Header Ads

  • Breaking News

    Nguyễn Vy Khanh - Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975 (Phần II). Hết


    Phần 2 – Một thời tưởng tiếc

    Từ biến cố 30-4-1975 đến nay, miền Nam Cộng-hòa đã bị bức tử 40 năm! Giới lãnh đạo cộng-sản trong nước thay đổi diễn văn nhiều lần và cả nhìn nhận một số sai lầm trong số có sai trái về "biệt kích văn-nghệ", đàn áp văn nghệ sĩ và trí thức của miền Nam, nhưng căn bản chế độ toàn trị và đảng trị vẫn vậy! Chúng tôi thử ghi lại những thăng trầm về văn-hóa văn-học tự do đã xảy ra trong bốn thập niên và từ đó thử nhìn về tương lai!

    Một chiến dịch lên án và triệt hạ văn nghệ sĩ và trí thức miền Nam Cộng-hòa đã bắt đầu ngay từ đầu tháng 5-1975. Việt Nam Cộng Hòa bị xóa trong lịch sử kẻ thắng đã đành, văn học của kẻ chiến bại miền Nam Cộng Hòa cũng bị xóa bỏ bằng những nghị định và chiến dịch. Ngày 1 tháng 5, Ủy ban Quân quản ra chỉ thị cấm lưu hành và tàng trữ tất cả sách báo xuất-bản trước ngày "giải phóng", và đã cho những toán cán bộ ô hợp (VC, nằm vùng, "ông 30/4") đến từng nhà lục soát, tịch thu sách báo và nghệ-thuật phẩm. Ngày 30-6 đài phát thanh cộng-sản cho biết "chỉ nội trong 1 quận đô thành Sài-Gòn chưa đầy 1 tuần, mà dân chúng đã nộp (và bị tịch thu) 482.460 ấn bản sách và 3.000 ký báo-chí xuất-bản thời ngụy", đồng thời cho biết ở Nha Trang một hiệu sách đã "nộp 35.530 cuốn sách phản động", còn ở tỉnh lỵ Bạc Liêu dân chúng đã "nộp cho chính phủ cách-mạng hơn 3.000 tập sách cải lương, tân nhạc và hàng trăm cassette và dĩa hát nội-dung phản động và độc hại cho tuổi trẻ". Những thứ mà sau này sẽ được dân chúng từ Nam chí Bắc ưu chuộng công khai và trở thành … thời thượng … trễ, mà trước đó cũng đã xâm nhập ngay hàng ngũ cán bộ và bộ đội cộng-sản.

    17 và 18 tháng 6, hơn một tháng sau, đã diễn ra ở thủ đô miền Nam một ‘Hội nghị lần thứ nhất các nhà văn giải phóng’ cố xác định ai là nhà văn giải phóng và ai đứng ngoài và còn là kẻ thù. Hội Văn nghệ Thành phố HCM được tổ chức, cầm đầu bởi 4 Vũ Hạnh, Thái Bạch, Thế Nguyên và Nguyễn Ngọc Lương. Đồng thời, Ủy ban Quân quản giao cho một Ban thanh lọc văn nghệ phẩm do Trần Bạch Đằng và Lữ Phương thứ trưởng văn hóa cầm đầu với các trưởng tổ Vũ Hạnh, Huỳnh Văn Tòng, Châu Anh (về phía nhân viên có Minh Quân, Tường Linh, Thu Mai, Nguyễn Sỹ Nguyên, Giang Tân, Hồ Trường An, v.v.). Họ đã xếp toàn bộ văn nghệ phẩm vào 6 loại. Lữ Phương đã trình bày hệ thống xếp loại này trên tờ nhật báo Sài-Gòn Giải Phóng 2 ngày 21 và 22-1-1976. A và B bị cấm vì hại nhất cho cộng-sản, C (trong số có nhạc vàng), D, E thì phải thanh lọc, còn F là … của ”cách-mạng”(nằm vùng). Mãi đến ngày 26-10-1975, ban này mới xong đợt đầu, thanh lọc 56 tác-giả và 489 tựa sách đã góp phần vào công tác chiến-tranh tâm lý chống Cộng.

    Đến ngày 20-8-1975, khi Lưu Hữu Phước, bộ trưởng Thông tin văn hóa của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam, công bố Thông tri 218/CT.75 cấm lưu hành sách báo xuất bản tại miền Nam, đồng thời công bố danh sách các Cơ sở xuất-bản, Các nhà xuất-bản sách thiếu nhi, Các tác-giả, dịch giả bị cấm toàn bộ các sách đã xuất-bản và của Các tác-giả có sách bị cấm toàn bộ – một danh sách 130 trong đó khoảng 120 tác giả miền Nam với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành (10 tác-giả kia là Âu Mỹ Hoa có bản Việt dịch). Sau đó là tù đày, cải tạo, và khi nghi bóng nghi gió lại tiếp tục càn quyét thu vén sách Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả đều nằm trong sách lược của Đảng như nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) ghi rõ nhiệm vụ phải "quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ gieo rắc ở miền Nam’ (15). Xóa bỏ tác giả và tác phẩm bị gán nhãn/chụp mũ là ‘tàn dư văn-hóa nô dịch’, ‘phản cách-mạng’,… Rồi đến những trình diện và những lớp học tập. Ngày 10 và 11-6-1975, Ủy Ban Quân quản Thành phố Sài-Gòn Gia Định ra thông báo kêu gọi quân nhân, công chức chế độ cũ trình diện, bị tập trung "học tập cải tạo" hứa hẹn 3 tháng, trong số có nhiều văn-nghệ sĩ của miền Nam. Văn-nghệ sĩ của miền Nam tiếp tục được chiếu cố tận tình nhiều năm sau đó.

    Ngày 8-3-1976 thêm Thông tri số 15/TTVH/MCTH của Bộ Thông tin Văn-hóa cập nhật danh mục sách cấm lưu hành. Tiếp đến là những vụ lùng bắt văn-nghệ sĩ miền Nam vào cuối tháng 3 này [mà nhà văn nhà báo Thanh Thương Hoàng gọi là chiến dịch X3, sau X1 ‘chiến dịch bắt học tập cải tạo’, X2 ‘đánh tư sản mại bản’ (16)], từng đoàn từng đoàn ‘công an văn-hóa’ hợp cùng ‘công an khu vực’ hành … quân càn quét tịch thu hết sách báo xuất bản dưới thời chế độ cũ, để đốt, "tẩy". Đây thuộc về là đợt hai kéo dài của chiến dịch thanh toán "bọn văn nghệ sĩ phản động" và cũng để chuẩn bị bầu cử Quốc hội ‘thống nhất’ 2 miền ngày 25-4 sau đó, chiến dịch khởi động sáng 3-4-1976, một ngày sau vụ nổ Hồ Con Rùa ở bùng-binh đường Duy Tân và Trần Quý Cáp: khởi đầu "vụ án Hồ Con Rùa" (về sau được cộng-sản quay thành phim và lên sách), công an lùng bắt khoảng 200 người hầu hết là văn nghệ sĩ và trí thức mà từ nay họ gọi là "những tên biệt kích cầm bút", ngày đầu tiên người bị bắt là Nguyễn Mạnh Côn, hôm sau là những Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Hoàng Hải Thủy, Dương Nghiễm Mậu. "Những tên biệt kích cầm bút". Người cầm đầu thi hành Vụ án Hồ Con Rùa là Huỳnh Bá Thành (1942-1993) bí danh Ba Trung tức họa sĩ Ớt (nhật báo Điện Tín) nằm vùng trước đó ở Sài-Gòn, sau này năm 1981-82 y viết lại ”Vụ án Hồ Con Rùa” đăng từng kỳ trên tờ Tuổi Trẻ và xuất-bản thành sách năm 1983. Tội danh gán cho họ khi là ”gián điệp” khi là ”tuyên truyền phản cách-mạng”. Chiến dịch khủng bố này bắt bớ giam cầm các nhà văn như Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Sĩ Tế, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Hồ Hữu Tường, Hồ Nam, Lê Xuyên, Nguyễn Hữu Hiệu, Mặc Thu, Thái Thủy, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, các họa sĩ Đằng Giao, Choé Nguyễn Hải Chí, các nhà báo Minh Vồ tờ Con Ong, Hồ Văn Đồng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh,… các nghệ sĩ, đạo diễn Minh Đăng Khánh, Hoàng Vĩnh Lộc, v.v.

    Sau khi đã lùng bắt khoảng 30 văn-nghệ sĩ miền Nam, một “Khóa bồi dưỡng chính trị cho Văn nghệ sĩ miền Nam” được Thành ủy và Hội văn-nghệ sĩ giải phóng thành phố HCM tổ chức đợt 1 vào mùa Hè năm 1976, khởi ngày 13-6 và kéo dài cả tháng, đợt 2 vào tháng Bảy; mục-đích học tập chính-trị cho các văn-nghệ sĩ có ‘tội’ không ủng hộ ‘cách-mạng’, ‘không đích thực’ như những tay văn-nghệ thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam; nhưng thực ra cốt kiểm soát cùng bài bản với những tập trung ‘học tập, cải tạo’ đối với các sĩ quan quân đội và công chức Việt-Nam Cộng Hòa, và quảng cáo, tuyên truyền đã cho các văn-nghệ sĩ miền Nam cơ hội – mà có người cứ tưởng sau đó sẽ được hành nghề trở lại. Phần đầu là những huấn hổ, phô trương công trạng đối với cách-mạng của 1 số đã theo cộng-sản Hà-Nội, phần sau là các văn-nghệ sĩ của miền Nam phải làm tự phê tự kiểm, và nhiều người bị đưa ra Tổ để bị mổ xẻ, bên Tổ Văn và Thơ do Vũ Hạnh phụ trách, có Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến, Phạm Thiên Thư, Lệ Hằng, Tường Linh, An Khê, …. Khi Nguyễn Thị Hoàng bị phê phán, Mai Quốc Liên đã tuyên bố “bởi vì miền Nam các anh, các chị làm gì có văn hóa” [hơn 37 năm sau, ông MQL chối đã nói câu như thế mà nay ông cho đó là ”1 câu ngu ngốc mà không ai dại gì nói” (17)].

    Đến lượt Sở Thông tin Văn hóa Thành phố HCM ra Thông tri số 12030/STTVH/XB ngày 3-5-1977. Rồi ngày 14-17 tháng 1 năm 1978, Bộ Văn-hóa và Thông tin lại tổ chức tại Sài-Gòn một hội nghị toàn quốc với danh xưng ”Hội nghị đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn-hóa thực dân mới” với những huấn thị, báo cáo của đảng viên cao cấp từ Hà-Nội vào, xem như là một công tác cấp thiết và thường trực. Đồng thời để quảng cáo món ”văn-hóa ưu việt xã-hội chủ nghĩa”, ”văn-học cách-mạng ở miền Nam” (nhắm căm thù, lũng đoạn,…) cùng chủ trương viết lách của xã-hội cộng-sản miền Bắc. ”Con người mới”, ”con người cách-mạng”, ”con người xã-hội mới”,… không chấp nhận văn-học miền Nam bị gọi là ”văn-học đô thị” của ”vùng tạm chiếm” (21 năm!). Do đó phải đàn áp, phải dùng đến võ lực công an, …

    Ngày 7-3-1978, nhật báo Tin Sáng cho đăng Nghị quyết của Ủy Ban Nhân dân Thành phố HCM muốn tiến hành từ ngày này cho đến cuối năm 1978 một đợt tấn công và thanh toán dẹp hết những ‘dấu vết của văn-hóa tân thực dân’, kêu gọi học sinh, sinh viên tập họp kiểm thảo và phê phán một cách triệt để những ‘nọc độc’ của thứ văn-hóa suy đồi và phản cách-mạng này và kêu gọi các thành phần trẻ lập ra những đoàn công tác văn-hóa cho mục-đích ‘truy quét văn hóa đồi trụy phản động’.

    Nhà Nước ra hẳn một cuốn danh mục sách và tác già cấm lưu hành. Những gì không xuất phát từ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản đều phải xóa bỏ, phủ định, vì "mảng" văn học này bị kết án là "đồi trụy hóa con người", "phục vụ xã hội tiêu thụ miền Nam" tức một thứ "văn học phục vụ chính trị phản động", phản cách mạng – những cái nhãn hiệu có thể làm tiêu mạng con người! Từ 1975 đến 1997 có gần 20 cuốn sách chửi bới phê phán văn nghệ Việt Nam Cộng Hòa: văn học tay sai nhưng đáng sợ như những trái bom! Vào tháng 3-1981, nhà cầm quyền Hà-Nội ra hẳn một cuốn danh mục mới gồm 122 tác giả với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành. Trong chiến dịch lên án và triệt hạ này, theo thống kê chính thức năm 1981, trong chiến dịch đợt 3 vào tháng 6 năm 1981 chính quyền cộng-sản đã tịch thu trên toàn quốc 3 triệu đơn vị ấn phẩm trong đó 316,314 sách báo bị cấm; riêng ở Sài-gòn 60 tấn sách (151,200 cuốn), 41,723 cuộn băng nhạc, 53,751 bức tranh, 631 cuộn phim. v.v. Đồng thời khám phá ra 205 nhà in bí mật (-Theo Trần Thọ, Tạp-chí Cộng-Sản 10-1981).

    Sự kiện lịch sử đã xảy ra, đó là sau khi "chiến thắng", các cán bộ và cả guồng máy liền gấp rút tấn công và thủ tiêu những thành tích văn-hóa văn-học ở miền Nam trước khi họ đến. Những khóa "bồi dưỡng chính-trị và văn nghệ" liên tiếp được mở ra ở Sài-gòn, nơi có nhiều "phản động" nhất! Sau đó tiếp tục tấn công về lý luận với những "công trình tập thể" như cuốn Văn hóa, Văn nghệ Miền Nam dưới Chế độ Mỹ-Ngụy, tập 1 do Trà Linh, Trần Hữu Tá, v.v. soạn (Hà-Nội: Văn Hóa, 1977); hai năm sau ra tập 2, do Trần Độ chủ biên (Hà-Nội: Văn Hóa, 1979). Trong cuốn này, cán bộ cộng-sản tỏ ra sợ chính sách văn-hóa thời đệ nhất cộng-hòa, thời sau đó họ coi nhẹ hơn vì lãnh đạo bất lực và giới văn-nghệ phân hóa. Những nhân danh dân-tộc, nhân dân của các cây viết của miền Nam bị họ gọi là "văn-hóa mạo hóa". Các tác-phẩm văn-học có tính hiện thực xã-hội, nhất là vào những năm cuối trước 1975, thì bị họ kết án là "độc dược" vì vừa "đồi trụy" vừa "chống cách-mạng một cách có ý thức" (tr. 313) của những Nguyễn Thụy Long, Hà Huyền Chi, Văn Quang, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Doãn Quốc Sỹ, Duyên Anh,… Những tác-giả khác bị mũi tên nặng có thể kể: Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Linh, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu, Lê Hữu Mục, Thanh Tâm Tuyền, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Nguyễn Đình Toàn, Nhã Ca,… Xuân Vũ, Kim Nhật và những cây viết "chiêu hồi" dĩ nhiên bị họ chĩa mũi dùi nặng hơn!

    Sau đó, Viện Văn-học (Phong Lê, Hoàng Trung Thông, …) ra cuốn Văn-học Việt Nam Chống Mỹ, Cứu Nước (Hà-Nội: Khoa Học Xã Hội, 1979), trong đó đã gọi Mỹ là "tên sen đầm quốc tế", là "tên đầu sỏ chủ nghĩa thực dân mới"! Riêng Phạm Văn Sĩ trong Văn học Giải phóng Miền Nam 1954-1970 (Hà-nội: ĐH&THCN, 1975) để lại nhận xét … bất hủ (thời đỏ) : "văn-chương chống Cộng là thứ văn-chương xảo trá đê hèn nhất của Mỹ-ngụy ở miền Nam" (tr. 377) cùng lúc lại đề cao những ấn phẩm tuyên truyền như Những Lá Thư Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc đầy cường điệu và cương bịa (lính Biệt kích của miền Nam ăn thịt người) của những văn công gốc Bắc đưa vào. Ngoài ra còn có Phong Hiền với Chủ nghĩa Thực dân mới Kiểu Mỹ ở Miền Nam Việt Nam : Khía cạnh tư tưởng và văn hóa 1954 – 1975 (Hà-nội. : Thông tin lý luận, 1975, tb 1984); và viện Khoa học giáo dục in Tìm hiểu chính sách giáo dục thực dân mới Mỹ ở Miền Nam Việt Nam và những tác hại của nó (Tp.HCM : Tp. Hồ Chí Minh, 1980), v.v.

    Nói chung là nhiều ý và lập luận trùng điệp, nhưng nhát đòn nặng ký vẫn là cuốn của Lữ Phương, Cuộc Xâm Lăng Về Văn Hoá Và Tư Tưởng Của Đế Quốc Mĩ Tại Miền Nam Việt Nam (Hà-Nội: Văn Hoá, 1981, tái-bản 1985). Lữ Phương lúc đó là thứ trưởng thông tin văn-hóa chính quyền quân quản tháng 5-1975 và là người có liên hệ đến nghị định 20-8-75 nói trên. Miền Nam Cộng-hòa theo chủ nghĩa dân chủ vừa pháp trị vừa nhân đạo, đo đó đã bị bá đạo cài khá nhiều người nằm vùng, hoạt động cho kẻ thù, Lữ Phương là một. Ông ta đựa trên một thứ đạo đức (giả hiệu) và dân-tộc (tức tổ quốc thành đồng) để lý luận, phê bình chống văn-nghệ miền Nam. Tập sách của ông ta do đó khá chi tiết và có cơ sở lý luận cộng-sản. Ông ta đã chứng minh "thực dân mới Mĩ" và các chính quyền miền Nam dùng "chiến-tranh và bạo lực văn-hóa tư tưởng" để "xâm lược" và "bành trướng" cùng "chiến-tranh tâm lý là đòn bẫy của mọi hoạt-động văn-hóa – tư tưởng" (tr. 31, 37), trong đó các viện đại học cũng như nhóm văn-hóa văn-nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn Hữu Á-Châu, Quan Điểm,… được đưa lên bàn mổ. Ông gọi tập thể các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là "đội quân văn-hóa phản động", là ‘tay sai của đế quốc Mỹ’, trong đó có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Lý Đại Nguyên, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, LM Hoàng Sỹ Quý, v.v. Văn-hóa dân-tộc chủ trì bởi những Kim Định, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Sĩ Tế,… là những nhà lý thuyết theo ông là "bản địa" và lạc hậu, thần bí,… không … khoa học như … Mác-Lê cộng-sản. Ông còn có âm mưu và triệt để hơn khi bàn đến các khuynh-hướng triết lý văn-học hiện sinh, cấu trúc trong chương về lối sống Mỹ hoặc văn-chương đồi trụy, tình dục,…

    Trong đợt đầu của chiến dịch bôi xóa văn-học miền Nam, cuốn được nói đến nhiều trở thành huyền thoại, là Những Tên Biệt Kích Của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn-Hóa Tư Tưởng do nhà xuất-bản Văn-hóa in năm 1980 và tái bản nhiều lần. Tập này (chỉ ra Tập 1, chưa thấy Tập 2) gồm 11 chương, nêu đích danh 11 nhà văn miền Nam để xóa bỏ sự nghiệp văn-hóa và văn-học của họ, những người theo họ là nguy hiểm nhất vì ảnh-hưởng "di hại" lâu dài. 11 "biệt kích" đó là Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Võ Phiến, Hồ Hữu Tường và Nhã Ca. Bốn trong số đã thoát ra ngoài nước hoặc đã ở ngoài từ trước (NH), sáu còn lại bị bắt và cầm tù hai năm rồi có người bị bắt lại và tù lâu hơn hoặc chết trong nhà tù (NMC) hoặc vừa ra khỏi tù (HHT). Các vị bị gán đủ hình dung từ như "biệt kích, nguy hiểm, du đãng, bồi bút, v.v."!

    Để khích động thêm, năm 1982 tờ Tuổi Trẻ Sài-gòn ra thêm cuốn Vụ Án Hồ Con Rùa mà người viết nó, Huỳnh Bá Thành, nằm vùng trước 1975, thêm thắt dựng chuyện tố cáo các nhà văn giật mìn sát hại dân và âm mưu lật đổ cộng sản. Và để kết thúc đợt đầu, là tập Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (Công an nhân dân, 1986; TpHCM: Văn Nghệ TpHCM, 1994, bản in sau tự kiểm duyệt những quá lố, bịa đặt), mang hình thức truyện vì tên các nhân-vật đã cắt ngắn hoặc đổi, do công an Minh Kiên và Nam Thi viết. 8 nhà văn, nhà báo bị gán tội "gián điệp" – tất cả bị bắt tháng 5-1984 và vụ xử cuối cùng xảy ra năm 1986 : Hoàng Hải Thủy, Doãn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn, Nguyễn Hoạt, Trần Ngọc Tự và ca sĩ Khuất Duy Trác. Thành thử "biệt kích" cũng có hai loại: biệt kích cầm bút "gián điệp" và biệt kích văn-hóa tư tưởng; nhà văn Doãn Quốc Sỹ là vị được cộng-sản sợ nhất nên ông được … chăm sóc kỹ cho đến ngày ra đi đoàn tụ gia-đình nhờ áp lực quốc tế! Trong hoàn cảnh căng thẳng thường trực của đời sống thời toàn trị đỏ (cấm đoán viết, di chuyển, liên lạc,…), Doãn Quốc Sỹ gửi Đi! in ở ngoài (Lá Bối, 1982), ký bút hiệu mới Hồ Khanh, với ghi chú "sáng tác quốc nội", cũng như Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Hải Thủy và một số nhà văn nhà thơ khác.

    Đợt đầu có tính cách tàn bạo, vừa chính-trị vừa hình sự, vừa văn-hóa, tâm lý vừa kinh tế, xã-hội, với mục-đích hoàn toàn quật ngã hình hài và thân thế người văn-nghệ sĩ sống ở miền Nam Cộng hòa. Sang đợt hai, lý trí được dùng đến dù tính toàn trị, cả vú lấp miệng em vẫn thịnh trị!

    Đợt hai, giới phê bình nhập cuộc như Lê Đình Kỵ với Nhìn lại Tư-tưởng Văn nghệ thời Mỹ ngụy (TpHCM: NXB TpHCM, 1987), nhưng người ta nói nhiều đến Trần Trọng Đăng Đàn vì bộ sách 2 tập của ông, thật ra là một "luận án khoa học Matxcơva" "tiến sĩ 1 khoa học Ngữ văn" (1987), sau được thêm bớt và tái bản nhiều lần và luận án có là nhờ khởi mớm trước với tập Nọc độc Văn học Thực dân mới Mỹ (Tp.HCM : Tp.HCM, 1983). Bộ sách đó có tựa Văn-học Thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975 (Hà-nội : Sự Thật, t. 1-1988; t. 2-1991). Tái bản thêm trang đổi tựa là Văn-hóa Văn nghệ phục vụ Chủ-nghĩa Thực dân mới Mỹ tại Nam Viêt-Nam 1954-1975 (TpHCM; Long An: Thông tin, 1990). Hai lần tái bản gần đây sửa chửa thêm và đổi tựa thành Văn-hóa Văn nghệ Nam Viêt Nam, 1954-1975. (Hà-nội: Thông tin, 1993; HN: NXB Văn-hóa Thông tin, 2000).

    Ông Trần Trọng Đăng Đàn dùng phương-pháp nghiên cứu lô-gích và bác phương-pháp lịch-sử để nghiên cứu giai đoạn 1954-1975 văn-học miền Nam này, vì nếu dùng phương-pháp lịch-sử sẽ phải "bóp méo lịch-sử" và dĩ nhiên chấp nhận nền văn-học đó như là kế tục của nền văn-học Việt Nam truyền thống (1, tr. 12). Ngược lại, ông ta đề cao và coi như chính thống mảng "văn-học tự phát có chỉ huy" của những nằm vùng như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lê Vĩnh Hòa,… thuộc Lực lượng bảo-vệ văn-hóa dân-tộc và các tờ Tin Văn, Nhân Loại, Công Lý, v.v. tức thứ văn tuyên truyền, dụng-văn cho chính-trị. Với phương-pháp lô-gích, ông phân biệt ba loại văn-học ở miền Nam trong đó loại "văn-học phản động về chính-trị" được chiếu cố tận tình, một cách hằn học và phản … văn-học! Nhất Linh được TTĐĐ tả là "một tay cầm bút phản động trộn lẫn với hoạt động chính-trị phản động mà tên tuổi đã gắn liền với những đảng phái phản động và võ biền, với những vụ tống tiền man rợ năm 1946 (…) lợi dụng danh nghĩa là một thành viên của chính phủ lâm thời … đi dự hội nghị Đà lạt đã đánh cắp mấy triệu bạc quỹ công để trốn chạy theo quân Quốc dân đảng Tàu" (1, tr. 82). Tấn công và loại bỏ cả những nghiên cứu văn-học của miền Nam về các thời chữ Hán và Nôm và về văn-học cổ-điển thế giới, ông cảnh cáo là "trận đồ bát quái". TTĐĐ tức tối khi đề nghị trao đổi văn-hóa của Hà-nội đầu năm 1960 bị các nhà văn, giáo sư của miền Nam chống và hạ giá "văn-hóa" của chế độ cộng-sản miền Bắc, cũng như cố cãi là miền Nam đã "phóng đại" vụ "Nhân Văn giai phẩm"!

    Trần Trọng Đăng Đàn kết thúc với việc đề cao những khóa "bồi dưỡng chính-trị và văn nghệ" như là "ân huệ của cách mạng", vì cho rằng văn nghệ miền Nam thời này "có tính chất phản động, tồi bại của văn nghệ dưới chế độ thực dân mới – một thứ văn nghệ phục vụ cho chiến-tranh tâm lý, động viên thanh niên đi lính, đánh thuê cho Mỷ, xuyên tạc, bôi nhọ cách mạng, đầu độc nhân dân, đẩy thanh niên vào con đường trụy lạc, du đãng, đĩ điếm, lưu manh, làm băng boại truyền thống tốt đẹp của văn-hóa dân-tộc, chạy theo thị hiếu thấp hèn để mưu việc trục lợi …". Theo ông ta, văn nghệ miền Nam bị ba khủng hoảng: "thiếu cơ sở triết lý xuyên suốt (trước học thuyết Mác-Lê), thiếu lý tưởng chính-trị và thiếu hiện thực xã-hội ổn định theo một mô hình lý tưởng", vì cũng theo ông, văn nghệ sĩ miền Nam "ẩn náu trong mặc cảm tội lỗi, trong chiêu bài tự do giả hiệu, trong ảo tưởng về tinh thần nhân-đạo dưới chiêu bài lên án chiến-tranh, ẩn náu trong ngộ nhận có tham gia phản ánh hiện thực xã-hội, và cuối cùng, ngộ nhận rằng họ có đóng góp, có tìm tòi, sáng tạo về mặt hình thức nghệ thuật cho văn-học nước nhà" (1, tr. 102-112). Với ông, nội dung là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của tác-phẩm văn-học và cả hình thức nghệ thuật, "ta đòi hỏi hai mặt đó đều phải tốt một trăm phần trăm". Dĩ nhiên, ông ta đã dùng cái phương-pháp lô-gích để đi đến kết luận như thế và đồng thời tự hào về thành quả của "nền" văn-học minh họa và bạo động của họ! Tự hào và dạy dổ này, sau 1987 sẽ bị chính người văn nghệ sĩ trong nước quay mặt, chối bó! Vậy mà khi soạn tập 2 vào năm 1990, ông ĐĐ này vẫn cường điệu chống vì sợ "xảo quyệt của bọn cầm đầu văn hóa thực dân mới" hô hào "việc loại trừ những tàn tích ‘văn-hóa’, ‘văn-nghệ’ thực dân mới cũng là điều kiện quan trọng để tiếp sức cho những ai thực tâm vươn tới cái thiện"(2, tr. 119) khi Hội Nhà Văn phải ra thông báo cảnh giác hội viên trước "tình trạng hỗn loạn sách nguy hiểm làm ngã lòng những người cầm bút chân chính". Hội Nhà Văn này cũng là hội được hội viên Nguyễn Huy Thiệp chiếu cố vào đầu năm 2004 qua loạt bài "Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn" trên báo Ngày Nay (Hà Nội).

    Đầu tháng 6-2008, một cuộc tranh luận và lời qua tiếng lại trên diễn đàn Talawas từ khi ông Nguyễn Trọng Văn đưa lên bài viết "Một sĩ nhục cho trí thức". Lữ Phương xông trận và kết thúc nhanh chóng với “Nói thêm một lần để không nói nữa” (8-7-08) tự biện minh cho việc ông điều hành Ban thanh lọc văn nghệ phẩm nằm trong ‘chính sách khủng bố’ văn-hóa miền Nam (Nghị định 20-8-1975) và việc biên soạn cuốn Cuộc Xâm Lăng Về Văn Hoá Và Tư Tưởng Của Đế Quốc Mĩ Tại Miền Nam Việt Nam (1981). Hai ông LP và NTV đều muốn chối bỏ vai trò của họ trong việc xóa bỏ văn nghệ tự do khai phóng của miền Nam trước ngày 30-4-1975 cũng như bắt bớ giam cầm không xét xử các nhà trí thức và văn nghệ miền Nam. Riêng Lê Đình Kỵ, soạn-giả cuốn Nhìn Lại Tư-Tưởng Văn Nghệ Thời Mỹ Ngụy (1987) nói ở trên, đã không nhắc lại công trình này trong danh sách tác-phẩm của ông. Đỗ Đức Hiểu cũng vậy đối với cuốn Phê phán Văn học Hiện sinh Chủ nghĩa (Văn Học, 1978) của ông.

    Ở trong nước, ‘chính sách khủng bố’ văn-hóa miền Nam đó đã thật sự chấm dứt 21 năm sau thời ‘đổi mới’ chưa? Câu trả lời là còn, còn ít hay nhiều thì ‘chính sách khủng bố’ vẫn hiện diện, Ít hay Nhiều vẫn là Có chớ không phải là Không! Sách báo miền Nam đã thật sự được in lại ở trong nước chưa? Câu trả lời vẫn là một phủ-định tổng quát! Ngoài các sách dịch, kinh kệ, sách ‘học làm người’, nghiên cứu lịch-sử xa xưa, các truyện tình vô thưởng vô phạt hay xã hội thời Pháp thuộc,… thì các tác phẩm khác vẫn còn có vấn đề: Vũ Hạnh và một số quan chức to tiếng gần đây khi nhà Phương Nam muốn in lại mấy tập truyện của Dương Nghiễm Mậu và một của Lê Xuyên, v.v. Chưa bàn đến việc văn bản đã bị "biên tập" lại!

    Trong ‘học phần’ hiện nay về "văn-học các đô thị miền Nam (1954-1975)" thuộc khoa Ngữ Văn Đại học Đà-Lạt, ở mục ‘Văn-học thực dân mới’, sinh viên hãy còn được … dạy về hai khuynh hướng chủ yếu là ‘khuynh hướng văn học phản động’ với những tác-giả Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Vũ Khắc Khoan, và ‘khuynh hướng văn học đồi trụy’ với những Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Túy Hồng, ‘văn học vừa phản động vừa đồi trụy’ với Nguyễn Thụy Long, Mai Thảo, Chu Tử! Phần kết của ‘học phần’ nhắc qua về văn-học Việt-Nam hải-ngoại như sau: "thời kỳ đầu lố bịch, trơ trẽn, thời kỳ sau nhớ quê hương, thân phận di tản" (18)!

    Thời gian xảy ra tranh luận trên Talawas, tờ Thanh Niên trong nước số ra ngày 30-5-2008, đăng tin "Tác phẩm trước 1975 ở miền Nam: Không cấm xuất bản, nhưng phải lựa chọn" – thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông qua buổi trả lời trực tuyến với chủ đề “Hoạt động xuất bản, in, phát hành sách Việt Nam góp phần nâng cao dân trí, đổi mới và xây dựng đất nước” được tổ chức hôm 29-5 tại Hà-Nội, khi trả lời câu hỏi về việc tái bản, xuất bản những tác phẩm trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam không do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cho phép, đã cho biết "đối với những tác phẩm thuộc loại này, pháp luật Việt Nam (bao gồm cả Luật Xuất bản) không cấm xuất bản. Tuy nhiên, khi khai thác các tác phẩm này để giới thiệu đến bạn đọc phải lựa chọn những tác phẩm phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Khi công bố các tác phẩm trên phải tuân theo các quy định của Luật Xuất bản". Như vậy, di sản của các chính sách này hãy còn thời sự tính, vì vẫn còn đó dù không còn công khai thừa nhận – lại ‘đổ tội’ cho "Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam", dù đã gần 30 năm ‘đổi mới’, đất nước và người dân Việt-Nam vẫn chưa thấy biết thế nào là ‘glasnost’ vốn là đứa con sinh đôi với perestroika và của thật sự kinh tế thị trường!  Phải chăng ở các chế độ chuyên chính và độc đảng, Sự Thật chỉ có thể tìm thấy trong những phần hồi ký bị kiểm duyệt cắt bỏ, như hồi ký của Đào Duy Anh (Nhớ Nghĩ Chiều Hôm), Nguyễn Hiến Lê, Lý Quý Chung, v.v., hay những thơ văn viết cuối đời hoặc chỉ công bố sau khi mất, như của Chế Lan Viên (Di Cảo Thơ), Nguyễn Khải (Đi tìm cái Tôi đã mất), v.v. ?

    Chuyện cấm đoán, đốt sách báo miền Nam mục-đích "đạp đổ" văn-hóa miền Nam, để làm mất tinh thần, để ai còn lưu luyến phải sợ hãi, lo lắng thường trực, còn để giảm thiểu những phản kháng, chống đối và gieo nghi ngờ, để mọi người quên đi lịch-sử, quên những thứ mà "văn-hóa mác-Lê" không thể đem lại cho người dân. Nhưng mục-đích ấy có thành công không? Hay sự thật vẫn và sẽ luôn là sự thật? Với những biến-động xáo trộn đến căn bản cục diện thế-giới của thời hậu-chiến-tranh-lạnh (perestroiska 1985, bức tường Berlin, Thiên An Môn 1989), trong nước phải "đổi mới" dù dè dặt đổi có vẻ mới đến đổi như cũ, phải "cởi trói" văn nghệ sĩ, dù cởi rồi trói nhưng dần dà cũng có những thay đổi thật, khởi từ tâm trí, ý chí đưa đến hành động. Chỉ trong một quốc-gia toàn-trị độc đảng mới có những ấn-phẩm in ra bị thu hồi rồi in lén, mới có hiện-tượng in sách hoặc của tác-giả từng bị cấm hoặc đang "phản bội" lại Nhà Nước. Nhưng không gì ra ngoài vòng dịch-lý của trời đất, khi ra nghị định và chiến dịch hủy hoại, bôi xóa văn-học "phản động, thực dân mới Mỹ Ngụy" là đã gây mầm hồi sinh, tưởng tiếc cho nền văn-học và những con người làm văn-học thời đó. Vào Nam, Dương Thu Hương và những người làm văn nghệ của miền Bắc đã công khai hoặc gián tiếp nhìn thấy và cảm nhận sự thật và những cái đẹp, cái hay của đời sống và con người nơi đây!

    Nhưng người cộng-sản Việt-Nam vẫn dùng Đảng như lá bùa để tiếp tục bắt bớ, cầm tù dân chúng cũng như người làm văn-nghệ thời trước 1975. Dù đã tuyên truyền Cởi Trói văn-nghệ từ cuối năm 1986, nhưng vào cuối năm 1990, công an cộng-sản vẫn lại bắt bớ những nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, Hồ Nam, Phạm Thái Thủy, các nhà thơ Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, cùng Đoàn Viết Hoạt, dân biểu Nguyễn Mậu, v.v.

    Mặt khác, những người làm văn nghệ miền Nam bị định mệnh xếp vào hàng "thua trận" đã không có ai viết để tự chối bỏ và trát tro bạn bè cùng hoàn cảnh; trái lại có người như Nguyễn Hiến Lê trước có cảm tình với "cách mạng" nay viết Hồi-ký phê phán và tỏ hối hận. Sống trong một chế độ như vậy, đánh giá các văn nghệ sĩ là một việc khó khăn và đầy tế nhị! Từ 1988, đã có những nổ lực thẩm định lại những tác giả và tác phẩm từng bị kết án là phản động (và có cả tác giả bị thủ tiêu!). Như tập tổng luận Văn-Học Việt Nam Thế Kỷ XX: những vấn-đề lý-luận và lịch-sử do ông chủ biên được nhà xuất-bản Giáo dục in năm 2004 (971 tr.) trong đó các soạn giả đã "thừa nhận" vài vị ở hải-ngoại, thơ hải-ngoại và vài khuynh-hướng mới cũng được nhắc nhở tới! Về phần các nhà văn ở miền Nam trước 1975, họ được nói đến nhưng chưa đủ tầm quan trọng đóng góp của họ! Dù sao, đã có khác với những tổng kết trước đó như Nhìn Lại Một Chặng Đường Văn-Học (Nxb TPHCM, 2000) của Trần Hữu Tá. Theo tập này thì trong 21 năm (1954-1975), người cộng-sản và nằm vùng thân Cộng vẫn độc diễn và đóng vai chính, người cầm bút quốc-gia chân chính vẫn bị phỉ báng, kết án, nhưng nhiều nhà văn thơ không làm chính-trị đã được Trần Hữu Tá đưa vào … sử, như các nhà văn Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, nhà thơ Kim Tuấn, v.v. hoặc "lôi kéo" rất phớt qua như Bình Nguyên Lộc, Nhật Tiến (tr. 96)!

    Nhưng cũng từ đó, một số giáo sư, nhà văn của miền Nam Cộng-hòa được tham khảo, lên tiếng hoặc nghiên cứu công khai trở lại, một số nhà văn thơ miền Nam cũ bắt đầu cộng tác hoặc gửi đăng bài trên các báo và cuối cùng thì xuất-bản sách công khai như trước, của những Lê Phương Chi (Tâm Tình Văn-nghệ Sĩ – những phỏng vấn trên Bách Khoa và Tin Sách thập niên 1960, tiếc là văn bản đã ‘hiệu đính’ lại), Thế Phong (ký Thế Nhật), Huỳnh Phan Anh (Không Gian Và Khoảnh Khắc Văn Chương tuyển trích lại những bài từ hai tập trước 1975 và bài mới viết về các tác giả ngoại quốc), v.v. Về phần sáng tác, tái xuất những Cao Thoại Châu (Bản Thảo Một Đời, 1991), Nguyễn Bắc Sơn (Đời Như Một Nhà Thơ Đông Phương 1995), Huy Tưởng (Hỏi Đường Cùng Mây Trắng,..), Trần Dzạ Lữ (Hát Dạo Bên Trời 1995 và Gọi Tình Bên Sông 1997), Ngy Hữu (Thị Trấn Khô), v.v. Cả xuất-bản và gửi tác-phẩm ra ngoài nước một cách công khai hơn trước đó. Ở đây chúng tôi không muốn nói đến "tác-phẩm" của những nhà văn thơ theo cộng hoặc nằm vùng vì dĩ nhiên được trả công, nhất là những năm đầu sau 1975. Sau đó thì "chân dung" nhiều người trong số ấy đã phải nhiều tang thương khác!

    Kế đó là hiện-tượng sách và sách dịch của các nhà văn sống thời Việt Nam Cộng-hòa từng bị cấm, nay được in lại. Một số các tác-giả của miền Nam lần hồi được in lại, bắt đầu với Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác, thơ và sách Bùi Giáng, truyện Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Phùng Khánh, Phùng Thăng,… Các nghiên cứu văn-hóa dĩ nhiên được dùng lại, cả trang trọng giới thiệu, như của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục,… Gần đây, cuối 2014, là công trình biên khảo Hồ Sơ Lục Châu Học của GS Nguyễn Văn Trung. Trong bất hạnh của nền văn-học miền Nam, may mà còn có các thư viện quốc-gia và đại-học Pháp, Hoa Kỳ, còn tàng trữ nhiều sách báo thời VNCH. Thử hỏi nếu không có những "tên" thực dân mới (HK) cũ (Pháp) giữ hoặc tặng cho các văn khố và thư-viện thì gia tài văn-hóa Việt Nam làm sao tìm lại được từ những tro tàn "phần thư" thời đại mới đã gây ra?

    Trong hoàn cảnh giao thời đó, ở Bắc Mỹ, Thư Quán Bản Thảo ra mắt tháng 10-2001, Trần Hoài Thư phụ trách với sự hợp tác của thân hữu đã ra các số đặc biệt về văn-học miền Nam, về các nhà văn Y Uyên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Nguyễn Bắc Sơn, Võ Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Lâm Hảo Dũng, Lâm Vị Thủy, Trần Dzạ Lữ, Doãn Dân, Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn Đức Sơn, Khoa Hữu, Nh. Tay Ngàn, dịch giả Phùng Thăng, các nhà văn nữ,… và về các tạp-chí/nhóm Ý Thức, Bách Khoa, Sáng Tạo, Khởi Hành, Vấn Đề, v.v. Cùng lúc, Thư Ấn Quán xuất-bản theo hình-thức book-on-demand, nhiều tuyển tập thơ văn miền Nam, xuất và tái bản các tác-phẩm của nhà văn thơ trẻ thời cuối thập niên 1960 và đầu 1970 như Lữ Quỳnh, Khuất Đẩu, Nguyễn Thanh Châu, Từ Thế Mộng, Phạm Cao Hoàng, Lê Văn Thiện, Linh Phương, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Bắc Sơn, Hoài Khanh, Đặng Tiến, Đặng Kim Côn, Nguyễn Thanh Châu, Hạc Thành Hoa, Hoàng Ziang Duy,v.v.; đặc-biệt là tập tiểu-thuyết về chiến-tranh thời kháng chiến của Nguyễn Thị Thanh Sâm (Cõi Đá Vàng, 2011).

    Ở trong nước, lý luận thay đổi và ngôn-ngữ sử-dụng cũng đã thay đổi theo thời. Những từ "Ngụy, Mỹ Ngụy, bù nhìn, thực dân mới, v.v." dần mất trong diễn văn chính thức, chỉ sử-dụng khi cần cảnh cáo hay lo sợ phản-kháng. "Thực dân" Mỹ cũng trở thành bạn làm ăn, trao đổi thương mại và gần đây, phao quân sự! Tựa sách của nhà lý luận cộng-sản Trần Trọng Đăng Đàn nói trong phần đầu bài này được đổi từ Văn-học Thực dân mới Mỹ ở Miền Nam ra Văn-hóa Văn nghệ Nam Viêt Nam, 1954-1975 khi tái bản năm 1993 và 2000 một cách … "nhẹ nhàng"!

    Có thể nói nếu không có chính sách Cởi trói văn nghệ và kinh tế thì đã không có những công trình nghiên cứu mới mẻ về hai nền văn học Miền Nam nửa cuối thế kỷ XIX cũng như miền Nam tự-do trước 1975. Và đã có "giao-lưu, gặp gỡ"! Tác-phẩm và tác-giả từng bị cấm đoán bằng nghị định và chiến dịch như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Duyên Anh, Tô Thùy Yên,… được nhắc đến. Nhưng những Vũ Hạnh, Trần Trọng Đăng Đàn,… vẫn còn ôm quá khứ! Trần Trọng Đăng Đàn và các nhà "phê bình" của Viện Văn học Hà-Nội có tấn công thơ tự do mà họ gọi xiên xỏ là "bí hiểm", "tắc tị", "quái thai", "hỗn tạp những rối rắm quái gở", "những thứ ngôn-ngữ ô uế tới mức thô bỉ" (19) và "dựng lại cái thây ma mà mười lăm năm về trước những người trong nhóm Xuân Thu nhã tập đã nêu lên". Đó là mặt nổi của tuyên truyền, vì mặt khác, ngay từ 1977 họ đã sợ thứ văn-học hư hỏng của miền Nam đó được người "chiến thắng" lén lút tìm đọc thời còn bị cấm. Dù bị cấm. đe, nhưng họ thú nhận đã không thành công, "không thể thỏa mãn với những công việc chúng ta (CSVN) đã làm (…) những đoạn nhạc vàng vẫn truyền đi trên các băng ghi âm một cách bất hợp pháp, những cuốn tiểu-thuyết, những tập thơ mang nội dung phản động hoặc đồi trụy vẫn được chuyền tay nhau, không những ở các tỉnh miền Nam mà ngay cả ở một số thành phố miền Bắc (…) Chúng ta phải đề cao cảnh giác, không thể xem nhẹ những tác hại của nó được" (20).

    Thật ra giới nghiên cứu – giáo-sư hay nhà phê bình, lý luận, phần lớn vẫn là cán bộ hay đảng viên cộng-sản, do đó nói chung họ vẫn làm theo chỉ thị. Những nghiên cứu tự khoe là “khoa học” cũng chỉ là chiếu theo chính sách và nghị định của Đảng và Nhà Nước. Một điều khác không thuyết phục được người làm văn-hóa miền Nam cũ là những người làm văn-hóa theo chỉ thị này từ thời chiến-tranh Nam-Bắc đến nay thường gọi văn-học Việt Nam cộng hòa là “văn-học tại các đô thị miền Nam”. Đây là tuyên truyền đã cũ của thời chiến-tranh trước 1975 vì Hà-nội làm như vùng nông thôn và núi rừng là đã thuộc về họ và miền Nam Cộng hòa chỉ thu gọn lại ở các vùng đô thị mà thôi (Nhưng ngoài vòng đai “đô thị” là các vùng nông thôn người CSVN cũng đâu thực sự kiểm soát được, vậy chỉ còn “bưng biền“!). Cụm từ “đô thị bị tạm chiếm” từng được các nhà viết lịch-sử văn-học trong nước sử dụng để chỉ các vùng “quốc-gia” và cả “thực dân” trong thời gian từ 1945 đến 1954 tại Hà Nội. Không lẽ ngàn năm nước ta bị người Hán xâm chiếm, họ cũng phải gọi Việt Nam là vùng bị … tạm chiếm? Và các “đại thi hào” của miền Bắc như Tố Hữu, Chế Lan Viên cũng từng ngự yên hàn ở “đô thị Hà-Nội” mà làm thơ như đang ở chiến trường với các đồng chí!

    Những năm gần đây, một số nghiên cứu của giáo-sư và luận án của sinh viên trong nước, nội-dung có vẻ thoáng (tức cởi mở hơn) đã dám bàn đến những đề tài từng bị xem là cấm kỵ trước đó như thơ Nguyên Sa, thơ truyện Thanh Tâm Tuyền, nhóm Sáng Tạo, các văn thơ hiện sinh, v.v. Như Trần Thị Mai Nhi đã sớm có cái nhìn "khách quan" hơn khi viết về "nhóm Sáng Tạo" đã nhìn nhận họ "muốn có một ‘đường hướng sáng tạo’, muốn là ‘kẻ sáng tạo ngôn ngữ trong thơ ca'(…). Họ muốn đổi mới niêm luật, cú pháp, chấm câu, từ ngữ trong thơ cả. Rồi việc họ chấp nhận thứ ‘tiếng của vỉa hè’ cũng không hoàn toàn chỉ là một sự lập dị. (…) Đúng thôi, văn học Sài Gòn gặp văn học phương Tây ở quan niệm thẩm mỹ..." (21). Bước đầu khó khăn đã có người đi, dĩ nhiên còn cần nhiều nghiên cứu sâu xa và khách quan hơn nữa! Nhưng họ vẫn gọi văn-học đó là “văn-học tại các đô thị miền Nam” hay ở “trong khu bị chiếm” – như gần đây Trần Hoài Anh có luận án tiến sĩ được xuất-bản với tựa đề Lý Luận Phê Bình Văn Học Ở Đô Thị Miền Nam 1954-1975 (Hội Nhà văn, 2009) rồi cuốn Văn-Học Nhìn Từ Văn-Hóa (Thanh niên, 2012). Đó cũng là lý do khi trong nước viết về văn-học miền Nam thì chỉ nói đến những văn thơ và báo chí tuyên truyền của cán bộ ở các vùng bưng biền và thứ đến là những văn-nghệ sĩ nằm vùng như Sơn Nam, Trang Thế Hy, Vũ Hạnh, Lữ Phương, v.v. mà gọi họ là những “nhà văn yêu nước trong các thành thị miền Nam”!

    Đã nói chiến-tranh thì phải có thắng thua, nhưng dân-tộc thì không bao giờ thua, có chăng là giàu thêm kinh nghiệm dù phải thêm xương máu! Văn-học thì lại càng không có chuyện thắng thua, nói thắng thua là trò con người đoản kỳ bày ra, cưỡng ép, cường điệu, kể cả chuyện hợp lưu! Văn-học cũng không là chuyện kinh tế hay mạnh được yếu thua! Như vậy thiển nghĩ thế thời có thế nào thì văn-học vẫn là nguồn hy vọng vì trước mắt chúng tôi không tin người Việt sẽ có đồng thuận về văn-hóa – khó, vì làm văn-hóa thì con người phải văn-hóa trước đã! Trong hoàn cảnh đó, văn-học sẽ là bước đầu, nếu thật lòng lên đường!

    Chú-thích:

    13- "Vai trò của miền Nam". Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam (Westminster, CA: Văn Nghệ. 1986), tr. 128-135.

    14- "Nghĩ Về Thơ, Truyện 1974". Bách Khoa, Xuân Ất Mão 1975, tr. 27.

    15- Trích Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam Dưới Chế Độ Mỹ Ngụy. Hà-Nội: Văn Hóa, 1977, tr. 8.

    16- X. Thanh Thương Hoàng. “Đêm sa địa ngục”. Nguồn CA, 52, 6-2011, tr. 43-52.

    17- Hồn Việt CA, 20-11-2012.

    18- http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectId=NV234&p=2

    19- Văn-học Thực dân mới Mỹ ở Miền Nam những năm 1954-1975. Tập 2 (Hà-Nội: Sự Thật, 1991), tr. 68, 72.

    20- Trích Lời Nói Đầu. Văn hóa, Văn nghệ miền Nam dưới Chế độ Mỹ-Ngụy).

    21- Văn Học Hiện Đại Văn Học Việt Nam Giao Lưu Gặp Gỡ (Hà-Nội: Văn Học, 1994), tr. 135-136.

    https://damau.org/35752/van-hoc-mien-nam-tu-do-1954-1975-phan-ii

    Không có nhận xét nào