Header Ads

  • Breaking News

    Jason Nguyen - Châu Á chìm trong lũ


    Lược dịch từ bài viết Flooded Asia: Climate change hits region the hardest, đăng trên Nikkei Asia ngày 6/10/2020.

    Khắp nơi trên châu lục, hàng triệu người sẽ phải đối mặt với khó khăn trong những năm tới.

    Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến chu kỳ gió mùa của các nước châu Á, làm cho mùa mưa trở nên dữ dội hơn. Ảnh: Getty Images.

    Dự đoán lâu nay về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến châu lục đông dân nhất thế giới cuối cùng cũng đang trở thành hiện thực. 

    “Các mô hình dự báo đã cho kết quả nhất quán rằng biến đổi khí hậu ở châu Á sẽ xuất hiện dưới dạng nhiều trận lũ lụt hơn, và những mùa mưa khắc nghiệt hơn”, Homero Paltan Lopez, chuyên gia nghiên cứu về nước hiện làm việc tại Đại học Oxford nói.

    Sự thay đổi này được cho là sẽ ảnh hưởng đến gió mùa của khu vực, khiến cho mùa mưa ngắn lại với lượng mưa dồn dập hơn, và mùa khô kéo dài hơn. Đó chính xác là điều đang xảy ra và đang tàn phá cuộc sống người dân tại nhiều quốc gia.

    Năm nay, Bangladesh, một quốc gia có địa hình đồng bằng với khí hậu gió mùa tương tự Việt Nam, đã và đang gánh chịu thiệt hại đặc biệt nặng nề do lũ lụt. Có thời điểm, một phần ba diện tích quốc gia này chìm trong nước.

    Lũ lụt trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu

    Đó là hiện tượng chung trên cả khu vực. Kể từ tháng Sáu, lượng mưa lớn dẫn đến các trận lũ nghiêm trọng ở nhiều quốc gia trong khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, Nepal, Pakistan, Mông Cổ và Ấn Độ, buộc hàng triệu người phải di dời, và khiến hàng trăm người đã thiệt mạng. Đồng thời, các tác động kinh tế do lũ lụt gây ra ở châu Á cũng lớn hơn bất kỳ nơi nào khác, theo một báo cáo của Viện nghiên cứu Toàn cầu McKinsey (McKinsey Global Institute).

    “Đến năm 2050, trong số tài sản (capital stock) có nguy cơ bị thiệt hại từ lũ lụt trên toàn cầu, 75% sẽ nằm ở châu Á”, Ruslan Fakhrutdinov, một cộng tác viên của Viện nghiên cứu McKinsey, cho biết: “Tiểu lục địa Ấn Độ và các khu vực ven biển Đông Nam Á sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất”.

    Những dữ liệu khác cũng đã vẽ nên một bức tranh tương tự. 

    Một nghiên cứu trên tạp chí khoa học Nature Communications ước tính rằng, hiện có 300 triệu người đang sống ở những khu vực có thể sẽ xảy ra lũ lụt do biến đổi khí hậu vào năm 2050. Hầu hết trong số này thuộc những quốc gia ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và Việt Nam.

    Còn trong một nghiên cứu khác trên tạp chí Scientific Reports, mật độ dân số cao cũng như sự tập trung dân cư tại các khu vực ven biển sẽ khiến phần lớn dân số châu lục này gặp rủi ro cao trong 80 năm tới, khi nguy cơ lũ lụt ngày càng gia tăng trên toàn cầu.

    Điển hình là trong năm 2020, chỉ riêng ở Trung Quốc đã có 2,7 triệu người phải sơ tán và khoảng 63 triệu người bị ảnh hưởng vì lũ lụt. Đây là đợt lũ lụt tồi tệ nhất xảy ra ở miền Nam nước này kể từ năm 1961. 

    Trong khi đó ở Nam Á, có khoảng 17 triệu người bị ảnh hưởng bởi bởi lũ lụt trong năm nay. Tình hình có khả năng trở nên tồi tệ hơn khi nhiều khu vực của châu Á được dự báo sẽ đón nhận lượng mưa lớn trong mùa mưa này. Ngay cả những quốc gia nhiều kinh nghiệm ứng phó với thiên tai như Nhật Bản cũng đã phải chịu nhiều thiệt hại đáng kể về người và tài sản.

    Sự phát triển của khoa học và các mô hình dự báo giúp các nhà khoa học tự tin hơn trong việc ước tính biến đổi khí hậu có tác động ra sao đối với từng sự kiện thời tiết.

    Ví dụ, khi cơn bão Harvey làm ngập lụt một số vùng của bang Texas vào năm 2017, các nhà khoa học có thể tính toán, rằng lượng mưa cao hơn ít nhất từ ​​15% đến 19% so với bình quân là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Dưới tác động đó, xác suất xảy ra các cơn bão tương tự cũng tăng lên ba lần.

    Nguy cơ xảy ra mưa bão cực đoan tăng cao, nhưng không đồng nghĩa với việc mỗi năm sẽ đều xuất hiện lũ. Các yếu tố bất định khác khiến chu kỳ lũ trở nên khó lường hơn. Theo Lopez, chuyên gia của Oxford, mùa mưa năm sau hoàn toàn có thể có lượng nước ít hơn năm nay.

    Hiện nay, châu Á chiếm phần lớn tổng lượng phát thải khí carbon trên toàn cầu, và con số này còn đang gia tăng. Do đó, hầu hết những nỗ lực hiện đang tập trung vào việc cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, nhằm giảm nhẹ tác động lâu dài của biến đổi khí hậu.

    Nhưng đối với lũ lụt, các giải pháp giảm nhẹ rủi ro trong ngắn và trung hạn sẽ có ít tác động. Lượng khí thải đổ dồn từ hàng trăm năm qua tạo ra biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến lượng mưa dữ dội và mực nước biển dâng – là những điều kiện làm cho lũ lụt dễ xảy ra hơn.

    Còn có cả những yếu tố không liên quan đến khí hậu, như vấn đề di cư. Việc này ảnh hưởng đến các tác động xã hội và kinh tế của những trận lũ. Theo thống kê của World Bank, mỗi tuần có khoảng một triệu người chuyển lên thành thị.

    Sự bùng nổ kinh tế trong nhiều thập niên qua của châu Á đã kéo theo việc di dân không kiểm soát. Chỉ trong vòng 10 năm kể từ năm 2000, đã có thêm 200 triệu người di cư mới vào các thành phố trong khu vực châu Á. Lượng di cư tăng nhanh ở Pakistan, Indonesia và Ấn Độ khiến cho các nhà quan sát lo ngại. Đông người hơn, lại thêm nhiều cơ sở hạ tầng tại các khu vực rủi ro cao sẽ khiến hậu quả của lũ trầm trọng hơn.

    Những tác động khác của con người, chẳng hạn như việc khai thác quá mức nguồn nước ngầm đã tàn phá diện tích rừng ngập mặn ven biển trên diện rộng. Các khu rừng ngập mặn có vai trò làm giảm mực nước biển dâng do bão, cũng như chống sự xâm lấn của biển vào đất liền. Do đó, việc để mất các hàng rào sinh học và các bể chứa nước tự nhiên này sẽ làm nhiều thành phố châu Á dễ bị ngập lụt hơn, ngay cả khi không chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

    Một điểm sáng trong ứng phó với lũ lụt do biến đổi khí hậu thời gian gần đây là lượng dữ liệu đang dồi dào hơn bao giờ hết.

    “Các nguồn dữ liệu từ vệ tinh cùng với khả năng xử lý ngày càng cao của máy tính cho phép những người làm chính sách nhìn rõ cuộc khủng hoảng đang diễn ra, nguyên nhân của nó, và bắt đầu nghĩ cách giảm thiểu rủi ro”, Charles Iceland, giám đốc của Sáng kiến Nước Toàn cầu thuộc Viện Tài nguyên Thế giới (The World Resources Institute), nói.

    Tuy vậy, một câu hỏi đang dấy lên là liệu những dự án hạ tầng khổng lồ như các con đập có phải là giải pháp tốt hay không.

    Một trong những điểm lụt nặng nhất trong trận lụt kinh hoàng ở Trung Quốc xảy ra ở lưu vực sông Dương Tử. Nơi này vốn có một hệ thống quản lý nước đồ sộ bậc nhất toàn cầu, bao gồm Đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) – con đập nhất thế giới.

    Trung Quốc đã có những chính sách kéo dài nhiều thập niên qua nhằm can thiệp và giảm thiểu lũ lụt tại khu vực sông Dương Tử. Theo đó, nhiều cơ sở hạ tầng đồ sộ, dự án, đê và đập đã được xây dựng.

    Abhas K. Jha, một chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới hy vọng sẽ có một cuộc chuyển đổi từ cái ông gọi là “hạ tầng xám” (gồm đập, kênh đào, hệ thống trị thủy quy mô lớn) sang “hạ tầng xanh”, tập trung vào việc quy hoạch cảnh quan nhằm tăng khả năng hấp thụ nước của thành phố, đồng thời phục hồi những hệ thống sinh quyển đang bị đe dọa – như đồng bằng ngập nước tự nhiên, khu đất ngập nước, và rừng ngập mặn.

    “Khi các thành phố cố gắng xử lý lũ lụt, họ tập trung quá nhiều vào các hạ tầng xám, và đó thường là vấn đề”, Jha nói. “Đó là một phần của giải pháp, nhưng không phải là tất cả. Chúng ta phải cân bằng được giữa xanh và xám, hoặc nói cách khác là cần quy hoạch đô thị sao cho thích ứng phù hợp với nước hơn.”

    Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) ước tính rằng việc xây dựng các hạ tầng “xanh” và “xám” để giảm thiểu lũ từ nay cho đến năm 2030 sẽ ngốn đến 800 tỷ USD. Tuy vậy, thiệt hại nếu như không hành động còn có thể lớn hơn nhiều.

    Thiệt hại do lũ lụt tại Trung Quốc trong năm nay là 25 tỷ USD và chưa có con số thống kê cho phần còn lại của khu vực. Một nghiên cứu trên tạp chí Nature cho biết, tính đến năm 2100, nếu không làm gì để thay đổi, 12-20% GDP toàn cầu sẽ có thể gánh chịu nguy cơ thiệt hại từ lũ lụt.

    Nhiều quốc gia châu Á đang mở rộng các biện pháp tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh đại dịch. Một số biện pháp trong đó có liên quan đến môi trường. Vào tháng Bảy, Hàn Quốc đã tiết lộ kế hoạch “Thỏa thuận xanh mới” đến năm 2025 (”Green New Deal”) trị giá 73 nghìn tỷ won (63 tỷ USD). Mục tiêu chính của dự án này là loại bỏ khí carbon trong sản xuất điện cũng như đầu tư vào các tòa nhà tiết kiệm năng lượng.

    Đây là một khởi đầu tốt, nhưng sẽ còn cần thêm nhiều nỗ lực lớn hơn nữa.

    Châu Á là châu lục đông dân nhất thế giới và đang ngày càng thịnh vượng. Tương lai tăng trưởng kinh tế của châu lục phụ thuộc rất lớn vào cách mà các quốc gia ứng phó với lũ lụt.

    https://www.luatkhoa.org/

    Không có nhận xét nào