Header Ads

  • Breaking News

    Mạnh Kim - Thăm dò dư luận và hiệu ứng “gánh xiếc rong”


    US Election 2020:

    Không có cuộc bầu cử tổng thống Mỹ nào kể từ sau Thế chiến thứ hai lại căng thẳng như cuộc chiến giữa ứng cử viên Joe Biden và Donald Trump lần này. Sự “một mất, một còn” không chỉ diễn ra giữa hai ứng cử viên mà còn với cả cử tri, trong bối cảnh nước Mỹ được đánh giá là ở giai đoạn chia rẽ chưa từng có.

    Loạn cào cào với thăm dò

    Tính đến thời điểm này, sự ủng hộ dành cho đương kim Tổng thống Donald Trump vẫn ổn định, dù các kết quả thăm dò đều cho thấy ông Biden đang nhỉnh hơn. Cuộc thăm dò của Real Clear Politics tháng 10-2019 cho thấy tỷ lệ ủng hộ toàn quốc dành cho Biden là 50,1% trong khi với Trump là 43,4%. Kết quả thăm dò thượng tuần tháng 9-2020 cũng của Real Clear Politics cho thấy Biden được 50,5% trong khi Trump 43% - gần như không thay đổi.

    Thăm dò của FiveThirtyEight ngày 5-3-2020 cho thấy tỷ lệ ủng hộ Biden là 49,7% trong khi Trump 45,6%; kết quả thăm dò cũng của FiveThirtyEight ngày 11-9-2020 là 49,9% cho Biden và 41,1% cho Trump. Biden có tăng một chút; Trump có giảm một chút. Chỉ “một chút”. Đối với Dân chủ, bóng ma 2016 vẫn còn in đậm và chưa có dấu hiệu thật sự rõ ràng nó sẽ không quay lại năm nay. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Trump không có khả năng thua và cũng chưa chắc Biden thắng.

    Thử nhìn lại, vào thời điểm sát ngày bầu cử vào năm 2008, cuộc tranh cử giữa ứng cử viên Barack Obama và John McCain. Các kết quả thăm dò ngày 13-10-2008 cho thấy có một sự lội ngược dòng ngoạn mục của McCain. Kết quả Washington Post-ABC News cho biết Obama dẫn trước McCain với tỉ lệ 53/43%. Theo Reuters/C-SPAN/Zogby, tỉ lệ trên là 48/44%. Còn theo Rasmussen Reports, Obama nhỉnh hơn McCain với 51/45%. Trong khi đó, kết quả Gallup cho thấy tỉ lệ ủng hộ dành cho Obama là 50% trong khi cho McCain là 46%. Tổng quát, so với các kết quả thăm dò vài tháng trước, Obama bị mất dần điểm trong khi đối thủ McCain bắt đầu lội ngược dòng, khiến nhiều người có cảm giác khả năng John McCain vào được Nhà trắng là rất cao…

    Trong thực tế, cái gọi là “bóng ma 2016” với kết cục bất ngờ của ứng cử viên Hillary Clinton trước Donald Trump thật ra chẳng phải lần đầu. Trong chiến dịch bầu cử tổng thống 2004, trong khi Democracy Corps Poll cho biết ứng cử viên (tổng thống đương nhiệm tái tranh cử) George W. Bush chiếm 47% và ứng cử viên John Kerry 50%; tỉ lệ của Fox là 49/42; tỉ lệ ABC là 51/46; tỉ lệ Washington Post là 51/46; tỉ lệ NBC/Wall Street Journal là 48/48; tỉ lệ CNN/Gallup là 52/44; tỉ lệ Newsweek là 50/44; tỉ lệ Time là 48/47… Cuối cùng, dù tỷ lệ ủng hộ được điểm cao hơn Bush ở vài cuộc thăm dò, Kerry vẫn thất bại.

    Trước đó, năm 2000, ứng cử viên George W. Bush thắng lá phiếu đại cử tri nhưng ứng cử viên Al Gore thắng lá phiếu phổ thông với tỉ lệ 48,4% so với 47,9%. Không cuộc thăm dò nào trước ngày bầu cử cho thấy tương tự hoặc chí ít cũng gần đúng. Năm 1948, gần như tất cả kết quả thăm dò, từ Gallup đến Roper, đều trật lất khi dự báo Thomas Dewey sẽ hạ gục ứng cử viên Harry Truman bằng “chiến thắng ngoạn mục” (và điều ngược lại đã xảy ra!).

    Cần biết, hầu hết cuộc thăm dò ngày nay dựa vào hai con số: số cử tri (đã) đăng ký và số ý kiến cho biết họ có khả năng đi bầu. Số cử tri đăng ký thường ổn định nhưng chính con số cử tri lờ mờ chưa biết đi bầu hay không hoặc bỏ phiếu cho ai mới chính là con số đem lại kết quả chung cuộc. Ở ngay cả lá phiếu đại cử tri, kết quả thăm dò cũng không thống nhất (ứng cử viên cần 270 lá phiếu đại cử tri mới chiến thắng). Trong chiến dịch bầu cử tổng thống 2004, vào thời điểm gần sát ngày bỏ phiếu (19-10-2004), tổ chức thăm dò Electoral Vote Predictor 2004 cho biết Kerry nhỉnh hơn Bush với tỉ lệ 284-247 (lá phiếu đại cử tri); tỉ lệ dò của USA Today là 216 cho Bush và 213 cho Kerry; Washington Post là 208 cho Bush và 179 cho Kerry; và CBS là 222 cho Bush và 217 cho Kerry. Tính trung bình cả bốn cuộc thăm dò, tỉ lệ tương ứng là 223,25 cho Bush và 223,25 cho Kerry (ngang nhau)!

    Trong lịch sử, có không ít cuộc thăm dò ý kiến cử tri bị “hố”. Một trong những ví dụ điển hình là cuộc trưng cầu ý kiến cử tri được tờ The Harrisburg Pennsylvanian thực hiện năm 1824, cho thấy ứng cử viên Andrew Jackson dẫn trước John Quincy Adams với tỉ lệ chênh lệch 335/169 phiếu bầu. Kết quả, John Quincy Adams mới là người trở thành tổng thống thứ sáu của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ!

    Năm 1916, tuần báo Literary Digest (một trong những tờ báo uy tín nhất lịch sử báo chí Mỹ thế kỷ 20) tổ chức cuộc thăm dò qui mô toàn quốc bằng cách gửi hàng triệu phiếu thăm dò đến cử tri rồi tổng hợp kết quả. Lần đó, Literary Digest dự báo chính xác với Woodrow Wilson thắng cử; và họ tiếp tục dự báo đúng với bốn tổng thống kế tiếp. Tuy nhiên, năm 1932, Literary Digest bắt đầu nếm mùi “hố” khi công bố (một tuần trước ngày bầu cử) kết quả thăm dò, với ứng cử viên Alf Landon vượt xa Franklin D. Roosevelt. Kết quả, như đã biết, Franklin D. Roosevelt không chỉ đắc cử tổng thống mà còn trở thành người duy nhất lịch sử Mỹ ngồi ghế tổng thống hơn hai nhiệm kỳ (từ 1933-1945).

    Hiệu ứng "gánh xiếc rong"

    Liệu có khả năng một số cuộc thăm dò thiên vị và dùng kết quả thăm dò để lôi kéo thành phần còn phân vân chưa biết bỏ phiếu cho ai? Trong mùa bầu cử 2004, đảng Dân chủ từng cáo buộc Gallup có thiên hướng ngả theo Cộng hòa và rằng Gallup thù vặt chuyện tổ chức chính trị MoveOn (ủng hộ Dân chủ) tấn công mình. Trong khi đó, Gallup cho biết tất cả đối tượng thăm dò đều được chọn ngẫu nhiên và họ luôn gọi đến số điện thoại bất kỳ, không biết chút gì về quan điểm chính trị của cá nhân đối tượng.

    Tuy nhiên vấn đề ở chỗ Gallup không chỉ gọi điện và đơn giản hỏi đối tượng bầu cho ai rồi thôi mà họ còn phỏng vấn, khiến tâm lý đối tượng có thể bị lung lay. Gallup thường hỏi đại loại: “Bạn nghĩ như thế nào về cuộc bầu cử tổng thống sắp tới, nhiều, vừa hay ít”; “Bạn có biết những người sống trong khu phố bỏ phiếu cho ai không?”; “Trong cuộc bầu cử tổng thống trước, bạn bỏ phiếu cho ai?”… “Không có câu hỏi nào được đặt ra mà không ảnh hưởng tương lai lá phiếu” – theo Michael Dimock, giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Pew Research.

    Cần nhấn mạnh, việc cung cấp thông tin về ý kiến cử tri từ các cuộc thăm dò có thể ảnh hưởng tâm lý và quyết định việc bỏ phiếu của cử tri vào phút chót. Thuật từ chính trị Mỹ gọi đó là “hiệu ứng xe chở ban nhạc/gánh xiếc rong (bandwagon effect), khi cử tri dồn phiếu cho ứng cử viên có tỉ lệ thăm dò nhỉnh hơn, tương tự hiện tượng dân chúng bu đen bu đỏ mỗi khi có xe ban nhạc hoặc gánh xiếc đến địa phương mình.

    Cụm từ “nhảy lên xe ban nhạc” lần đầu tiên được sử dụng trong văn hóa chính trị Mỹ vào năm 1848 khi Dan Rice – một anh hề xiếc chuyên nghiệp – dùng xe hát rong của mình để giúp ứng cử viên Zachary Taylor trong chiến dịch tranh cử như một trong những thủ thuật thu hút chú ý cử tri (nhờ sự náo nhộn và không khí vui vẻ). “Gánh xiếc Zachary Taylor” thành công vang dội (ông trở thành tổng thống thứ 12) đã trở thành mẫu mực của một hình thức phổ biến trong các chiến dịch vận động lôi kéo cử tri ở các kỳ bầu cử sau đó.

    Đến chiến dịch tranh cử của William Jennings Bryan năm 1900, các xe vận động tranh cử (như mô hình xe ban nhạc) đã trở thành hình ảnh quen thuộc với cử tri Mỹ và “hiệu ứng gánh xiếc rong” cũng bắt đầu được nghiên cứu như một lý thuyết tranh cử tổng thống. Năm 1992, hai giáo sư Vicki G. Morwitz và Carol Pluzinski từng thực hiện một khảo sát cho thấy ảnh hưởng của “hiệu ứng gánh xiếc rong” không phải không đáng kể. Trong nhóm sinh viên tham gia cuộc khảo sát, một số người được cung cấp kết quả loạt thăm dò cho thấy Bill Clinton nhỉnh hơn George H. Bush (Bush bố). Cuối cùng, những người này – từng cho biết họ sẽ bầu cho Bush – lại bỏ phiếu cho Clinton sau khi liên tục xem các kết quả thăm dò trên. Nói cách khác, hiệu ứng “gánh xiếc rong” chẳng khác mấy hiệu ứng bầy đàn…

    Dù kết quả thăm dò từng nhiều lần cho thấy nó dường như vô nghĩa nhưng nó không phải hoàn toàn vô giá trị. Không ứng cử viên nào thờ ơ với thăm dò. Kết quả thăm dò thực hiện liên tục giúp họ điều chỉnh chiến lược tranh cử. Họ biết họ yếu chỗ nào và cần làm gì, đặc biệt ở những bang chiến địa vốn nổi tiếng lung lay bất định (swing states), không luôn “đỏ” (Cộng hòa) hoặc luôn “xanh” (Dân chủ). Thăm dò là một phần của văn hóa Mỹ. Muốn đốn một cái cây trong khu phố mà còn thăm dò và lấy ý kiến thì huống hồ bầu cử một tổng thống. Một quốc gia mà người dân được quyền biểu đạt tự do và được “thỉnh cầu ý kiến” thì dù thăm dò có “loạn” cỡ nào thì nó cũng cho thấy quyền công dân rõ ràng đang được tôn trọng.

    https://thenewviet.com/

    Không có nhận xét nào