Header Ads

  • Breaking News

    Willy Wo-Lap Lam - Cuộc đấu tranh cho tương lai của Trung Quốc


    Xã hội dân sự đối đầu với đảng Cộng Sản Trung Quốc

    *

    CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

    XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI ĐẦU VỚI BỘ MÁY NHÀ NƯỚC-CẢNH SÁT CỦA TẬP CẬN BÌNH

    1. Giới thiệu: Nhà nước độc tài cứng rắn bóp chết quyền tự do tư tưởng và không gian công như thế nào

    Trong báo cáo cuối năm 2017 về sự phát triển toàn cầu của không gian công tại hơn 100 quốc gia, Liên minh Thế giới vì sự tham gia của công dân (CIVICUS) đã hạ xếp hạng của Trung Quốc từ “bị kìm hãm” xuống “tiêu diệt”. CIVICUS phản ánh “sự tiếp tục leo thang của cuộc tấn công vào các quyền tự do dân sự cơ bản dưới thời Tập Cận Bình”. Cơ quan giám sát có trụ sở tại Johannesburg này lưu ý rằng: “Kể từ năm 2015, Trung Quốc đã không ngừng đàn áp những người chỉ trích thông qua việc bắt giữ hàng loạt luật sư và nhà hoạt động, đóng cửa các trang web quảng bá đối thoại hòa bình, và triển khai lực lượng an ninh [chống lại những người bất đồng chính kiến và các nhóm tổ chức phi chính phủ (TCPCP)]”. Tổ chức gợi ý rằng xã hội dân sự vốn đã bị bao vây ở Trung Quốc sẽ bị hạn chế hơn nữa bởi các luật mới về các TCPCP và về an ninh nhà nước.

    Mặc dù việc bộ máy của ĐCSTQ đàn áp giới trí thức, các luật sư nhân quyền, tín đồ của các giáo phái ngầm và những người tham gia xã hội dân sự khác đã được bình luận rộng rãi, nhưng chương này cố gắng làm sáng tỏ những đặc điểm kỳ lạ của Trung Quốc trong cuộc chiến giữa một bên là chủ nghĩa độc tài cứng rắn và một bên là các lực lượng xã hội dân sự đang xả thân khác. Cho đến đầu thập niên 2010, sự lãnh đạo của cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch Tập đã giành được sự khen ngợi về thành công kinh tế từ các nhà bình luận, ngay tại các nền dân chủ như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các vấn đề kinh tế bao gồm nợ công lớn, hoạt động công nghiệp kém, chi tiêu tiêu dùng mờ nhạt và sự phụ thuộc quá mức vào đầu vào của chính phủ để kích thích tăng trưởng đã xuất hiện trước. Các TCPCP về lao động có trụ sở tại Hồng Kông tính toán rằng số lượng các cuộc đình công được báo cáo - có thể chỉ là một phần của tổng số - đã tăng từ dưới 200 cuộc vào năm 2011 lên 1.256 cuộc vào năm 2017. Các trường hợp ước tính hàng năm về “bùng phát quy mô lớn”, hoặc biểu tình và bãi công, là 180.000 cuộc vào năm 2010, năm cuối cùng khi số liệu có sẵn. Trong một nỗ lực rõ ràng để ngăn chặn những xáo trộn có thể xảy ra sau thời kỳ suy thoái kinh tế, bộ máy Đảng-Nhà nước đã quy tụ một bộ máy nhà nước-cảnh sát công nghệ cao mà không để lại nhiều chỗ cho giới trí thức và các thành phần xã hội dân sự khác.

    Tuy nhiên, những sự kiện bất ngờ của năm 2018 không chỉ bộc lộ thêm những mắt xích yếu kém trong nỗ lực của Tập Cận Bình để đạt được diên ngôn “cai trị lâu dài và ổn định lâu dài” cho ĐCSTQ và cho chính ông, chúng còn mở ra cơ hội cho giới trí thức, luật sư nhân quyền, nhà các nhà vận động cho các giáo phái ngầm và cộng đồng TCPCP nói chung. Ông Tập, người đã thay đổi Hiến pháp để có thể cầm quyền suốt đời, đã không giải quyết được những thách thức mà Tổng thống Donald Trump đặt ra trên cả mặt trận kinh tế và địa chính trị. Mặc dù ông Tập đã nhiều lần không chịu nổi áp lực của Mỹ trên mặt trận thương mại - chẳng hạn như đồng ý mua nhiều sản phẩm của Mỹ hơn trong khi cắt giảm thuế đối với ô-tô do Mỹ sản xuất - nhưng điều đó đã không thể ngăn cản hai bên không trở thành Chiến tranh Lạnh toàn diện. Đáng chú ý hơn, người đệ tử nhiệt thành của Chủ tịch Mao này đã từ chối tiếp thu các chủ đề cải cách thị trường của Đặng Tiểu Bình bất chấp sự ủng hộ mạnh mẽ đối với tự do hóa được ủng hộ phần lớn người dân Trung Quốc - những người hưởng lợi từ các thể chế do Đặng kiến tạo. Hơn nữa, phần lớn những lời phàn nàn của Trump về chính sách kinh tế của Bắc Kinh chính xác là nhắm vào việc sự lãnh đạo của ông Tập nhấn mạnh quan điểm của chủ nghĩa Mao trong sự kiểm soát chặt chẽ của ĐCSTQ đối với nền kinh tế.

    Nhà lãnh đạo tối cao này không có nguy cơ bị mất quyền lực. Tuy nhiên, việc ông nhận thức được thất bại trong việc chấn hưng nền kinh tế - và đặc biệt là việc ông không thể ngăn chặn một cuộc va chạm trực diện với Mỹ - đã dẫn đến những lời chỉ trích từ các thành phần khác nhau trong ĐCSTQ và trong dân chúng. Họ bao gồm các thái tử Đảng (thân nhân của các đại nguyên lão sáng lập ra ĐCSTQ) thân cận với gia tộc Đặng Tiểu Bình; các cán bộ ủng hộ thị trường, đặc biệt là các cán bộ ở trung ương; doanh nhân tư nhân; và các thành viên của tầng lớp trung lưu Trung Quốc với ước tính khoảng 400 triệu người - những người lo lắng về sự suy giảm mức sống của họ. Các thành viên của xã hội dân sự, đặc biệt là giới trí thức, nhà báo, giáo sư, luật gia và luật sư nhân quyền, đã dựa trên những tình cảm chống Tập này để thúc đẩy mục tiêu của họ vì các giá trị phổ quát như pháp quyền và tôn trọng nhân quyền.

    Tuy nhiên, những lời kêu gọi ngày càng táo bạo về cải cách trong không gian công đang bị ĐCSTQ đè bẹp một cách tàn nhẫn. Chương này lập luận rằng một mục tiêu không thể thiếu - và chính sách đặc trưng - của Đảng kể từ thời Mao Trạch Đông là kìm hãm tự do của các cá nhân và đè bẹp các nhóm xã hội không liên kết với ĐCSTQ. Các giải thích sẽ được đưa ra tại sao việc các nhà lãnh đạo Đảng đàn áp các lực lượng có khả năng gây mất ổn định từ trong trứng nước là bản chất thứ hai. Với tư cách là “nhà lãnh đạo chủ chốt”, ông Tập đã sẵn sàng đánh dấu kỷ niệm một trăm năm thành lập ĐCSTQ vào năm 2021, ông đang tiếp nối truyền thống lâu đời bằng cách phủ nhận các lực lượng chống lại Đảng dựa trên bất kỳ nền tảng nào và hoạt động ở bất cứ đâu tại Trung Quốc. Cả Mao và Tập đều coi xã hội - đặc biệt là các lĩnh vực liên quan đến ý thức hệ và tư tưởng - như một mặt trận hoặc chiến trường mà Đảng phải có toàn quyền kiểm soát. Mặc dù thực tế là, sau 70 năm, chế độ cai trị của nhà nước Cộng hòa Nhân dân dường như đã vững chắc, nhưng ban lãnh đạo Đảng vẫn bị ám ảnh bởi việc tiêu diệt những kẻ nổi loạn, kẻ phá hoại và vô số kẻ thù thông qua các cuộc giao tranh không hồi kết trên chiến trường Trung Quốc.

    Đây có lẽ là nghịch lý lớn nhất đối với Trung Quốc dưới thời ông Tập. Một mặt, chính quyền ông Tập hùng biện về sự thật rằng các Đảng viên và công dân đều tự hào về “bốn tự tin” - tự tin vào con đường, lý luận, hệ thống và văn hóa của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Ông Tập tỏ ra tin tưởng rằng ĐCSTQ sẽ vẫn là “đảng cầm quyền lâu năm của Trung Quốc”. Đồng thời, ông Tập, người đã trở thành những gì người chỉ trích ông gọi là “Hoàng đế suốt đời” tại Đại hội ĐCSTQ lần thứ XIX vào năm 2017, là hoang tưởng về những thách thức vô cùng nhỏ nhất đối với chính quyền của ĐCSTQ. Như câu ngạn ngữ của Trung Quốc, nhà lãnh đạo tối cao dường như nhìn thấy “kẻ thù sau mỗi cái cây và mỗi cọng cỏ”. Lời giải thích thuyết phục nhất dường như là ĐCSTQ - vốn luôn tự nhận mình là “tuyệt vời, rực rỡ và đúng đắn” - có quá nhiều điều để che giấu. Giới trí thức, cũng như các nhà hoạt động phi chính phủ, đã chỉ ra những nguyên nhân cốt lõi đằng sau những thảm họa do Đảng khởi xướng, từ Đại nhảy vọt đến thảm sát Thiên An Môn: lãnh đạo cao nhất hoàn toàn từ chối chia sẻ quyền lực với các thành phần khác nhau trong xã hội. Tất cả người dân Trung Quốc cũng phơi bày những khiếm khuyết rõ ràng của “mô hình Trung Quốc”, hay điều mà ông Tập gọi tại Đại hội Đảng lần thứ XIX là “Trí tuệ Trung Hoa và Kế hoạch chi tiết của Trung Quốc”. Hơn nữa, ĐCSTQ đang hoang tưởng về khả năng các nhóm xã hội hoặc tôn giáo có thể biến thành các trung tâm quyền lực thay thế mà có thể so sánh với Phong trào Công đoàn đoàn kết và Giáo hội Công giáo ở Ba Lan.

    Các phần tiếp theo mô tả các biện pháp đa chiều của ĐCSTQ hướng tới việc khuất phục cá nhân và nén không gian sinh tồn của xã hội dân sự và không gian công. Các chính sách tàn bạo và chuyên quyền của ‘nhà tư lệnh tối cao’ (zuigaotongshuai) Tập sẽ được so sánh với các cách tiếp cận tương đối khoan dung của các cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Bộ máy nhà nước cảnh sát hỗ trợ trí tuệ nhân tạo (AI) thời hậu Orwel của ĐCSTQ sẽ được đưa ra xem xét. Chương này kết thúc bằng cách xem xét cách các nhóm xã hội dân sự đang đối đầu với ĐCSTQ. Một cuộc đánh giá sẽ được thực hiện xem liệu những người quyết định cường độ tham gia của các TCPCP có sẵn sàng đóng góp cho quá trình tự do hóa chính trị bất chấp sự đàn áp không ngừng leo thang của Bắc Kinh hay không.

    2. NÔ DỊCH HÓA CÁ NHÂN

    2.1. Đảng đã đè bẹp chủ nghĩa cá nhân như thế nào

    Một bài báo được lưu hành rộng rãi năm 2015 có tựa đề “Chúa đã bỏ lại Trung Quốc bao nhiêu người vẫn còn lương tâm ?” đã tóm tắt hoàn cảnh của những người Trung Quốc không muốn trở thành một bánh răng cưa trong guồng máy của “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”. Không phải kể từ cuối triều đại nhà Thanh - khi các trí thức Trung Quốc bắt đầu “phong trào tự cường” đồng thời với một cuộc tìm kiếm lãng mạn nhưng đầy hoang tưởng hướng tới nền dân chủ - thì người Trung Quốc mới thất vọng đến như vậy trước những nhà cầm quyền độc tài của họ. Bài báo ẩn danh, là tập hợp các câu danh ngôn từ các nhân vật nổi tiếng, trích dẫn các trí thức kể về việc bộ máy Đảng-Nhà nước đã cố gắng biến họ thành tay sai và nô lệ của “chế độ độc tài vô sản”. Đối với Chu Thụy Kim, một thành viên nổi bật của Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, khế ước xã hội giữa các quan chức và những người bình thường đã bị hủy bỏ. “Các quan chức nghĩ rằng nhiệm vụ của họ là cai trị và quản lý mọi người dân - và không có khái niệm phục vụ”, ông lưu ý. “Họ nghĩ rằng nếu bạn không vâng lời và không làm theo hướng dẫn, họ có thể bỏ tù bạn”.

    Tiểu thuyết gia nổi tiếng Trương Kháng Kháng đã đi xa hơn trong việc mô tả quyết tâm của bộ máy Đảng-Nhà nước đối với việc tẩy não các công dân để khiến họ phải phục tùng. Bà Trương lập luận rằng Đảng “có thể, nếu cần, biến tất cả mọi người thành cùng một loại [người]. Đảng là một cỗ máy hiệu quả cao và trong vài thập kỷ qua, Đảng đã tạo ra một sản phẩm được gọi là nô lệ”. Tư Trung Quân, một chuyên gia Hoa Kỳ học đầy uy tín, người từng là thông dịch viên của Mao Trạch Đông, đồng ý về điều này. Bà Tư tin chắc rằng sứ mệnh của các học viện danh tiếng nhất Trung Quốc là “tuyển chọn những sinh viên tài năng nhất và sau đó tiêu diệt họ […] Đây là một tội ác tày trời trước trời đất”. Bà Tư bày tỏ lo ngại về “sự suy thoái [trong các phẩm chất] của chủng tộc Trung Quốc”.

    Trong vài năm trước khi xảy ra vụ đàn áp Quảng trường Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình và đàn em theo chủ nghĩa tự do của ông như các cựu Bí thư Đảng Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương đã cố gắng giải phóng tâm trí không chỉ của các quan chức và trí thức, mà cả những người Trung Quốc bình thường khỏi ách thống trị của chủ nghĩa Mao. Chính khái niệm “giải phóng tư tưởng”, vốn là lời kêu gọi tập hợp của Tổng Bí thư Hồ Diệu Bang (1915-1989) và các đồng nghiệp của ông như cha của Chủ tịch Tập, vị đại nguyên lão Tập Trọng Huân (1913-2002), đã giả định rằng mọi công dân được quyền có cách suy nghĩ của riêng họ - và họ nên được tự do tiếp thu bất cứ điều gì tốt nhất trong cả truyền thống phương Đông và phương Tây. Hồ và Đặng - ít nhất là trước khi họ chuyển sang bảo thủ vào giữa thập niên 1980 - đã ủng hộ khẩu hiệu của những người trí thức tự do: “Thực hành là tiêu chí duy nhất của chân lý”. Hồ, người bị loại khỏi chức vụ Tổng Bí thư sau làn sóng đầu tiên của phong trào sinh viên vào tháng 12 năm 1986, thậm chí còn đi xa đến mức nói rằng: “Chủ nghĩa Mác không thể giải quyết tất cả các vấn đề của ngày nay”. Tuy nhiên, đối với Chủ tịch Tập, chân lý là những gì mà ‘Trung ương’, hoặc ban lãnh đạo Trung ương Đảng do chính ông ấy biểu trưng, nói ra. Và các đảng viên, và bởi các giáo sư và chuyên gia được đào tạo bài bản, không thể wangyi (“chỉ trích vô căn cứ”) đối với ‘Trung ương’.

    2.2 ‘Tính Đảng’ và chủ nghĩa cá nhân: giới trí thức như những chiếc bánh răng trong cỗ máy xã hội chủ nghĩa

    Phần lớn giáo điều của ĐCSTQ về mối quan hệ giữa một bên là trí thức và công dân bình thường và một bên là bộ máy Đảng-Nhà nước được gói gọn trong ý tưởng của Mao Trạch Đông rằng các cá nhân không hơn gì những người hầu hèn mọn và nông nô của bộ máy Đảng. Nói theo Marx và Lenin, Mao chỉ ra rằng mỗi người đều có “bản chất giai cấp” và bản chất đảng phái (tính đảng). Mục tiêu của các cơ quan nhà nước-Đảng là đảm bảo rằng công dân - đặc biệt là những người thuộc “lý lịch đen”, chẳng hạn như các nhà tư bản và trí thức tự do tư sản - phải trải qua quá trình tự chuyển hóa và cải cách tư tưởng cho đến khi họ hoàn toàn thay thế cá nhân của mình dưới một chân chính “bản chất giai cấp vô sản”. Mao cũng lưu ý rằng không chỉ các thành viên ĐCSTQ, nhưng tất cả Trung Quốc, nên có được những điều kiện tiên quyết ‘tính Đảng’, có nghĩa là tất cả những suy nghĩ, mục tiêu và nguyện vọng của mình nên khớp với các yêu cầu của Đảng.

    Trong “Bài nói chuyện tại Diễn đàn Diên An về Văn học và Nghệ thuật” vào tháng 5 năm 1942, Mao - ‘người cầm lái vĩ đại’ - lập luận rằng chiến thắng của ‘tính Đảng’ sẽ “cắt giảm [các hiện tượng của] “chủ nghĩa cá nhân”, “ chủ nghĩa anh hùng” hoặc “tình trạng vô chính phủ” trong số các đảng viên kém kiên trung. “Hệ quả của sự khăng khăng này trên “tính Đảng ngày một thuần khiết” là mỗi cán bộ đảng và thành viên nên tự biến mình - thông qua tẩy não và các phương tiện khác – thành một nhân vật giống như Lôi Phong - nhà vô sản vị tha được Mao phong thành anh hùng trong thập niên 1950.

    Hơn nữa, cách giải thích chủ nghĩa Mác-Lênin của Mao không chỉ gán mọi người Trung Quốc vào vai nô lệ của bộ máy Đảng, mà còn nhấn mạnh rằng mọi kiến thức phải đúng đắn về mặt chính trị và phục vụ chế độ. Do đó, ‘nhà cầm lái vĩ đại’ đã nhấn mạnh thực tế rằng lý thuyết ‘tính Đảng’ được áp dụng cho mọi loại kiến thức. Ông khuyên các nhà văn và nghệ sĩ giai cấp vô sản “hãy đứng về phía Đảng, lập trường của việc làm lung lay và các chính sách của Đảng”. Theo Mao, nghệ thuật - cùng với các hình thức kiến thức và chuyên môn khác - không có khả năng tự cung tự cấp bẩm sinh: nó phải phục vụ mục tiêu cao hơn của cuộc cách mạng. Mao nói: “Thực tế không có cái gọi là nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật đứng trên các giai cấp, hay nghệ thuật tách rời hoặc không phụ thuộc vào chính trị”. “Văn học, nghệ thuật vô sản là bộ phận của toàn bộ sự nghiệp cách mạng vô sản”. Trích dẫn Lenin, Mao cho rằng giới trí thức và các công dân chỉ là “những chiếc bánh răng và bánh xe trong toàn bộ guồng máy cách mạng”. Vì kiến thức - và những gì đi qua tâm trí nhân dân - hoàn toàn phải gắn liền với ‘tính Đảng’, không có gì ngạc nhiên khi Mao nghĩ ra đủ loại kỹ thuật kiểm soát tư tưởng để khiến các đảng viên ĐCSTQ và thậm chí cả những công dân bình thường thoát khỏi những ý tưởng bị nghi ngờ về mặt chính trị. Như Mao đã trình bày trong một bài phát biểu khác tại Hội nghị Diên An, có rất nhiều đảng viên ĐCSTQ đã đăng ký đầy đủ “trong suy nghĩ của họ chưa tham gia hoàn toàn vào đảng - hoặc hoàn toàn không gia nhập đảng”. Ông chỉ ra rằng bộ não của những thành viên không đủ tiêu chuẩn này chứa đầy cặn bã (zangdongxi) giống như của các giai cấp bóc lột

    Những người hâm mộ Mao bao gồm Chủ tịch Tập, người đã tán thành nhiều hành động quỷ quyệt nhất của tên bạo chúa này. Nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ năm này đã đưa ra một sự tái khẳng định mạnh mẽ của lý thuyết ‘tính Đảng’ trong bài nói chuyện của ông vào ngày 19 tháng Tám năm 2013 với cán bộ phụ trách công tác tư tưởng tuyên truyền, khi Tập chỉ ra rõ ràng rằng: “‘tính Đảng’ và ‘tính người’ Giữ ‘tính Đảng’ có nghĩa là đề cao bản chất của con người… Không có ‘tính Đảng’ nào là xa lánh bản chất của con người, và tương tự như vậy những người đã từ bỏ ‘tính đảng’ không còn bản chất của con người”.

    Nói cách khác, những tư tưởng và nguyện vọng của nhân dân có hại cho lợi ích của Đảng phải bị loại bỏ (xem Chương 2). Nhà lý thuyết Mác-xít Dương Pháp Tường thậm chí còn tuyên bố rằng ‘tính Đảng’ là sự cải thiện và thăng hoa của ‘tính người’. ‘Tính Đảng’ đóng vai trò là hướng dẫn cho sự phát triển xã hội và được các thành viên tiên tiến của xã hội tiếp thu và làm theo”, Dương tuyên bố. “Những người có ‘tính người’ cao có thể không đủ tiêu chuẩn để trở thành đảng viên cấp trên, nhưng những người có ’tính Đảng’ cao nhất thiết phải thể hiện được ‘tính người’ ”.

    Bất chấp việc Tập tuyên bố rằng ông là đệ tử của Đặng Tiểu Bình – vị kiến trúc sư vĩ đại của cải cách, có sự khác biệt cơ bản giữa nhận thức luận và thế giới quan của hai nhà lãnh đạo. Đúng là Đặng rất cứng rắn với đảng viên chú ý đến “Bốn nguyên tắc cốt yếu” của chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Tuy nhiên, ít nhất là trước khi xảy ra vụ đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn, Đặng đã áp dụng một cách tiếp cận cởi mở - và gần như dị giáo - đối với các lý thuyết và học thuyết chính thống, bao gồm các cách thức và phương tiện điều hành nền kinh tế và xã hội. Không giống như Tập, người nhấn mạnh rằng mọi thứ phải được hình thành và thực hiện bằng cách sử dụng ‘tính Đảng’ làm thước đo, Đặng ủng hộ học thuyết nổi tiếng ‘linh hoạt trong các tên gọi’. Biến thể này của “lý thuyết hai con mèo” có nghĩa là, khi đảng đánh giá các mục tiêu và chính sách, đảng không nên sa lầy vào các lập luận xem họ là “xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa”. Tất cả vấn đề là liệu các mục tiêu và chính sách được đề cập có khả năng tạo ra kết quả có lợi hay không. Sử dụng bài phát biểu của Đặng, Tập sẽ có những phản đối nghiêm túc đối với các lý thuyết và chính sách kinh tế và xã hội được cho là “mang tính chất tư bản chủ nghĩa”.

    2.3. Bài nói chuyện của Tập Cận Bình về văn học và nghệ thuật

    Chủ tịch Tập đã phục hồi các lý thuyết về văn học và nghệ thuật và qua đó đã làm sống lại những khắc nghiệt của chủ nghĩa Mao, vốn không chỉ chống lại các chuẩn mực toàn cầu, mà còn chống lại cả đặc điểm của cựu lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình về chính sách mở cửa. Vào tháng Mười năm 2014, ông Tập đã chủ trì một cuộc hội thảo về văn học và nghệ thuật cho hàng chục “kỹ sư tâm hồn” mẫu mực, hoặc các nhà văn, nghệ sĩ, nhạc sĩ và nghệ sĩ biểu diễn đã nhận được sự khen ngợi chính thức vì đã hát ca ngợi các giá trị chính thống. Buoir họp kín bất thường này được mô phỏng theo Bài nói chuyện Diên An của Chủ tịch Mao Trạch Đông về Văn học và Nghệ thuật, từng được tổ chức tại căn cứ địa cách mạng Thiểm Tây vào năm 1942.

    Tổng Bí thư ĐCSTQ đã khuyên nhủ những trí thức hàng đầu này “hãy lấy lòng yêu nước làm động lực cho sáng tạo nghệ thuật […] Chúng ta phải cung cấp hướng dẫn để mọi người thiết lập và duy trì quan điểm đúng đắn về lịch sử và nhà nước… để họ chính trực và là xương sống của [người mẫu] Trung Quốc”, Tập nói. Lúc đầu, ông Tập đã nhắc lại lý tưởng của chủ nghĩa Mao là “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tuy nhiên, rõ ràng là Mao - và Tập - đã sử dụng những từ ngữ nghe có vẻ dễ thương này, theo cách nói của ông, để “dụ những con rắn chui ra khỏi hang của chúng”.

    “Chúng ta phải phát triển dân chủ học thuật, dân chủ văn hóa… và ủng hộ việc thảo luận toàn diện các quan điểm và trường phái tư tưởng khác nhau”, ông Tập nói tại cuộc họp. Tuy nhiên, bài phát biểu là một hiện thân nghiêm khắc của chủ nghĩa chính thống Mao-ít, bắt đầu bằng khẩu hiệu nghe có vẻ vô hại của cố chủ tịch là “phục vụ quần chúng”. Nhà lãnh đạo tối cao nói: “Văn học và nghệ thuật nên phản ánh tốt tiếng nói của người dân”, và thêm: “Phải giữ vững phương hướng cơ bản là phục vụ nhân dân và phục vụ chủ nghĩa xã hội […] Đây là yêu cầu cơ bản mà đảng đã thực hiện… và việc [cương lĩnh phục vụ nhân dân] có thực hiện được hay không sẽ quyết định tương lai và số phận của nền văn học và nghệ thuật nước ta ”.

    Phản bác lại luận điệu thô thiển của các chính ủy, Tổng Bí thư kêu gọi những người làm công tác văn hóa “dùng ánh sáng xua tan bóng tối, dùng cái đẹp, cái thiện để chiến thắng cái xấu, cái ác… và để mọi người thấy rằng sự tốt lành, hy vọng và ước mơ đang ở ngay trước mắt họ”. Hệ quả hiển nhiên là những tác phẩm gây nghi ngờ về sự vĩ đại của chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc và những thành tựu vẻ vang của Đảng cần bị loại bỏ.

    Mặc dù ông Tập đã trích dẫn tầm quan trọng của “sự kết hợp giữa [truyền thống] Trung Quốc và phương Tây”, ông lặp lại câu châm ngôn của Mao rằng “những thứ từ nước ngoài nên đáp ứng nhu cầu của Trung Quốc”. Ông Tập đã ca ngợi các tác phẩm của blogger theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Chu Tiểu Bình như một tấm gương của lòng yêu nước cao cả. Nhà văn 33 tuổi này nổi tiếng với các bài báo châm biếm “Giấc moongj Trung Hoa” và chỉ trích chính phủ Mỹ đang cố gắng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. “Văn hóa phương Đông của Trung Quốc cuối cùng sẽ đánh bại bá quyền phương Tây”, Chu viết trong một bài báo gần đây. Ông đã nêu ra trong một bài báo khác về chín chiến lược mà “Hoa Kỳ đang tiến hành Chiến tranh Lạnh văn hóa chống lại Trung Quốc”. Ông nói với tờ ‘Nhân dân Nhật báo’: “Chúng ta phải đề cao các giá trị văn hóa của chính mình”. Quyết định của ông Tập dành nhiều lời khen ngợi cho Chu, kết hợp với các bài bình luận trước đó của ’Nhân dân Nhật báo’, dường như cho thấy rằng Tổng Bí thư đang yêu cầu các nghệ sĩ và những người viết thư thi đua với những kẻ nịnh Đảng.

    2.4. Cuộc chiến của ông Tập chống lại “năm hạng người đen tối” và những nỗ lực mới nhằm tẩy não người Trung Quốc

    Năm 2016 là năm kỷ niệm 50 năm bắt đầu Cách mạng Văn hóa, nhiều nhà bình luận đã tự hỏi liệu chính quyền cứng rắn của ông Tập có bắt đầu một cuộc cách mạng văn hóa nhỏ hay không. Tuy nhiên, điều không thể chối cãi là ĐCSTQ đã nói rõ rằng những người thuộc về “năm hạng người đen tối mới”, sẽ phải tuân theo chế độ độc tài của giai cấp vô sản. Năm thành phần trong dân cư bị chế độ coi là gây bất ổn này là: luật sư nhân quyền, nhà thực hành tôn giáo ngầm, người bất đồng chính kiến, các nhà đối lập chính kiến trên Internet và các nhóm xã hội thiệt thòi. Ngay cả trước Cách mạng Văn hóa, Mao đã coi “địa chủ, nông dân giàu có, phản cách mạng, các phần tử tội phạm và ‘cánh hữu’ ” là kẻ thù của nhân dân cần phải loại bỏ.

    Nguyên lý của việc nhắm mục tiêu vào những “danh sách đen” này được Viên Bằng, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc (CICIR), một tổ chức tư vấn trực thuộc Bộ An ninh Nhà nước (MSS), giải thích một cách đồng nhất. Chuyên gia kỳ cựu về Hoa Kỳ này tuyên bố trong một bài báo có tiêu đề “Những thách thức thực sự của Trung Quốc nằm ở đâu?”, rằng Hoa Kỳ đang cố gắng biến các thành viên của năm loại này thành “các nhóm nòng cốt, qua đó họ sẽ thâm nhập vào các tầng lớp khác nhau của Trung Quốc theo kiểu ‘từ dưới lên’, để tạo điều kiện cho việc ‘chuyển đổi’ Trung Quốc [thành một nước tư bản]”.

    Như chúng ta sẽ thấy trong các phần sau, các cơ quan và mạng lưới cảnh sát và an ninh nhà nước đã phối hợp một bộ máy giống như cảnh sát-nhà nước hoạt động suốt 24 giờ như mê cung để kiểm soát ngay cả những công dân bình thường. Sự lo lắng muốn kiểm soát tâm trí và hành động của người dân là bản chất thứ hai đối với sự lãnh đạo của ĐCSTQ - và không nhất thiết phải gắn với các điều kiện quốc gia hoặc quốc tế cụ thể. Ví dụ: theo dõi người dân và cố gắng ngăn cản “sự thông đồng” giữa các phần tử gây bất ổnvà “các lực lượng phương Tây chống Trung Quốc” ngày nay bị truy đuổi dữ dội như thời Mao. Điều này là mặc dù thực tế là Trung Quốc theo chủ nghĩa Mao vào thời Mao còn sống rất nghèo và bị các nước phương Tây coi thường, trong khi Trung Quốc dưới thời ông Tập đã trở thành một siêu cường đang hăng hái phô trương sức mạnh cứng và mềm của mình trên toàn thế giới.

    Một trong những bí mật về sự trường tồn của sự cai trị của ĐCSTQ là khả năng kiểm soát và chế ngự người dân, đặc biệt là giới trí thức và các nhà hoạt động trong các TCPCP, những người có thể gây ra mối đe dọa cho chế độ. Nhiều chiến dịch chính trị tàn ác nhất của ĐCSTQ, chẳng hạn như Phong trào chống cực hữu (1957-1959) và Cách mạng Văn hóa (1966-1976) được thiết kế để làm suy đồi giới trí thức. Quả thực là ‘quan nhân’, có thể được dịch là “kiểm soát người dân” hoặc “giữ chặt người dân”, là nguyên lý trung tâm của chiến lược con người của ĐCSTQ. Ngay cả những nhà lãnh đạo tương đối tự do như cố chủ tịch nhà nước Lưu Thiếu Kỳ, người đã bị Mao giết trong Cách mạng Văn hóa, đã góp phần vào truyền thống của Đảng là nuôi dưỡng những cán bộ giống như người máy, những người không suy nghĩ gì về đường lối của Đảng. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Lưu, “Về sự tu dưỡng của một đảng viên cộng sản”, là một tài liệu sơ lược về cách biến cán bộ thành những người vô sản kiểu mẫu, những người tuyên bố lòng trung thành bất diệt với đảng. Đối với Tập Cận Bình, công tác tư tưởng và chính trị phải hướng tới việc thay đổi thế giới quan của con người. “Công việc chính trị bao gồm công việc liên quan đến người dân”, ông Tập thích nói. “Chúng ta phải chú ý đến từng cá nhân khi chúng ta làm công việc [định hướng vào con người]. Chúng ta không bao giờ được chỉ quan sát sự vật, hiện tượng một cách rời rạc mà quên mất [rằng chúng ta đang làm việc với] con người”.

    Trong khi người Trung Quốc ngày trước từng buộc phải đọc lại “Mao tuyển” của Mao trong Cách mạng Văn hóa, thì công thức xây dựng “niềm tin của người dân” của ông Tập thoạt nhìn có vẻ ít giáo điều hơn và tròn trịa hơn. Vào năm 2014, ông Tập đã đưa ra một loạt các “giá trị xã hội chủ nghĩa cốt lõi ” mà tất cả các đảng viên và công dân nên thấm nhuần. Các nhà chức trách đã đưa ra định nghĩa gồm 24 từ về “giá trị cốt lõi”. Ở cấp độ quốc gia, những tiêu chuẩn này bao gồm “thịnh vượng và sức mạnh, dân chủ, văn minh và hài hòa”. Ở cấp độ xã hội, “tự do, bình đẳng, công bằng và pháp quyền” được nhấn mạnh. Và ở cấp độ cá nhân, các giá trị liên quan là “lòng yêu nước, tôn trọng công việc, trung thực và thân thiện”. Tuy nhiên, những tiêu chuẩn này lại hướng tới sứ mệnh tư tưởng là thúc đẩy “niềm tin vào con đường, lý thuyết, hệ thống và văn hóa” của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Như ông Tập đã nhắc đi nhắc lại, toàn đảng và xã hội phải “nâng cao ngọn lửa [chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội] và hát bài ca chính nghĩa. […] Chỉ khi người dân có [tập hợp] niềm tin đúng đắn thì mới có thể có hy vọng cho người dân Trung Quốc và sức mạnh cho quốc gia”, ông cảnh báo.

    Các giá trị cốt lõi của xã hội chủ nghĩa và “chủ đề xuyên suốt của thời đại” (shidai zhuxuanlv) được giảng dạy trong các trường học và đại học cũng như được tuyên truyền trong các nhà máy và nơi làm việc. Như ông Tập đã nhắc lại: “chúng ta phải quan tâm đến việc biến các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội thành một vấn đề thường ngày, hữu hình, dễ hình dung và gần gũi với cuộc sống để mọi người có thể cảm nhận và hiểu được các giá trị, nội tâm hóa chúng như một tinh thần theo đuổi và ngoại hiện hóa chúng như một hành động thực tiễn”.

    Hệ quả của chỉ thị nghiêm ngặt này dường như là những đảng viên và công dân không đồng ý với những giá trị này sẽ bị tẩy chay và bị phạt nặng. Ít nhất, các trí thức và những người tìm đường cho các TCPCP muốn tuyên truyền các giá trị khác sẽ bị từ chối không cho tham gia vào nền tảng trực tuyến nào (như các nền tảng về thanh toán trực tiến, đặt taxi, mua đồ ăn, v.v…).

    Quan điểm của ông Tập về việc kiểm soát các phương tiện phổ biến tin tức - bao gồm Internet và phương tiện truyền thông xã hội (xem phần sau) - không xuất phát từ quan điểm cổ điển của ĐCSTQ rằng thông tin là vũ khí mà nhà nước phải sử dụng. Tập đã nhiều lần kêu gọi các cơ quan đảng và chính quyền xử lý các phương tiện truyền thông “đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, để nhân dân các dân tộc tự thống nhất dưới ngọn cờ vĩ đại của chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc”. “Chúng ta phải tăng cường [giáo dục công chúng] về các giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa”, ông lưu ý vào cuối năm 2013. “Chúng ta phải khắc sâu bầu không khí ưu việt của các giá trị tích cực được lưu giữ bằng sự tận tâm [đối với đảng] và thúc đẩy sự hòa hợp”. Tờ ‘Truy tìm Chân lý’, một cơ quan ngôn luận nổi tiếng của ĐCSTQ, thậm chí còn thẳng thắn hơn. Trong một bài bình luận cùng thời điểm, nó nói rằng, “ở giai đoạn này, Trung Quốc không thể chịu đựng hậu quả của việc mất kiểm soát dư luận”.

    3. SỰ NÔ DỊCH HÓA CỦA ĐẢNG DÀNH CHO XÃ HỘI DÂN SỰ

    3.1. Lý do đằng sau thái độ tiêu cực của Bắc Kinh đối với các TCPCP

    3.1.1. Phong trào xã hội dân sự trong thập niên 1980

    Nếu chỉ xem xét những con số, có vẻ như sự phát triển của xã hội dân sự ở Trung Quốc là tương đối nhanh. Khái niệm và thực tiễn về ‘xã hội dân sự’ hoặc ‘không gian công’ không phổ biến trong giới có học thức viết thư cho đến vài năm sau khi Đặng Tiểu Bình khởi động Kỷ nguyên Cải cách và Mở cửa vào cuối thập niên 1970. Theo Bộ Nội vụ (MCA), số lượng các TCPCP đăng ký hợp pháp đã đạt 460.000 vào năm 2012 - năm mà ông Tập lên nắm quyền - tăng từ 354.000 vào năm 2007.

    Tuy nhiên, có một khoảng cách lớn giữa các định nghĩa về TCPCP do cán bộ đảng và chính phủ đưa ra, với các định nghĩa từ các học giả theo chủ nghĩa tự do và các nhà hành động tiên phong thuộc xã hội dân sự. Trong khi các phương tiện truyền thông chính thức bằng tiếng Anh như ‘China Daily’ hoặc các ấn bản tiếng Anh của Tân Hoa xã và ’Nhân dân Nhật báo’ thường sử dụng các TCPCP (hoặc ít thường xuyên hơn là NPO) để biểu thị các tổ chức xã hội dân sự, các phiên bản tiếng Trung khác nhau đáng kể. Du Khả Bình, nhà khoa học chính trị của Đại học Bắc Kinh và từng là cố vấn cho chính phủ, đã xác định được hơn mười loại tổ chức xã hội dân sự (CSO). Chúng bao gồm các TCPCP, NPO, tổ chức minjian (của người dân hoặc “ở cấp người dân”), gongmin tuanti hoặc các nhóm công dân, “các tổ chức trung gian”, qunzhong tuanti hoặc các nhóm của quần chúng, renmin tuanti hay các nhóm của người dân, shehui zuzhi hay các tổ chức xã hội, “Các tổ chức của Bên thứ ba”, và các nhóm tình nguyện. “Nói chung, những cái tên khác nhau này không chỉ ra sự khác biệt đáng kể”, Du viết. “Tuy nhiên, một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt về nội hàm của chúng cho thấy rằng những khác biệt không thể nhầm lẫn được giữa [những khái niệm này]”. Sự khác biệt chính dường như là mức độ mà Đảng-Nhà nước thực hiện quyền kiểm soát đối với các đơn vị này. Hầu hết các cán bộ không tán thành sự tồn tại của các tổ chức nằm ngoài sự kiểm soát hoặc thanh trừng của bộ máy Đảng-Nhà nước. Những gì họ ủng hộ được gọi đúng là TCPCP do chính phủ tổ chức (GONGO). Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sẽ chỉ công nhận shehui tuanti (“nhóm xã hội”) và shehui zuzhi (“tổ chức xã hội”) do chính phủ kiểm soát nhằm cung cấp từ thiện và các dịch vụ xã hội khác. Tập đã làm theo một chiến lược tương tự ngoại trừ việc ông đã gây áp lực nhiều hơn đáng kể lên khá nhiều nhóm xã hội; nhà lãnh đạo bảo thủ này cũng đã cố gắng tăng cường quyền “ra quyết định” của các chi bộ đảng trong các tổ chức xã hội này.

    Thái độ cơ bản của Bắc Kinh đối với các đơn vị phi chính phủ dễ hiểu hơn rất nhiều nếu chúng ta xem xét sự hoang tưởng của Đặng Tiểu Bình trong sự nhìn nhận các nhóm xã hội dân sự đả phá các chế độ độc tài. Trong làn sóng đầu tiên của phong trào sinh viên ở Trung Quốc vào tháng 12 năm 1986, Đặng ngay lập tức được cảnh báo về sự nguy hiểm của việc các trí thức Trung Quốc thử áp dụng phong trào chống cộng sản ở Ba Lan [vào Trung Quốc], vốn đã phát triển mạnh mẽ một phần do sự lớn mạnh của xã hội dân sự. Từ đầu thập niên 1980, các nhóm phi đảng và phi chính phủ - chủ yếu là Nhà thờ Công giáo và phong trào Công đoàn độc lập, cũng như các tổ chức khác nhau của giới trí thức và sinh viên - đã gióng lên hồi chuông báo tử cho Đảng Cộng sản Ba Lan. Trong một bài phát biểu nội bộ vào cuối năm 1986, Đặng nói với các cán bộ đảng rằng “chúng ta phải đề phòng căn bệnh Ba Lan”. Một phần ý nghĩa của vị Tổng Bí thư quá cố là không bao giờ được phép mọc lên các tổ chức xã hội dân sự ở Trung Quốc.

    Sau đó là phong trào dân chủ của sinh viên năm 1989 - dẫn đến sự kiện Thiên An Môn vào ngày 4 tháng Sáu cùng năm. Mặc dù phong trào ủng hộ dân chủ năm 1989 hầu hết được dẫn dắt bởi các học giả và sinh viên, nhưng lần đầu tiên có sự tham gia đáng kể của các doanh nhân tư nhân cũng như các nhóm lao động không thuộc Liên đoàn Công đoàn toàn Trung Quốc (một tổ chức do Đảng điều hành, là hiệp hội lao động hợp pháp duy nhất ở Trung Quốc). Sau khi phong trào Thiên An Môn bị dẹp tan, Tổng Bí thư lúc bấy giờ là Giang Trạch Dân cảnh báo rằng “sẽ đóng cửa tất cả các doanh nghiệp tư nhân”. Tuyên bố khắc nghiệt này – dù chưa bao giờ được thực hiện - được thúc đẩy một phần bởi sự đồng cảm và ủng hộ nói chung của các doanh nhân ngoài khu vực nhà nước đối với sinh viên. Sự kiện Thiên An Môn đã làm trì hoãn sự phát triển của xã hội dân sự Trung Quốc gần một thập kỷ.

    3.1.2. Các giá trị của xã hội dân sự không tương thích với sự thống trị của Đảng

    Vương Minh, Phó Giám đốc Trường Chính sách Công của Đại học Thanh Hoa, đã diễn đạt chính xác khi ông nói rằng “những người nghĩ rằng xã hội dân sự sẽ phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng không chỉ hiểu sai xã hội dân sự là gì, họ còn biểu hiện sự thiếu tự tin về chính trị và lòng tin vào hệ thống và thể chế [của chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc]”. Dĩ nhiên, Vương đã chọc tức một trong những tiên đề thường được trích dẫn nhất của Chủ tịch Tập, rằng cán bộ và công dân bình thường phải “tự tin vào con đường, lý thuyết, hệ thống và văn hóa” của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Như Giáo sư Vương đã chỉ ra trong một bài báo trên tờ ‘Diễn đàn Nhân dân’ vào năm 2013, ý tưởng về một xã hội dân sự giả định trước việc công nhận một số quyền tự do và chuẩn mực dân sự. Ông viết: “Các giá trị của xã hội dân sự bao gồm các giá trị xã hội được chấp nhận phổ biến thể hiện trong quá trình công dân đưa ra các sáng kiến của riêng mình trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội khác nhau. “Chúng bao gồm tinh thần dân sự dựa trên [những ý tưởng về] tự do, độc lập và cảm giác được thụ hưởng… cũng như bình đẳng và công bằng xã hội”.

    Đối với một đảng chính trị rất kiên quyết trong việc loại bỏ các mối đe dọa thực sự và tiềm ẩn, sự phản đối của ĐCSTQ đối với các TCPCP bao gồm một từ: tổ chức. Bộ máy Đảng-Nhà nước không thể dung thứ cho một tổ chức chính trị xã hội hoặc tôn giáo được tổ chức tốt nằm ngoài tầm kiểm soát của nó và ít nhất có khả năng gây ra một thách thức đối với quyền lực của nó do mạng lưới phức tạp của nó. Lý Phàm, vị Viện trưởng nổi tiếng của Viện Thế giới và Trung Quốc, một TCPCP liên quan đến các vấn đề bầu cử cấp cơ sở, chỉ ra rằng đặc điểm nổi bật nhất của các TCPCP Trung Quốc là quyết tâm thành lập một mạng lưới. Trong một bài phát biểu tại Bắc Kinh năm 2014, Lý lưu ý rằng mục tiêu đầu tiên của các TCPCP là “có tổ chức”: “Như ĐCSTQ thường nói, chúng ta phải có tổ chức trước trước khi chúng ta có thể làm bất cứ điều gì”, Lý nói. “Khi các thành phần trong xã hội tập hợp các tổ chức lại với nhau, mục tiêu chính của họ là bảo vệ quyền [của các thành phần khác nhau]”. Giáo sư Hạ Minh của New York City University cho rằng chính quyền Tập sẽ không thể cho phép các nhóm xã hội dân sự phát triển hơn nữa. Ông viết: “Sự phát triển hơn nữa của xã hội dân sự sẽ dẫn đến sự hình thành các đảng phái chính trị. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy rằng Tập Cận Bình đang cảnh giác với sự trưởng thành của xã hội dân sự”.

    Hầu hết các nhà nghiên cứu về xã hội dân sự đều dự đoán xung đột không thể tránh khỏi giữa các TCPCP và bộ máy Đảng-Nhà nước. Lý Phàm lưu ý rằng, ít nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển không gian công, xung đột giữa các nhóm cá nhân và chính quyền địa phương - đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở ở cấp quận, huyện và thị trấn nông thôn - sẽ diễn ra kịch liệt nhất. “Mối quan hệ giữa các TCPCP và chính quyền cấp tỉnh tốt hơn, và [trước đây] không có mâu thuẫn trực tiếp với lãnh đạo trung ương”, Lý nói. “Mặc dù đúng là các chính sách cấp vùng thường xuất phát từ cấp trên, nhưng xung đột giữa xã hội dân sự và chính quyền chủ yếu diễn ra ở cấp cơ sở”. Tuy nhiên, kể từ khi ông Tập lên đến đỉnh cao của quyền lực, ông đã có những sáng kiến để loại bỏ các tổ chức trong không gian công theo hướng phi chính trị hóa.

    Từ quan điểm của Tập Cận Bình - và các chuyên gia thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội có liên kết với đảng - tổng thể các TCPCP tạo thành mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia. Điều này càng đặc biệt rõ ràng do có sự liên kết chặt chẽ giữa một số TCPCP theo định hướng xã hội và chính trị và các đối tác của họ ở các nước phương Tây. Theo Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Từ thiện Trung Quốc do chính phủ tài trợ, Lưu Âu Bình, có tới 1.000 TCPCP Mỹ đang hoạt động tại Trung Quốc đã quyên góp khoảng 20 tỷ nhân dân tệ cho đất nước trong ba thập kỷ qua. Phần lớn nguồn tài trợ này đã được chuyển vào các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu độc lập và các cơ quan chính phủ. Tuy nhiên, mặc dù ước tính chỉ có 17% quỹ được tài trợ cho các TCPCP Trung Quốc, Lưu khẳng định rằng nguồn tài chính từ các TCPCP Mỹ “đã có tác động [đến sự phát triển chính trị xã hội của Trung Quốc] lớn hơn 2 nghìn tỷ nhân dân tệ đã đầu tư bởi các công ty Mỹ ở CHND Trung Hoa”. Lưu trích dẫn các tổ chức như Quỹ Carnegie, Quỹ Open Society Fund, Quỹ Châu Á và Quỹ Ford là có tác động đáng kể đến “việc nghiên cứu và phổ biến [các ý tưởng liên quan đến] cải cách chính trị, nhân quyền, dân chủ và pháp quyền”.

    Việc Bắc Kinh lo sợ về sự thông đồng giữa các TCPCP trong nước hoạt động chính trị và những người bảo trợ nước ngoài của họ là lý do đằng sau việc ban hành luật nghiêm ngặt áp dụng cho các TCPCP nước ngoài vào năm 2016 (xem phần sau). Điều quan trọng là chính quyền của ĐCSTQ cũng lo lắng về hoạt động của các TCPCP nước ngoài có trụ sở tại Hồng Kông, từ các tổ chức truyền giáo đến các tổ chức ủng hộ dân chủ của Mỹ, lan tỏa ảnh hưởng của họ vào đại lục. Tuy nhiên, với việc sắp ban hành ở Hồng Kông cái gọi là Điều 23 Luật An ninh Quốc gia, chính quyền Bắc Kinh và Hồng Kông có thể đảm bảo cơ sở pháp lý để cấm hoặc quản lý chặt chẽ hoạt động của các TCPCP nước ngoài và thậm chí là các cơ quan giám sát nhân quyền nước ngoài có trụ sở tại đặc khu hành chính Hồng Kông.

    3.2. Xã hội dân sự dưới thời Hồ Cẩm Đào

    3.2.1. Thái độ mâu thuẫn của Hồ đối với ‘các tổ chức của nhân dân

    Một năm sau khi Hồ Cẩm Đào lên nắm quyền tại Đại hội Đảng lần thứ XVI vào cuối năm 2002, có 142.000 tổ chức xã hội, phi chính thức và không liên kết với đảng ở Trung Quốc, tăng 6,8% so với năm trước. Tuy nhiên, chỉ có 1.736 đơn vị trong số đó có mạng lưới quốc gia hoặc liên tỉnh, và hầu hết các tổ chức này là TCPCP. Tất cả các tổ chức cần phải được đăng ký và chấp nhận sự giám sát của Bộ Nội vụ. Cũng cần lưu ý rằng Bộ Nội vụ và các cán bộ khác của Đảng thường sử dụng thuật ngữ minjian zuzhi (không chính thức hoặc “tổ chức nhân dân”) hoặc shehui zuzhi (tổ chức xã hội) - chứ không phải TCPCP - để biểu thị những mô hình tổ chức phi chính thức này.

    Hai trong số những khẩu hiệu lâu dài dưới thời Hồ Cẩm Đào (2002-2012) là “đặt con người lên trên hết” và “kiến tạo một xã hội hài hòa”. Cả hai dụ ngôn này dường như hàm ý rằng chính quyền của Hồ hướng tới việc thể hiện sự khoan dung hơn đối với xã hội dân sự non trẻ. Tuy nhiên, là một chính trị gia bảo thủ bẩm sinh, Hồ hầu như không ủng hộ các tổ chức xã hội không do Đảng kiểm soát. Trên thực tế, ông đã chia sẻ sự hoang tưởng của Tổng thống Nga Vladimir Putin rằng các nhóm xã hội dân sự ở Ukraine, Georgia và Kyrgyzstan - những quốc gia được cho là đã được bảo đảm về tài chính và các loại hỗ trợ khác từ Mỹ - đứng sau “cuộc cách mạng màu” ở các nước này. Không lâu sau khi thay đổi chế độ ở Kyrgyzstan vào năm 2005, Hồ đã ban hành các chỉ thị nội bộ nhằm chống lại sự phát triển nhanh chóng của các TCPCP ở Trung Quốc.

    Hồ đã áp dụng một cách tiếp cận chủ yếu theo hai hướng đối với ‘các tổ chức của nhân dân’ và các tổ chức xã hội. Những tổ chức bất chấp sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ - và được coi là có khả năng gây mất ổn định - nên được các sở cảnh sát kiểm soát chặt chẽ, nếu không muốn nói là phải thủ tiêu hoàn toàn. Tuy nhiên, Hồ cũng nhận ra rằng các đơn vị phi chính trị, đặc biệt là các tổ chức xã hội (Shehui zuzhi) cung cấp các dịch vụ “phúc lợi công cộng”, cần được khuyến khích, đặc biệt nếu họ chấp nhận sự giám sát của chính phủ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, những ‘shehui zuzhi’ này giống với các nhà cung cấp dịch vụ từ thiện và xã hội do tư nhân điều hành và cấp vốn, được chính phủ phê duyệt hơn là các TCPCP “kiểu phương Tây” hướng tới việc thúc đẩy công bằng xã hội.

    Trong một bài phát biểu về “quản lý xã hội và đổi mới quản lý xã hội” trước các cán bộ cấp cao vào tháng Ba năm 2011, ông Hồ lưu ý rằng đảng và chính phủ nên “cung cấp hướng dẫn cho các tổ chức xã hội khác nhau để tăng cường khả năng tự xây dựng và tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ của họ”. Vị lãnh tụ thuộc ‘thế hệ thứ tư’ này cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải “thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và có trật tự của các tổ chức xã hội”. Tuy nhiên, rõ ràng là Hồ và các đồng sự của ông không có ý định khuyến khích các TCPCP trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về quyền công dân. Một báo cáo tháng Sáu năm 2004 trên tờ báo ‘Wen Wei Po’ do Trung Quốc kiểm soát ở Hồng Kông dẫn lời các nghiên cứu viên trong các tổ chức nghiên cứu tại Bắc Kinh nói rằng ĐCSTQ nên tăng cường nỗ lực trong việc “hướng dẫn và dẫn dắt” các ‘tổ chức của nhân dân’. Thậm chí, có ý kiến cho rằng các chi bộ đảng cần được thành lập trong các hiệp hội không chính thức như vậy.

    Mặc dù vậy, quan điểm của Hồ, các cán bộ và nghiên cứu viên theo chủ nghĩa tự do trong Đảng Đoàn Thanh niên Cộng sản của Hồ đã thể hiện sự khoan dung đáng kể đối với các TCPCP. Một trong số họ là “vị nguyên soái trẻ tuổi” Uông Dương, người từng là ủy viên Bộ Chính trị kiêm bí thư thành ủy Quảng Đông từ năm 2007 đến năm 2012. Theo lời kêu gọi tập hợp “cải thiện quản lý xã hội”, Uông cho rằng nên trao nhiều quyền hạn và quyền hạn hơn cho các ‘tổ chức của nhân dân’. “Chúng ta nên tăng cường [mức độ] chuyển giao các chức năng của chính phủ [cho xã hội]”, Uông nói trong một cuộc họp của các quan chức Quảng Đông vào năm 2011. “Chúng ta không nên keo kiệt trong việc ‘giao quyền’ cho các tổ chức xã hội, và cho phép các tổ chức xã hội để ‘tiếp quản cây dùi cui’ [từ chính phủ]”. Wang cho biết chính quyền Quảng Đông nên dần dần cung cấp thêm công việc cho các ‘tổ chức của nhân dân’, “nếu các tổ chức xã hội có trách nhiệm tiếp quản công việc [do các đơn vị chính thức giao cho họ] và nếu họ có thể quản lý tốt”. Quảng Đông cũng tự do hóa thủ tục đăng ký cho các TCPCP: họ không cần phải là công ty con của một cơ quan được bộ máy nhà nước đảng công nhận. Thật không may, quan điểm cởi mở của Uông về các tổ chức xã hội không do ĐCSTQ trực tiếp kiểm soát đã không được quá nhiều bí thư, thống đốc hoặc thị trưởng đảng khu vực khác chia sẻ. Người kế nhiệm của ông trong giai đoạn 2012-2017, Hồ Xuân Hoa, đã siết một số biện pháp tự do hóa đáng kể do Uông đưa ra, bao gồm cả việc đối xử khoan dung với các TCPCP. Ví dụ, một số TCPCP định hướng lao động đã bị giải tán - và những người mang văn phòng của họ bị bắt - vào cuối năm 2015 và đầu năm 2016.

    3.2.2. Sự hỗ trợ của các học giả nổi tiếng dành cho các TCPCP kiểu phương Tây

    Thật vậy, bầu không khí để mở rộng không gian công không thể được mô tả là tiêu cực trong suốt thập niên 2000. Các học giả nổi tiếng và các nhà hoạch định xã hội gần gũi với bộ máy Đảng-Nhà nước đã đưa ra những đánh giá tương đối tích cực về các TCPCP và xã hội dân sự. Điều này bất chấp thực tế là định nghĩa của nhiều học giả về các TCPCP đã giả định ít nhất một mức độ kiểm soát của Đảng-Nhà nước, nếu không muốn nói là tán thành những cách thức như vậy.

    Mặc dù có địa vị chính thức, nhưng Giám đốc Viện Chiến lược Quốc tế tại Trường Đảng Trung ương Chu Thiên Dũng là một người ủng hộ nhiệt thành của xã hội dân sự, mà ông gọi là các ‘tổ chức của người dân’ (minjian). “Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các tổ chức ‘của người dân’ cùng với một chính phủ hiện đại và hệ thống kinh tế thị trường, tạo nên cấu trúc cơ bản của quản trị hiện đại”, ông viết trên tờ ‘Nhân dân Nhật báo’ năm 2008. Chu cho rằng chức năng của các ‘tổ chức của người dân’ như vậy là phải “đóng vai trò là cầu nối giữa đảng, chính phủ và xã hội” bên cạnh việc “thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh và tự quản của xã hội và cắt giảm chi phí hành chính để vận hành một xã hội”. Mặc dù Chu nhấn mạnh yêu cầu của các tổ chức ‘của người dân’ tuân theo sự lãnh đạo của Đảng và sự phối hợp của chính phủ, đồng thời ông cũng lưu ý rằng các đơn vị này “phục vụ để bảo vệ quyền của công dân được thành lập hội và thúc đẩy sự tham gia của công dân vào các vấn đề công cộng”.

    Nhiều nhà quan sát coi năm 2008 - năm xảy ra trận động đất kinh hoàng ở tỉnh Tứ Xuyên - là Năm ra đời của TCPCP. Như Từ Vĩnh Quang, một người tiên phong trong việc thành lập các nhóm từ thiện và các nhóm ‘lợi ích công cộng’ (Gongyi) ở Trung Quốc, đã nói, thảm họa thiên nhiên đã dẫn đến sự nở rộ quy mô lớn của ‘ý thức công dân’ (chiêngmin yishi) hay “ý thức cộng đồng theo pháp quyền hiện đại” giữa những công dân bình thường. Ông nói, một mặt, “ý thức công dân thể hiện tinh thần trách nhiệm của mọi người đối với đất nước và xã hội”. Đồng thời, ‘ý thức công dân’ đã kết hợp những lý tưởng như “dân chủ và pháp quyền, tự do và bình đẳng cũng như công bằng và lẽ phải”. “Trong trận động đất”, Từ kết luận, “quyền của công dân được biết, tham gia [xã hội] và giám sát [chính phủ] đã nhận được sự tôn trọng chưa từng có và tinh thần trách nhiệm của họ với tư cách là công dân được thể hiện rất nhiều”. Các TCPCP và các nhóm đồng minh đã quyên góp được hơn 30 tỷ nhân dân tệ trong quỹ để tái thiết miền Bắc Tứ Xuyên bị tàn phá.

    Trong số “các trí thức ủng hộ xã hội dân sự” hoặc các học giả liên quan đến chính phủ, những người thường phục vụ trong các tổ chức tư vấn không chính thức của các thành viên Bộ Chính trị, Vu Khắc Bình (sinh năm 1959) là người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho xã hội dân sự. Vũ đã định nghĩa các TCPCP là “các tổ chức xã hội và nhân dân không do chính phủ điều hành, hoạt động phi lợi nhuận và thể hiện tinh thần tình nguyện và hướng tới dịch vụ kinh tế và xã hội”. Vu lập luận rằng các TCPCP có thể đóng góp vào việc “cải tạo xã hội”, một thuật ngữ lần đầu tiên được sử dụng trong chế độ của Hồ. “Có những điểm tương đồng và khác biệt giữa đổi mới xã hội và đổi mới chính phủ”, Vu nói vào năm 2010. “Đổi mới xã hội là đổi mới trong lĩnh vực ‘kiến nghị của công dân’ (minjian); đó là sự đổi mới đang được dẫn dắt bởi chính các công dân”. Ông lập luận rằng sự tham gia xã hội của công dân thông qua làm việc trong các TCPCP “không chỉ có thể giảm chi phí hành chính của chính phủ mà còn hiện thực hóa sự phát triển [‘sáng kiến và tự túc’] của công dân bằng cách khuyến khích họ thể hiện ý chí phổ biến và thúc đẩy sự nhiệt tình của họ đối với tham gia [xã hội]”. Vị học giả này gợi ý rằng, song song với sự phát triển và cải tiến của hệ thống quản lý xã hội, chính phủ có thể ‘trao’ một số quyền hành chính của mình cho các tổ chức dân sự, để họ có thể giúp chính phủ gánh vác một phần công việc hành chính và các chức năng quản lý của mình. “Điều này phù hợp với tinh thần dân chủ”, Vu kết luận.

    https://rethinkingourfuture.blogspot.com

    Không có nhận xét nào