Header Ads

  • Breaking News

    Việt Nam, ASEAN và Mỹ – Trung ở Ấn Độ – Thái Bình Dương

    Việt Nam có thể sẽ trở thành một nền kinh tế tự do hóa hơn nữa trong những thập niên tới, nhưng về mặt chính trị sẽ không mấy thay đổi.
    Việt Nam, ASEAN và Mỹ – Trung ở Ấn Độ – Thái Bình Dương

    Làm thế nào để Việt Nam và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) điều khiển áp lực chọn bên trong cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung? Những thách thức chính đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia của Việt Nam khi Việt Nam đang tìm kiếm sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng là gì? Để có góc nhìn về những vấn đề này, Jongsoo Lee đã phỏng vấn Lê Hồng Hiệp, thành viên Chương trình Nghiên cứu Việt Nam và Chương trình Nghiên cứu Chính trị và Chiến lược Khu vực tại Viện ISEAS-Yusof Ishak, Singapore.

    Ông đánh giá như thế nào về triển vọng ASEAN trở nên giống như Liên minh châu Âu hơn trong việc phát triển một chính sách đối ngoại chung? Các quốc gia thành viên ASEAN muốn hội nhập sâu rộng hơn trong những lĩnh vực nào?

    Các nước thành viên ASEAN không mấy mặn mà với việc biến ASEAN thành một cơ quan siêu quốc gia như EU do nỗi ám ảnh về chủ quyền quốc gia của họ. Brexit càng củng cố niềm tin của họ. Do đó, ngay cả khi quá trình hội nhập ASEAN tăng tốc với việc thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, vẫn có những giới hạn đối với việc ASEAN có thể tiến xa trong vấn đề này. Cho đến nay, hội nhập kinh tế vẫn là ưu tiên của họ, trong khi hội nhập chính trị và an ninh, bao gồm cả việc phát triển một chính sách đối ngoại chung, vẫn là một quá trình khó nắm bắt.

    Mục tiêu chung là sử dụng các cơ chế do ASEAN dẫn dắt để duy trì hòa bình và ổn định khu vực, cũng như vai trò Trung tâm của ASEAN. Chúng ta nên thực tế ở đây vì ngay cả những nỗ lực nhằm tạo ra sự đồng thuận trong nội khối ASEAN về một số vấn đề chính trị và an ninh khu vực cũng đã vô ích. Tuy nhiên, đúng là nếu ASEAN thực sự muốn đóng một vai trò lớn hơn và thực chất hơn trong các vấn đề an ninh khu vực, thì việc có một chính sách đối ngoại chung sẽ là điều cần thiết.

    Nhiều quốc gia phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan khi họ bị cuốn vào sự cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và chịu áp lực phải lựa chọn bên nào. Liệu có sự đồng thuận trong ASEAN về việc toàn thể ASEAN nên liên hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc như thế nào không? Hay các quốc gia thành viên ASEAN riêng lẻ theo đuổi lợi ích và chính sách của riêng họ?

    ASEAN và các quốc gia thành viên riêng lẻ sẽ không muốn chọn bên. Nhìn chung, ASEAN và các thành viên cần duy trì lập trường trung lập để có thể hưởng lợi từ mối quan hệ của họ với cả hai cường quốc. Tuy nhiên, nếu sự kình địch Mỹ – Trung ngày càng gay gắt đến mức buộc các nước trong khu vực phải chọn phe, các nước riêng lẻ sẽ phải làm bất cứ điều gì có liên quan để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Tuy nhiên, quan điểm của tôi cho rằng, do cạnh tranh Mỹ – Trung nghiêng về lợi ích chiến lược hơn là ý thức hệ, nên họ sẽ không cố – ít nhất là trong vòng 10 đến 20 năm tới – để buộc các nước trong khu vực phải liên kết với nhau bằng những khối cứng nhắc như trong thời kỳ Chiến tranh .

    Làm thế nào để Việt Nam theo đuổi lợi ích của mình khi bị mắc kẹt trong cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ? Khi Hà Nội theo đuổi quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ, họ có thể làm gì để trấn an Bắc Kinh rằng họ không xích lại quá gần Washington?

    Giống như các nước ASEAN, Việt Nam cũng muốn duy trì sự cân bằng giữa hai cường quốc. Tuy nhiên, trước sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã và đang cố gắng tăng cường quan hệ chiến lược với Mỹ và các cường quốc khác để cân bằng trước sức ép của Trung Quốc. Nhưng Việt Nam đã thận trọng, chỉ làm từ từ và lặng lẽ. Trung Quốc có thể không cảm thấy thoải mái nếu Việt Nam theo đuổi quan hệ an ninh chặt chẽ hơn với Mỹ và các đồng minh, nhưng chính những hành vi gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông đã đẩy Việt Nam vào hành động này. Trung Quốc nên điều chỉnh cách tiếp cận của mình hoặc có nguy cơ đẩy Việt Nam và các nước trong khu vực về phía Hoa Kỳ hơn nữa.

    Để chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, những quốc gia nào ngoài Mỹ có thể giúp ích cho Việt Nam?

    Việt Nam đang đa dạng hóa các quan hệ chiến lược và cố gắng không dựa vào bất kỳ đối tác nào để chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Đến năm 2020, Việt Nam đã thiết lập ba quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, 14 quan hệ đối tác chiến lược và 13 quan hệ đối tác toàn diện với các nước, trong đó nhiều nước có lợi ích lớn ở Biển Đông. Tất cả các mối quan hệ này đều quan trọng đối với chính sách Biển Đông của Việt Nam theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, về mặt xây dựng năng lực hàng hải và đẩy lùi sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, Anh, Pháp và Đức, cùng những đối tác khác, dường như quan trọng đối với Việt Nam hơn.

    Ngoài Biển Đông, đâu là những thách thức chính đối với an ninh quốc gia của Việt Nam? Những nguyên nhân chính của căng thẳng với các nước láng giềng là gì? Làm thế nào những căng thẳng này có thể được giải quyết?

    Tranh chấp Biển Đông hiện là thách thức an ninh quốc gia lớn nhất đối với Việt Nam do Trung Quốc ngày càng tỏ ra trơ tráo hơn trong 10 năm qua. Quản lý biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Campuchia cũng từng là một thách thức lớn đối với Việt Nam, nhưng các đường biên giới này đã được phân định nên không còn là vấn đề lớn nữa. Tuy nhiên, các vấn đề biên giới với Campuchia có thể bùng phát trở lại nếu có những thay đổi chính trị đáng kể ở Campuchia và thái độ chống Việt Nam được một số chính trị gia Campuchia khơi dậy để phục vụ chương trình nghị sự trong nước.

    Trong những năm gần đây, sông Mekong ngày càng trở thành thách thức an ninh đối với Việt Nam, đặc biệt là từ góc độ an ninh phi truyền thống. Trong nước, việc duy trì ổn định chính trị, đặc biệt là ở Tây Bắc và Tây Nguyên, là một thách thức an ninh khác. Tuy nhiên, cho đến nay, chính phủ Việt Nam đã khá thành công trong việc xử lý vấn đề.

    Khi Việt Nam mong muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng, thì sự phát triển liên tục của kinh tế Trung Quốc là lợi ích hay bất lợi cho Việt Nam?

    Sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc vừa là lợi ích vừa là hạn chế đối với Việt Nam. Do cả hai nước đều có hệ thống chính trị tương đồng, nên những cải cách kinh tế của Trung Quốc mang lại những bài học hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Quyết định mở cửa nền kinh tế của Việt Nam vào năm 1986 một phần do ảnh hưởng quyết định tương tự của Trung Quốc 8 năm trước đó. Quan trọng hơn, giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam được hưởng lợi từ quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 133 tỷ USD vào năm 2020. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ bảy tại Việt Nam.

    Với việc Trung Quốc dự kiến sẽ duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong những năm tới, quan hệ thương mại và đầu tư song phương sẽ tiếp tục được tăng cường. Các mối quan hệ kinh tế cùng có lợi như vậy có xu hướng không khuyến khích hai bên thực hiện các hành động có thể làm gián đoạn trao đổi kinh tế của họ. Tuy nhiên, khi Trung Quốc biến quyền lực kinh tế ngày càng tăng thành quyền lực quân sự, nước lớn phương Bắc đặt ra một thách thức an ninh ngày càng đáng gờm đối với Việt Nam. Sự bành trướng quyền lực quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông là một ví dụ chính. Việt Nam không còn cách nào khác là phải sống chung với thực tế này, cố gắng duy trì quan hệ kinh tế song phương trong khi sẽ đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông khi cần thiết.

    Sự cạnh tranh Trung – Mỹ có khiến các công ty nước ngoài chuyển hoạt động từ Trung Quốc sang Việt Nam để đa dạng hóa chuỗi cung ứng không? Sự cạnh tranh này đã mang lại lợi ích gì cho nền kinh tế Việt Nam?

    Nhiều nhà đầu tư đã và đang đa dạng hóa cơ sở sản xuất của họ khỏi Trung Quốc trong một thời gian, và sự cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc chỉ càng đẩy nhanh xu hướng này. Việt Nam được hưởng lợi từ xu hướng này khi nhiều nhà đầu tư đã quyết định chuyển một phần hoạt động sang Việt Nam do các yếu tố nhất định, chẳng hạn như vị trí địa lý gần Việt Nam với Trung Quốc, sự ổn định chính trị, lực lượng lao động tương đối trẻ và rẻ, cơ sở hạ tầng đang được cải thiện, cũng như nền tảng kinh tế khá vững chắc của Việt Nam và các ưu đãi đầu tư mà chính phủ Việt Nam đưa ra.

    Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các nước khác về các nhà đầu tư như vậy, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao. Thách thức đặt ra là Việt Nam phải nhanh chóng nâng cấp cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đồng thời giải quyết một số hậu quả không mong muốn, chẳng hạn như Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào đầu tư và xuất khẩu nước ngoài, và thặng dư thương mại với Mỹ do mở rộng cơ sở sản xuất và năng lực xuất khẩu.

    Làm thế nào để Hoa Kỳ, EU và các nước khác như Nhật Bản và Hàn Quốc có thể tăng cường quan hệ kinh tế với Việt Nam theo những cách có thể thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam và đa dạng hóa các nguồn vốn, công nghệ và bí quyết?

    Việt Nam là một trong những nền kinh tế cởi mở nhất ở châu Á về tỷ lệ thương mại và GDP (khoảng 200%), chỉ sau Hồng Kông và Singapore. Một phần là do Việt Nam từ lâu đã nhấn mạnh chiến lược đa dạng hóa các đối tác kinh tế. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) và các hiệp định đầu tư khác nhau với Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Gần đây nhất là Hiệp định FTA Việt Nam – Vương quốc Anh được ký kết vào ngày 29/12/2020.

    Những mối quan hệ thương mại và đầu tư quan trọng này đã giúp Việt Nam duy trì một nền kinh tế khá mạnh mẽ và giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Mặc dù sự cởi mở có thể khiến Việt Nam gặp một số lỗ hổng nhất định, nhưng cho đến nay chiến lược này đã phát huy tác dụng tốt. Ví dụ, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9% vào năm 2020 bất chấp đại dịch COVID-19 một phần nhờ vào kết quả hoạt động xuất khẩu được cải thiện và dòng vốn đầu tư bền vững được tạo thuận lợi từ các hiệp định như vậy.

    Việt Nam gần đây đã trải qua quá trình chuyển đổi lãnh đạo. Ông đánh giá như thế nào về triển vọng Việt Nam thực hiện các cải cách chính trị và kinh tế xã hội cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển?

    Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Điều này có nghĩa là 10 năm tới rất quan trọng đối với Việt Nam. Vẫn còn phải xem ban lãnh đạo mới sẽ thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước hiệu quả ra sao, nhưng ít nhất việc đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng như vậy có nghĩa là họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục theo đuổi các cải cách kinh tế hơn nữa để đưa các kế hoạch của họ thành hiện thực.

    Về mặt chính trị, cũng có thể tìm hiểu một số cải cách nhất định, nhưng chủ yếu là để sắp xếp hợp lý và tăng hiệu quả chứ không phải dân chủ hóa hệ thống chính trị. Các nhà lãnh đạo Việt Nam cho rằng ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, và họ sẽ không khoan nhượng với bất kỳ diễn biến nào có thể gây mất ổn định hệ thống chính trị. Niềm tin của họ càng được củng cố bởi những diễn biến gần đây trong khu vực, chẳng hạn như cuộc đảo chính ở Myanmar vào tháng trước.

    Như vậy, Việt Nam có thể sẽ trở thành một nền kinh tế tự do hóa hơn nữa trong những thập kỷ tới, nhưng về mặt chính trị sẽ ít nhiều giữ nguyên, với điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam có thể xử lý được những căng thẳng tiềm tàng phát sinh từ sự bất đồng bộ giữa kinh tế và các quá trình tự do hóa chính trị.


    https://thediplomat.

    Không có nhận xét nào