Header Ads

  • Breaking News

    Bùi Giáng - Đi Vào Cõi Thơ Tuệ Sỹ

     Nhà xuất bản Ca Dao/1969

    Thầy Tuệ Sỹ (tranh: họa sỹ Trương Đình Uyên)

    Đi vào cõi thơ theo lối ngẫu nhiên tao ngộ. Cơ duyên sẽ dun dủi… Chẳng nên gò ép cưỡng cầu. 

    Người viết sách này có dụng tâm không sắp đặt theo thứ tự thứ loại thường thấy. Những bài thơ đến rồi đi. Lời “nhận định” cũng đi rồi đến… 

    Bùi Giáng

    Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông : 

    Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy 

    Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi 

    Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết : 

    Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy 

    Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi 

    Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ 

    Trí Hải đa tàm trúc loạn ty 

    Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình. 

    Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ : 


    Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ 

    Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang 

    Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ 

    Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn 

    Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ. 

    Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở 

    Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan 

    Cười với nắng một ngày sao chóng thế 

    Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng 

    Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ 

    Bụi đường dài gót mỏi đi quanh 

    Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ 

    Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn 

    Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn. 

    Ông đáp : - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng. 


    Đôi mắt ướt tuổi vàng 

    Cung trời 

    Hội cũ 

    Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ. 

    Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?". 

    Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ... 

    Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát : một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại. 

    Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói". 

    Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne). 


    Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo. 

    Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du : "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?". 

    Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch ! 

    Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác. 

    Đáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu. 

    Đôi mắt ướt tuổi vàng 

    Khung trời hội cũ 

    Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ? 

    Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ. 

    Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ? 

    "Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang" 

    Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ? 

    Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây. 

    Đôi mắt ướt tuổi vàng 

    Khung trời hội cũ 

    Áo màu xanh 

    Không xanh mãi 

    Trên đồi hoang 

    Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. 

    Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn 

    Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ? 

    Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ? 

    Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh. 

    Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở 

    Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan 

    Cười với nắng một ngày sao chóng thế 

    Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng 

    Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa. 

    Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở 

    Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan 

    Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche. 

    Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải ? 

    Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du : 

    Cười với nắng một ngày sao chóng thế 

    Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng 

    Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường : 

    Sen tàn cúc lại nở hoa 

    Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân 

    Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ 

    Bụi đường dài gót mỏi đi quanh 

    Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi : 

    Đếm tóc bạc 

    Tuổi đời 

    Chưa 

    Đủ 

    Bụi đường dài 

    Gót 

    Mỏi 

    Đi 

    Quanh 

    Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ? 

    Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ 

    Suối nguồn xa 

    Ngược nước 

    Xuôi ngàn 

    Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù. 

    Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương./.

    Bùi Giáng

    https://thuvienphatviet.com

    Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998. Bản điện tử do talawas thực hiện.


    Không có nhận xét nào