Header Ads

  • Breaking News

    Bắc Kinh “trói” Hà Nội – Đảng bất lực nhìn Trung Quốc ở Biển Đông


    Ảnh: Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam năm 2014

    RFI mới đây đã có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp về tác động của phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực PCA đối với Việt Nam cũng như những phương pháp giải quyết tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông hiện nay.

    Trước hết, học giả người Pháp đã điểm lại bốn nội dung chính trong phán quyết này.

    Nội dung thứ nhất liên quan đến những quyền lịch sử và « đường 9 đoạn » mà Trung Quốc tự vẽ, Tòa Trọng tài thường trực đã bác những yêu sách có lợi cho Trung Quốc về những « quyền lịch sử » dù là ở vùng biển trong phạm vi « đường 9 đoạn », những yêu sách về những nguồn tài nguyên sinh vật hoặc phi sinh vật trong khu vực đó, nói một cách khác là trong gần như hầu hết Biển Đông.

    Tòa PCA cho rằng những yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào, dù Tòa không phủ nhận rằng Trung Quốc có thể đã hoạt động trong toàn bộ khu vực này từ thời xa xưa và có thể đã khai thác những nguồn tài nguyên, cũng như sử dụng nhiều hòn đảo ở đó. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thường trực đánh giá không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc đã độc quyền tiến hành và không bị gián đoạn.

    Nội dung thứ hai liên quan đến quy chế của các đảo và đá, Tòa phán quyết rằng trong khu vực biển theo đơn kiện của Philippines có những thực thể không thể được coi là « đảo » theo luật pháp quốc tế mà chỉ được coi đơn thuần là « đá ».

    Những đánh giá pháp lý này có những hệ quả quan trọng, bởi vì « đảo » có thể có những khu vực biển như là lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa, trong khi « đá » không cho phép hình thành những khu vực như trên.

    Về điểm này, Tòa Trọng tài thường trực đã khẳng định rằng những « đá » ở Biển Đông phải được nhìn nhận đúng với thực trạng tự nhiên ban đầu của chúng. Vì thế, dù nếu có chỉnh trang, bồi đắp hay đưa dân cư đến sinh sống mà trước đó không hề có, để biến một « đá » thành « đảo », thì luật pháp quốc tế không công nhận đó là một hòn đảo, và như vậy sẽ không có những vùng lãnh hải như vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Tóm lại, theo quan điểm của luật pháp quốc tế, tất cả những công trình bồi đắp các thực thể mà chính quyền Bắc Kinh tiến hành đều vô hiệu.

    Nội dung thứ ba liên quan đến tình trạng môi trường và môi trường biển.

    Phán quyết của Tòa đã nêu rằng những hoạt động của Trung Quốc về mặt đánh bắt hải sản và bồi đắp các đảo đã tác động nghiêm trọng đến môi trường. Ngoài ra, Trung Quốc đã không thực hiện nghĩa vụ bảo vệ và bảo tồn ở Biển Đông.

    Nội dung cuối cùng liên quan đến cam kết quốc tế của Trung Quốc, Tòa Trọng tài thường trực cho rằng Trung Quốc đã vi phạm những nghĩa vụ quốc tế của mình vì trong tiến trình xét xử, Bắc Kinh vẫn tiếp tục các hoạt động bị phản đối, lên án.

    Tiếp đó, nhà nghiên cứu người Pháp phân tích tác động của phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giữa Việt Nam và Philippines.

    Ông nhận xét: Hiện tại, Việt Nam đang kiểm soát 26 đảo và đá thuộc quần đảo Trường Sa. Nhưng khi nhìn kỹ bản đồ, người ta thấy là 4/5 số đảo và đá này nằm trong phần mà Philippines đòi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Đây chính là điểm trọng tâm tranh chấp tương lai giữa Việt Nam và Philippines trong trường hợp hai nước đối đầu về vấn đề quần đảo Trường Sa.

    Nếu căn cứ vào phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực La Haye ngày 12/07/2016, cũng như việc áp dụng phán quyết này đối với trường hợp Việt Nam, có thể thấy Việt Nam nhất trí với Philippines chỉ ở một điểm và đối lập ở ba điểm.

    Trước hết, Hà Nội và Manila nhất trí ở yêu sách « đường 9 đoạn » của Bắc Kinh, có nghĩa là hai nước cùng bác bỏ lập trường đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc.

    Điểm đối lập thứ nhất là đối với những quyền lịch sử, người ta nhận thấy là lập trường của Việt Nam tương tự với lập trường của Trung Quốc, bởi vì cả Hà Nội cũng như Bắc Kinh đều lập luận theo « nguyên tắc lịch sử lâu đời », dựa vào các hoạt động thường xuyên trong quá khứ ở những hòn đảo này và việc này được các thủy thủ, ngư dân Việt Nam hay Trung Quốc ghi chép lại.

    Nhưng chúng ta đã thấy là lập luận này, nếu không có bằng chứng về « sự hiện diện thường trực » và « độc quyền quản lý » các nguồn tài nguyên kinh tế, thì sẽ không được chấp nhận về mặt pháp lý. Về điểm này, Việt Nam có lẽ phải thay đổi cách lập luận nếu muốn nhận được sự hỗ trợ pháp lý của Tòa.

    Điểm đối lập thứ hai liên quan đến quy chế các đảo – đá, Việt Nam, dù không làm mạnh như Trung Quốc, nhưng cũng tiến hành bồi đắp, như trường hợp đảo Sơn Ca (Sand Cay) ở Trường Sa.

    Và như đã nói ở trên, cách làm này là vô hiệu và không được công nhận. Điều này này còn dẫn đến điểm đối lập thứ bà – đó là những hoạt động bồi đắp này còn gây thiệt hại cho môi trường mà Việt Nam có thể bị Tòa Trọng tài thường trực lên án.

    Tóm lại, về phương diện pháp lý, chúng ta thấy là phán quyết của Tòa PCA có tác động thực sự đến tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Philippines. Nếu muốn đạt được tiến triển về mặt pháp lý, Hà Nội cần phải xem lại các lập luận của mình.

    Tuy nhiên cần khẳng định rằng phán quyết trọng tài đã đưa ra chỉ liên quan đến trường hợp Trung Quốc, chứ không liên quan đến Việt Nam. Để Việt Nam cũng bị liên quan đến vấn đề này, phía Philippines phải viện đến Tòa PCA một lần nữa về trường hợp của Việt Nam và Tòa phải ra phán quyết. Khi đó, phía Việt Nam có thể phản ứng theo hai chiều hướng: thứ nhất là công nhận thẩm quyền của Tòa Trọng tài thường trực và chấp nhận tiến trình trọng tài của Tòa hoặc khả năng thứ hai là như trường hợp Trung Quốc, từ chối thẩm quyền của Tòa Trọng tài thường trực. Cần nhắc lại rằng Bắc Kinh đã từ chối thẩm quyền của Tòa Trọng Tài La Haye. Lời từ chối này đẩy Bắc Kinh vào thế khó vì Trung Quốc đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982). Việc từ chối tuân thủ luật pháp quốc tế mang lại hình ảnh tiêu cực, cũng như ảnh hưởng đến uy tín của nước này.

    Về phía Việt Nam, học giả người Pháp nhận định Việt Nam hoàn toàn có thể kiện những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông ra trước Tòa Trọng tài quốc tế.

    Trước hết, cần phải đề cập đến sự kiện dù không trực tiếp cùng Philippines tham gia kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng tài thường trực vào năm 2013, nhưng chỉ vài tháng sau, ngày 05/12/2014, Việt Nam đã đệ trình lên Tòa một bản tuyên bố quyền lợi. Trong văn bản rất quan trọng này, Việt Nam yêu cầu Tòa PCA cân nhắc đến lập trường của Việt Nam ở bốn điểm.

    Thứ nhất là Hà Nội chấp nhận thẩm quyền của Tòa Trọng tài thường trực trong thủ tục được tiến hành. Thứ hai, Việt Nam yêu cầu các lợi ích và quyền lợi của mình được bảo tồn trong quá trình xét xử vụ kiện. Thứ ba, Việt Nam ghi nhận rằng Philippines không yêu cầu Tòa PCA xem xét những vấn đề không thuộc thẩm quyền phán xét của Tòa, trong đó có vấn đề chủ quyền. Thứ tư, Hà Nội tái khẳng định bác bỏ mọi yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong « đường 9 đoạn ».

    Bản tuyên bố quyền lợi này cũng nêu rõ rằng Việt Nam tuyên bố không một thực thể nào mà Philippines nêu trong đơn kiện có thể tạo các quyền hàng hải ở ngoài phạm vi 12 hải lý, nói một cách khác là chỉ liên quan đến vùng lãnh hải (12 hải lý) quanh mỗi thực thể. Tức là Việt Nam ngầm chấp nhận quyết định là không một thực thể nào hình thành được vùng đặc quyền kinh tế (EEZ).

    Cuối cùng, Việt Nam yêu cầu được nhận tất cả mọi bản sao tài liệu được sử dụng trong tiến trình trọng tài.

    Nếu Việt Nam kiện những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông ra Tòa Trọng tài thường trực, vị học giả cho rằng Hà Nội có thể kiện ở hai điểm. Thứ nhất là những yêu sách lãnh hải của Trung Quốc nằm trong « đường 9 đoạn », cũng như khả năng yêu cầu Tòa PCA tái khẳng định tính chất bất hợp pháp của « đường 9 đoạn » này. Thứ hai, Hà Nội có thể yêu cầu Tòa lên án những hành động lấn chiếm của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vì bản đồ « đường 9 đoạn » do Bắc Kinh tự vẽ chồng lấn rất lớn với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

    Một điểm quan trọng mà nhà nghiên cứu nêu lên trong bài phỏng vấn là trong bối cảnh mới này với tuyên bố lập trường đầu tiên của Hoa Kỳ về vấn đề chủ quyền tại Biển Đông cùng những tuyên bố của Úc và ba nước châu Âu là Đức, Pháp và Anh, Việt Nam có thể có lợi khi tái kích hoạt khía cạnh pháp lý và viện đến Tòa Trọng tài thường trực quốc tế về tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

    Ông phân tích: bối cảnh trở nên thuận lợi bởi vì có ít nhất hai lý do. Lý do thứ nhất là hiện giờ vị thế của Bắc Kinh đang suy yếu, cả về kinh tế lẫn hình ảnh.

    Về kinh tế, cuộc chiến thương mại gây thiệt hại rất nhiều cho Trung Quốc và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bị tác động do những biện pháp trừng phạt của Mỹ. Thêm vào đó, phải kể đến các biện pháp của Washington chống tập đoàn công nghệ Huawei: cấm thâm nhập thị trường Mỹ, đặc biệt là Huawei bị cấm tham gia thị trường 5G ở châu Âu, cũng như là nhiều yếu tố khác.

    Hình ảnh của Trung Quốc trên thế giới cũng bị xấu đi rõ rệt do các biện pháp trấn áp người biểu tình Hồng Kông, rồi người thiểu số Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Thêm vào đó là những nghi ngờ về nguồn gốc của virus corona, cũng như cách xử lý dịch của Trung Quốc bị chỉ trích gay gắt.

    Yếu tố thứ hai là trên thế giới, vấn đề chủ quyền hàng hải ngày càng được các nước liên quan chú ý, lấy ví dụ tranh chấp giữa Pháp và Madagascar về quần đảo Eparses ở Ấn Độ Dương, hay tranh chấp giữa Pháp và đảo Maurice về đảo Tromelin. Qua đó, chúng ta thấy là không gian biển và sự phân chia chủ quyền giữa các nước hiện trở thành một mối bận tâm ngày càng lớn vì những thách thức địa chiến lược cũng như lợi ích địa-kinh tế.

    Trong bối cảnh chung đó, có lẽ Việt Nam sẽ quan tâm đến việc thể hiện thẳng thắn về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là trước cơ chế tài phán liên chính phủ, như Tòa Trọng tài thường trực. Tuy nhiên, theo những điểm được nêu ở trên, trước khi tiến hành, Việt Nam cần cân nhắc rất kỹ các câu hỏi muốn Tòa trả lời, bởi vì chúng ta đã thấy là trong phán quyết năm 2016, Tòa PCA đã trả lời một phần liên quan đến lập trường của Việt Nam khi bác những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, tương tự với một vài điểm trong lập trường của chính Việt Nam.

    https://thoibao.de/

    Không có nhận xét nào