hòa Vang, Thăng Bình, Tiên Phước, bắt bớ rất nhiều cán bộ Việt Quốc đem lên giam ở Nghi Hạ, Trà Linh khiến đa số chết vì suy dinh dưỡng, lao động cực nhọc, thiếu quần áo, thuốc men và vì lam sơn chướng khí. Các cán bộ lãnh đạo nòng cốt của Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam đã kiên cường phủ nhận tất cả những điều cáo buộc phi lý của CS mặc dù bị bắt giam, đánh đập tàn nhẫn. Hai câu đối sau đây do một đảng viên Việt Quốc quê ở Duy Xuyên vốn bị giam ở trại Trà Linh, và đã chết sau đó mấy tháng, đã tức cảnh sinh tình phản ảnh khá đầy đủ sự đầy đọa vô nhân đạo mà các chiến sĩ chính đảng quốc gia phải chịu đựng dưới bàn tay của Cộng Sản:

     

       “Trăng hai tròn xác chết đã năm thây, mượn đất Trà Linh chôn sấp ngửa;

       Chiếu  một manh kẹp tre thêm bảy tấm, gọi hồn Tổ Quốc chứng ngay gian.”

       Tại Quảng Bình, cụ Tú Xương làm Chủ nhiệm Tỉnh bộ Quốc Dân Đảng Việt Nam được hơn một tháng thì bị Công an CS bắt cóc, rồi bỏ bao bố thả xuống sông, theo giòng sông Nhật Lệ trôi về trước mặt thành phố Đà Nẵng 67.

       Tiếp sau vụ cầu Chiêm Sơn, công an Quảng Ngãi đã điều động lực lượng truy lùng các cán bộ nòng cốt của Mặt Trận Quốc Dân Đảng và bắt được các ông Nguyễn Hoàng, Phạm Đình Nghị, Trần Cừ, Võ Đình Yên, Trần Giám, chỉ có Phan Quang Bổng là may mắn chạy thoát. Tại Bình Định, công an đã bắt giam rồi xử tử hình Nguyễn Hữu Lộc, Đoàn Đức Thoan, Võ Minh Vinh, riêng hai chú cháu Tạ Chương Phùng, Tạ Chí Diệp ra biển kịp thời vượt thoát vào Nam. Tại Phú Yên, tổ đình của Đại Việt Quốc Dân Đảng, Mặt Trận Quốc Dân Đảng cũng bị đàn áp khốc liệt, Tinh Hoa Thư Quán bị lục soát và phong tỏa, các cán bộ lãnh đạo như Trương Soạn, Huỳnh Anh, Trương Dụng Quyền, Phan Dùng, Huỳnh Tất, Trương Lịnh, Trương Ký nhất loạt bị bắt giam và rồi bị thủ tiêu.

       Sau các vụ án đẫm máu phố Ôn Như Hầu rồi vụ cầu Chiêm Sơn dẫn đến biết bao cái chết bí mật của các đảng viên, cán bộ trong Mặt Trận Quốc Dân Đảng, ông Bùi Diễm đã có những  ghi nhận về hình ảnh và dấu tích của Đảng Trưởng Đại Việt trong tập hồi ký của mình: “Vào mùa thu 1946, trong khi cả hai bên Pháp và Việt đang ráo riết sửa soạn chiến tranh thì nhiều bạn tôi trong đảng Đại Việt và những đảng phái quốc gia khác đều tìm cách lẩn trốn. Mỗi khi liên lạc lại được với nhau, thì câu hỏi đầu tiên là ai còn, ai mất, và ai là những người còn mà không thể ra mặt được? Mạng lưới công an của Việt Minh bao trùm lên cả nước.

       Giữa lúc nguy kịch như vậy, ông Trương Tử Anh vẫn cố gắng không để lộ vẻ lo lắng và ngoài mặt ông vẫn bình tĩnh. Tôi vẫn được gặp ông và tin rằng dầu sao ông cũng tìm được cách giải quyết mọi sự khó khăn. Tuy ông không nói rõ cho tôi, nhưng tôi có cảm tưởng là ông đang lo di chuyển một số cán bộ vào Nam vì ở đó Việt Minh chưa hoàn toàn thao túng được. Ngoài ra, ông cũng nghĩ đến cách tăng cường những hoạt động ở ngoại quốc. Một hôm ông hỏi tôi có muốn sang Hồng Kông để hoạt động với cụ Kim không? Không hiểu vì tôi muốn ở gần ông trong những lúc ấy, hay linh tính bảo tôi từ chối, tôi viện lẽ là ở bên ngoài đã có anh Đặng Văn Sung và Đỗ Đình Đạo, để xin ông cho ở lại trong nước. Rồi ngày có ngày không, tôi vẫn gặp ông để nhận chỉ thị và tiếp tục hoạt động.

       Vào khoảng đầu tháng 12, 1946, tình hình chung càng ngày càng khẩn trương như chỉ chờ dịp bùng nổ. Một hôm đúng như lời hẹn, tôi tới nơi đã được chọn để gặp ông Trương Tử Anh trên đường Cổ Ngư gần hồ Trúc Bạch, nhưng chờ mãi mà không thấy bóng dáng ông đâu cả. Đã mấy lần trước, ông không đến được chỗ hẹn, nhưng bao giờ cũng nhắn cho tôi biết tin ngay. Lần này thì khác hẳn. Tôi đợi suốt hai tiếng đồng hồ, càng đợi càng sốt ruột, nhưng rồi cũng phải bỏ đi vì sợ chính mình cũng rơi vào bẫy của Cộng Sản. Ngày hôm sau, anh Nguyễn Tất Ứng cho biết là anh cũng có hẹn với ông mà không được gặp. Ông Trương Tử Anh, hay là Anh Cả Phương đối với một số người trong chúng tôi, từ đó tuyệt tích.”68

       Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh đều là những nhân vật lịch sử nhưng mỗi người một phong cách, biểu lộ một thiên hướng khác nhau. Trương Tử Anh có năng khiếu là một lãnh tụ chính trị, tư tưởng gia, nghe nhiều hơn nói, nhưng tiếc thay không có thời, hay nói rõ hơn thời không đợi ông ta. Với việc Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài ngày 17 tháng 6 năm 1930, và Trương Tử Anh thất tung sau ngày 19-12-1946, Huỳnh Phú Sổ và Lý Đông A bị Việt Minh sát hại cũng trong năm 1946,

                                                                  ***

    Hơn sáu mươi năm về trước, chính sách của chế độ CS đối với các thành phần bất đồng chính kiến, các chính đảng quốc gia, đó là sử dụng đường lối thiếu trung thực, bất bao dung, bạo lực nhằm khống chế và tiêu diệt các đối thủ chính trị. Thời điểm đó thiếu thốn các phương tiện truyền thông nên dư luận dân chúng dễ bị tuyên truyền, đầu độc và nhất là dân chúng chưa có kinh nghiệm về CS, chưa hiểu được thực chất của Cộng Sản, cho nên nhiều người bị lừa bịp, nhắm mắt nghe theo Cộng Sản. Ngày nay, dân trí đã cao, dân tình đã đổi khác sáng suốt bình tĩnh hơn, các phương tiện truyền thông đạt tới trình độ siêu đẳng về số lượng sử dụng và vận tốc nhanh chóng vô lường cho nên bất cứ một âm mưu nào của chính quyền Cộng Sản áp dụng hòng chụp mũ, bôi nhọ, xuyên tạc – như đã cắt bớt lời nói của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt trước Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội ngày 20.9.2008 rồi mặc sức vu khống cho Ngài, làm tình làm tội đủ điều  – thì hành vi đó liền bị dư luận công chính trong nước và trên thế giới phanh phui ngay lập tức. Ghi lại các biến cố dưới hình thức viết hồi ký, hồi ức cũng với luận điệu xuyên tạc sự thật như sách của Võ Nguyên Giáp, của Lê Hữu Qua hay thậm chí như của Dư Văn Chất, về vụ án phố Ôn Như Hầu hay vụ cầu Chiêm Sơn chẳng hạn, ngày nay không lừa được ai, lại có tác dụng “gậy ông đập lưng ông” đối với chế độ Cộng Sản mà người dân ngày nay đã có cơ hội chứng thực. Bài viết này ghi lại lịch sử tháng bảy đen năm 1946 đầy đau thương, uất hận qua hai biến cố nói trên, nghĩ rằng vẫn còn một số mặt hạn chế, xin được xem là một nén tâm hương tưởng niệm hàng chục ngàn69 những anh hùng hữu danh hoặc vô danh thuộc các đảng phái quốc gia, tôn giáo cùng những người bất đồng chính kiến với đường lối Việt Minh, đã hy sinh từ giai đoạn 1945-46 vì lý tưởng Tự do, Dân chủ cho Đất nước và Dân tộc.

    Nguyễn Đức Cung                                                                               

    ___________________________________

    CHÚ THÍCH

       1.- Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, hồi ký chính trị, Nhà xuất bản Vĩnh Sơn, 1969, bản in lại ở Hoa Kỳ, trang 118.

       2.- Đào Văn Hội, Ba nhà chí sĩ họ Phan, Nxb. Văn Sử, không đề năm in, tr. 130.

       3.- Phan Bội Châu, Tự Phán, Nxb. Nhân Xã Học Xã, California, tr. 220.

       4.- Tưởng Vĩnh Kính, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, bản dịch Thượng Huyền, Nxb. Văn Nghệ 1999, tr. 84.

       5.- Minh Võ, Hồ Chí Minh, nhận định tổng hợp, Nxb. Tiếng Quê Hương, tái bản lần I, Virginia, 2006, tr. 539.

       6.- Minh Võ, Sách đã dẫn, tr. 539.

       7.- Minh Võ, Sđd, tr. 539.

       8.- Minh Võ, Sđd, tr. 543.

       9.- David Halberstam, Ho, Random House, New York, 1971, tr. 45.

       10.- Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Du révolutionnaire à l’icône, Biographie Payot, Paris, 2003, tr. 65.

       11.- Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995, Chiến tranh, Tị nạn, Bài học lịch sử, Tập I, Nxb. Tiên Rồng, 2004, tr. 34.

       12.- Việt Dân Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Lịch sử đấu tranh cận đại, 1927-1954, Tái bản kỳ II, 1970, tr. 108.

       13.- William J. Duiker, Ho Chi Minh, New York, Hyperion, 2000, tr. 141.

       14.- Tưởng Vĩn Kính, Sđd, tr. 140.

       15.- Tưởng Vĩnh Kính, Sđd, tr. 144.

       16.- Minh Võ, Sđd, tr. 64.

       17.- Tưởng Vĩnh Kính, Sđd, tr. 109.

       18.-  Bản tin báo điện tử tiếng Việt của BBC, Ra mắt tiểu thuyết của Dương Thu Hương, Christine Nguyễn gửi đến BBC từ Paris, ngày 10-12-2008; DCVOnline.net, Đặng Trần Phương và Au Zénith của Dương Thu Hương, ngày 13-12-2008.

       19.- Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử, Cơ sở Phạm Quang Khai xb., 2000, tr. 40.

       20.- Trích từ Tuyên Cáo Đại Việt Quốc Dân Đảng.

       21.- Tổng Bộ Tuyên Nghiên Huấn, Đại Việt Quốc Dân Đảng Lược Sử.

       22.- Lê Thiệp, Cố nghị sĩ Đặng Văn Sung: Một tấm lòng son với nước non, Bán nguyệt san Việt Báo Miền Đông, số 54, ra ngày 01-06-1998, do Lê Phú Nhuận chủ biên, ấn hành tại Philadelphia, PA.

       23.- Lê Thiệp, bài đã dẫn.

       24.- Nguyễn Tường Bách, Việt Nam, một thế kỷ qua, dẫn lại theo Nguyễn Văn Quảng Ngãi, Theo giòng kỷ niệm, 2001.

       25.- Bùi Diễm, Sđd, tr. 43.

       26.- Bùi Diễm, Sđd, tr. 58.

       27.- Nguyễn Tường Bách, Việt Nam, những ngày lịch sử, Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xb., Canada, 1981, tr. 82.

       28.- Thụy Khuê biên soạn, Tiểu sử Nhất-Linh, trong Tuyển tập nhiều tác giả nhan đề Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Thế Kỷ phát hành, 2004, tr. 10-17.

       29.- Trích Tập san Sử Địa số 23 và 24, Sài Gòn 1971, tái bản tại Pháp do AVAC, năm 1987, trang 44. Dẫn lại theo Võ Phiến, Đọc bản thảo Nhất Linh, Tuyển tập đã dẫn, tr. 55.

       30.- Nguyễn Tường Bách, Việt Nam, những ngày lịch sử, Sđd, tr. 139.

       31.- Võ Phiến, bài đã dẫn, tr. 55.

       32.- Nguyễn Tường Bách, Sđd, tr. 76.

       33.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 308.

       34.- Phùng Thế Tài, Bác Hồ, những kỷ niệm không quên, Nxb. Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 2002, tr. 79, dẫn lại theo Minh Võ, tr. 197.

       35.- Nghiêm Văn Thạch, Đảng cộng sản khui lại vụ Ôn Như Hầu, Thông Luận Điện Tử ngày 09-09-2005; báo điện tử VNQDĐ cũng đăng bài đó, không ghi ngày lên mạng.

       36.- Bùi Diễm, Sđd, tr. 79.

       37.- Minh Vũ Hồ Văn Châm, Tản mạn về Miền Trung Trung Bộ, Tạp chí Cách Mạng, Diễn đàn dân chủ của Đại Việt Cách Mạng Đảng, số 24, Tháng 10 năm 2001.

       38.- Minh Võ, Sđd, tr. 153.

       39.- David Halberstam, Ho, Nxb. Random House, New York, 1971, tr. 91.

       40.- Minh Võ, Sđd, tr. 284.

       41.- Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, Nxb. Quân Đội Nhân Dân Hà Nội, 1975, tr. 255-258; dẫn thêm Lữ Giang, Những bí ẩn đàng sau cuộc chiến Việt Nam, Quyển I, 1998, tr. 337-342; Minh Võ, Sđd, tr. 569-370.

       42.- Dư Văn Chất, Người Chân Chính, Nxb. Hà Nội, 1993, tr. 210.

       43.- Ellen Hammer, The Struggle For Indochina, Standford University Press, 1954, tr. 176; MV, Sđd, tr. 324.

       44.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 320.

       45.- Peter Mcdonald, Giap the victor in Vietnam, Nxb. W.W. Norton & Company, New York, London, 1993, tr. 73.

       46.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 321.

       47.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 322.

       48.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 323.

       49.- Minh Vũ Hồ Văn Châm, Quan điểm về một số vấn đề Chính trị và Văn hóa Việt Nam, xuất bản dưới hình thức CD; Tạp chí Cách Mạng, Diễn đàn dân chủ của Đại Việt Cách Mạng Đảng, số 6, 1996, bài Câu chuyện xoay quanh lá cờ;http://geocities.com/chamho.

       50.- Nghiêm Văn Thạch, Đảng cộng sản khui lại vụ Ôn Như Hầu, Website Thông Luận ngày 09.09.2005; Website Việt Nam Quốc Dân Đảng, 2007.

       51.- Cecil B. Currey, Victory at any cost, The genius of Vietnam’s Gen. Vo Nguyen Giap, Nxb.Brassey’s Inc., Washington, London, 1997, tr. 126.

       52.- Lữ Giang, Sđd, tr. 342.

       53.- Lữ Giang, Sđd, tr. 341; Trần Gia Phụng, Quảng Nam trong lịch sử, bài Huỳnh Thúc Kháng và nỗi đau thầm cuối đời,  Nxb. Non Nước, Toronto, 2000, tr. 304.

       54.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 324.

       55.- Bùi Diễm, Sđd, tr. 86.

       56.- Bùi Diễm, Sđd, tr. 142.

       57.- Andrée Viollis, Indochine S.O.S., Ellen J. Hammer trích dẫn trong cuốn The Struggle For Indochina 1940-1955, Vietnam and the French Experience, Standford University Press, California, 1966, tr. 88; dẫn theo Trần Gia Phụng, Sđd, tr. 292.

       58.- David D. Marr, Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945, University of California Press, 1981, tr. 85.

       59.- Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, Nxb. Xuân Thu, California tái bản, 1989, tr. 66.

       60.- Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, 1939-1975, Tập A: 1939-1946, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1996, tr. 343.

       61.- John Colvin, Giap, volcano under snow, Nxb. Soho, 1996, tr. 50.

       62.- Trần Gia Phụng, Sđd, tr. 308.

       63.- Minh Vũ Hồ Văn Châm, Bài đã dẫn.

       64.- Nghiêm Văn Thạch, Bài đã dẫn.

       65.- Minh Vũ Hồ Văn Châm, Bài đã dẫn.

       66.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 363.

       67.- Hoàng Văn Đào, Sđd, tr. 361.

       68.- Bùi Diễm, Sđd, tr. 87.

       69.- Chúng tôi rất đồng ý với nhà nghiên cứu sử học Minh Võ trong tác phẩm Hồ Chí Minh, nhận định tổng hợp, tr. 374, khi ông hạ bút: “Người ta thường chỉ nhắc đến những tên tuổi nổi bật, như lãnh tụ Duy Dân Lý Đông A, lãnh tụ Đại Việt Trương Tử Anh, các nhà văn Lan Khai, Khái Hưng, những đồng chí và văn hữu của lãnh tụ Nguyễn Tường Tam tức nhà văn Nhất Linh vv... Thực ra có hàng chục ngàn người yêu nước thuộc phía đối lập đã bị thủ tiêu bằng nhiều cách mà phổ biến là “mò tôm”, tức bỏ vào bao bố với một tảng đá rồi thả xuống sông. Một ông lái đò trên sông Đáy gần chùa Hương đã cho người viết biết năm 1946, ông ta từng thấy nhiều vụ thả trôi sông như vậy...”

    http://vnqvn.blogspot.com/2020/08/cong-san-va-cac-ang-phai-quoc-gia.html#more

     

    Không có nhận xét nào