Header Ads

  • Breaking News

    Vụ tập kích Sơn Tây Phần cuối



    P17

    Chương IV: Chiến dịch Kingpin

    Căn cứ không quân Hoàng gia Thái Takhli

    Các toán tập kích Sơn Tây đã đáp xuống trong bóng đêm của phi trường Takhli Thái Lan, sau khi đã vượt qua chặng đường bay dài 9500 dặm, mệt nhọc với 28 giờ bay từ căn cứ không quân Eglin qua các trạm nghỉ ở California, Hawaii, Guam và Philippines. Manor và Simons đã có mặt tại phi trường để đón các toán tập kích khi họ bước xuống máy bay. Đấy là lúc 8 giờ sáng ngày thứ tư 18 tháng 11 tại Thái Lan, tức hơn 12 giờ giờ Washington.

    Cho đến giai đoạn cuối này cũng chỉ có 4 người là Simons, Sydnor, Cataldo, Meadows trong toàn thể lực lượng đổ bộ được biết rõ về vị trí mục tiêu và lúc nào thì cuộc tập kích sẽ được xuất phát. Tuy nhiên mọi người đều cảm thấy là cuộc trình diễn sắp bắt đầu khai mạc. Vấn đề an ninh được thực hiện nghiêm túc. Ví dụ trên đoạn đường bay từ Hoa Kỳ, không có người nào được phép mang phù hiệu hoặc quân hàm của quân đội Mỹ, không được mang theo một dấu hiệu nào


    về lý lịch cá nhân trên quân phục. Ngay cả đến những chiếc mũ nồi xanh của họ cũng đã được tập trung tại Eglin và cho chở bằng máy bay sang Thái Lan trước đó, trên chuyến vận tải cơ C- 141 cùng với tất cả những bao đựng thuốc nổ đặc biệt. Khi tất cả bước xuống cửa sau của chiếc máy bay C-141 tại Takhli thì mọi người đều được nhanh chóng dồn vào một chiếc xe bịt kín, không phải loại xe buýt thông thường, để đi thẳng về doanh trại tại một khu vực an toàn ở một góc vắng vẻ trong căn cứ rộng mênh mông.

    Tất cả lính của Simons chỉ được phép ngủ có 6 giờ để lấy lại sức sau chuyến bay mệt mỏi và buồn chán. Vào lúc 2 giờ chiều hôm ấy, Manor và Simons trình bày cho mọi người biết sự việc trong khoảng nửa tiếng đồng hồ. Tuy nhiên họ vẫn chưa được biết về địa điểm mục tiêu và ngay cả địa điểm hiện thời cũng không ai biết là ở đâu. Binh sĩ chỉ mơ hồ biết được là họ đang có mặt ở đâu đấy tại Đông Nam Á. Nhưng Đông Nam Á lại là một dải đất dài kéo từ Đài Loan xuống thẳng Indonesia. Manor và Simons chỉ vẻn vẹn nói cho tất cả mọi người biết nên sẵn sàng và chuẩn bị hoạt động theo một chương trình nặng nề trong suốt 2 ngày sắp tới và không ai được lãng phí thời gian, nên ôn lại các kế hoạch tổng quát về trên không cũng như dưới mặt đất mà mọi người đã thực tập trong nhiều tuần lễ qua, và cuối cùng mọi người sẽ được biết về mục tiêu nếu có sự chấp thuận của Washington ban hành cho thực hiện.

    Sau khi được nghỉ giải lao nửa giờ, Sydnor trình bày lại mọi kế hoạch cho các tiểu đội trưởng, còn toán xung kích thì lo ôn lại một lần nữa mọi hoạt động chi tiết. Sau đó, mọi người bắt đầu tháo mở quân trang, quân dụng cá nhân và những thiết bị mang theo. Bữa ăn tối được dọn ra từ 5 đến 6 giờ chiều. Một chương trình chiếu bóng giải trí vào lúc 8 giờ 30 tối sẽ được chiếu cho những ai muốn xem; đấy là một đoạn phim về trại tù do tài tử Burt Lancaster đóng, tên cuốn phim là “Birdman of Alcatraz”. Dù sao đi nữa đa số binh sĩ đều cho đấy là một cuốn phim tồi.

    Vào lúc 3 giờ 30 phút sáng hôm sau 19 tháng 11, Manor bị đánh thức dậy và được trao cho một công điện mật hỏa tốc. Đấy là bức công điện mà Mayer đã phải trải qua nhiều rắc rối để trình cho Vogt chấp thuận. Nội dung công điện chỉ có mấy chữ, báo cho (Manor) biết là Tổng thống đã chấp thuận cho thi hành công tác, Manor được phép ra lệnh xuất phát. Manor phải đương đầu với một quyết định nghiêm trọng nhất trong toàn bộ quá trình chuẩn bị chiến dịch: quyết định bao giờ thì cho xuất phát cuộc tập kích.

    Quyết định này có liên quan đến thời tiết. Trong khi các toán tập kích Sơn Tây bay đến Đông Nam Á thì trận bão Patsy đã tập trung tại miền Đông Philippines vào ngày thứ năm 19 tháng 11. Trận bão này đã đổ bộ vào Philippines và bắt đầu di chuyển về hướng tây, mang theo một trận cuồng phong dữ dội nhất tại Đông Nam Á, trong suốt thập niên qua. Để làm tăng thêm thời tiết xấu, một áp thấp không khí lại đang di chuyển từ Trung Quốc hướng về Hà Nội, dự liệu này vào ngày thứ bảy 21 tháng 11 đấy cũng chính là ngày đã được ấn định cho xuất phát cuộc tập kích.

    Các chuyên viên khí tượng của Manor cho biết, điều duy nhất có thể cứu vãn được tình trạng khí hậu trong ngày hôm đó là nếu có một vùng áp khí cao được tập trung trên vòm trời Hà Nội. Nếu việc này xảy ra thì các đám mây sẽ có thể chuyển ra khỏi vùng Hà Nội trong vòng vài giờ, đủ thời gian cho các chuyến bay chở Simons vào thẳng mục tiêu với vừa đủ ánh sáng của đầu tuần trăng để thi hành công tác.


    Manor biết rõ là muốn cho cuộc tập kích được thành công thì cần phải có một sự phối hợp chính


    xác và hiếm có giữa điều kiện thời tiết và ánh sáng trong một vùng rộng khoảng 500 dặm. Ánh sáng của tuần trăng đầu đến tuần trăng thứ 3, từ 15 đến 45 độ ở chân trời phía đông, là điều cần thiết cho máy bay đến mục tiêu, giảm bớt sự khám phá của kẻ địch và đồng thời cũng cho người của Simons có vừa đủ ánh sáng trên mặt đất. Các loại máy bay sẽ cất cánh từ Thái Lan bay trong bóng đêm qua hệ thống điều khiển đường bay bằng máy móc riêng, nhưng cần phải có ánh sáng thiên nhiên trên độ cao 5000 và 10000 bộ để cho các máy bay A-1 và C-130 cùng với các trực thăng xung kích có thể tập hợp lại theo đội hình đã định, chỉ có các đèn lái sau đuôi được phép sử dụng để cho các trực thăng thấy rõ trong khi tiếp thêm nhiên liệu. Khi các máy bay xuyên qua đất Lào để vào vùng sông Hồng ở Bắc Việt Nam, nếu gặp phải quá nhiều đám mây rải rác ở tầm thấp và tầm trung thì các trực thăng xung kích không thể nhìn thấy hướng bay vào mục tiêu, vì lẽ các phi công trực thăng cần nhìn thấy ánh sáng phản chiếu từ các ao hồ và sông ngòi để xác định từng chặng đường bay. Chỉ cần có những đám mây rải rác bay ở tầm thấp dưới 3500 bộ, nếu không thì các máy bay A-1 không thể pháo kích hỏa tiễn hoặc thả bom để bảo vệ khu vực mục tiêu, chống những phản ứng phòng không của Bắc Việt Nam. Cần phải có đủ ánh sáng trên mặt đất để cho trực thăng thấy vị trí đáp xuống. Đối với các chuyến bay đánh lạc hướng của hải quân thì mặt biển tại vùng vịnh Bắc Bộ chỉ cần có sức gió làm biển động từ nhẹ đến vừa và ánh sáng trên mặt biển cũng cần phải soi đủ sáng dọc theo bờ biển miền Bắc Việt Nam, mây cần phải cao vừa đủ để cho các máy bay oanh kích hải quân có thể hoạt động từ trên một độ cao 17000 bộ.

    Sau 6 tháng lên kế hoạch và ba tháng thực tập bây giờ mọi việc đều do thời tiết quyết định. Manor cần có các bản báo cáo khí tượng chính xác hàng giờ, trong suốt ngày đêm, tại các khu vực từ Takhli ở Thái Lan cho đến Sơn Tây và Hải Phòng ở Bắc Việt Nam và cả khu vực trạm Yankee ở vịnh Bắc Bộ. Nhưng khi ông ta đến phòng điện tử hiện đại nhất tại trung tâm hành quân của căn cứ không quân Hoàng gia Thái Takhli thì mới vỡ lẽ ra rằng không còn cách gì có được các tin tức cần thiết đó. Phòng thiên văn khí tượng của không quân có một điều lệ riêng biệt rất gắt gao về an ninh và về việc cho phép người ngoài cơ quan biết được các tài liệu đã được xác định về thời tiết. Manor, vị chỉ huy một chiến dịch giật gân nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cũng không được phép vào Trung tâm khí tượng để hỏi tài liệu.

    Vị sĩ quan chỉ huy của toán thời tiết 1 đã dứt khoát không cho phép Manor biết được những tin tức cuối cùng về khí hậu để cho Manor có thể quyết định về một công tác mà chỉ riêng ông ta biết thôi. Trong khi cố gắng giải cứu tù binh thì Manor lại trở thành một nạn nhân của hệ thống hành chính rườm rà. Tình trạng xảy ra thật buồn cười. Một mặt Manor không thể nói cho chuyên viên khí tượng biết về mục tiêu công tác, mặt khác chuyên viên khí tượng lại từ chối không cho Manor biết về tình hình thời tiết. Hơn nữa, các chuyên viên khí tượng của Manor cho biết là không đủ thời gian để có được sự chấp thuận của Bộ chỉ huy Trung tâm khí tượng, Bộ chỉ huy khí tượng không quân đóng tại căn cứ Scott ở tiểu bang Illinois. Nhưng cho dù có đủ thời gian đi nữa thì Manor cũng không thể nói rõ cho cả hai Bộ chỉ huy khí tượng địa phương và trung ương biết vì sao ông ta cần có những tài liệu ấy không có đường dây liên lạc an toàn từ Takhli về thẳng Bộ chỉ huy khí tượng Trung ương cho nên không thể tiết lộ bất cứ điều gì về việc ông ta đang làm. Viên chỉ huy toán thời tiết 1 có đường dây điện đàm an toàn trong văn phòng riêng nhưng vẫn không chịu cho Manor sử dụng. Tất cả mọi cơ quan quân sự ở Đông Nam Á đều sẵn sàng yểm trợ trong giai đoạn cuối này, duy chỉ có một mẩu tin tức nhỏ về thời tiết thì ông ta lại không được phép biết.


    Trong sự thất vọng, Manor cố giải quyết rắc rối về vấn đề an ninh thời tiết này bằng cách gửi


    công điện “ngược chiều” yêu cầu giám đốc Trung tâm hành quân không lực ở Lầu Năm Góc liên lạc thẳng với vị phó tư lệnh không đoàn số 7 ở Sài Gòn. Viên sĩ quan chỉ huy toán thời tiết số 1 nhận được một cú điện thoại ngay sau đó. Mặc dù theo hệ thống chỉ huy thì toán thời tiết này chỉ yểm trợ không đoàn số 7 chứ không trực thuộc nó, nhưng ông ta đã bị một tướng không quân 3 sao đe dọa sẽ chấm dứt ngay công ăn việc làm của ông ta nếu vẫn còn khăng khăng không cho Manor biết được những tin tức thời tiết cần thiết. Ông ta được lệnh phải thi hành lập tức và không được quyền hỏi thêm một câu nào nữa.

    Tuy nhiên sự an tâm của Manor chỉ là ngắn ngủi. Ngay sau khi có được các tài liệu về thời tiết cần thiết cho công tác thì ông ta lại được biết thêm là căn cứ Takhli không còn lưới truyền tin thích hợp ở tại Thái Lan để ghi nhận các loại tài liệu thời tiết mật này. Từ Takhli đến núi Sơn Trà không có đường dây điện đàm an toàn. Núi Sơn Trà là nơi đặt Bộ chỉ huy có đầy đủ máy móc điện tử hiện đại để Manor dùng phối hợp với không quân hải quân và lục quân trong việc theo dõi diễn biến công tác. Như vậy thì ông ta không có cách gì để thảo luận vấn đề thời tiết với Simons và các viên chỉ huy phi hành đoàn.

    Ngoài những rắc rối trên, các giới chức an ninh hiện nay lại tỏ ra khó chịu và tò mò khi nhận được những chỉ thị vào phút chót làm xáo trộn mọi việc. Họ phải cho đặt lại máy móc và các ấn bản ghi chú thời tiết cùng những bản đồ liên hệ, trong khi các loại này từ lâu đã được xếp lại và đã được đóng thùng để gửi từ Thái Lan về nước, theo chương trình rút quân ở Đông Nam Á của Nixon. Đây là một điều khổ nhục thêm nữa. Manor nói với tất cả giới chức an ninh là họ muốn bịa bất cứ chuyện gì để che đậy việc này cũng được, nhưng điều quan trọng cấp thời là phải đặt lại các ấn bản thời tiết, treo bản đồ lên, hoạt động thăm dò khí tượng ngay, mọi việc phải thi hành nhanh chóng.


    Việc rắc rối trên đã được giải quyết nhưng vẫn còn kẹt lại vấn đề liên lạc và cần phải có giải pháp gấp. Các chuyên viên truyền tin của Manor ở núi Sơn Trà và các đồng nghiệp của họ ở Takhli phải tạo ra một hệ thống liên lạc khả dĩ có thể sử dụng được. Không còn đủ thời gian để thiết lập hệ thống điện đàm an toàn họ phải cố tạo ra cách liên lạc bằng điện thoại thông thường có xen lẫn nhiều đoạn qua hệ thống viễn ký. Với cách liên lạc điện đàm có ẩn ý kèm theo những đoạn viễn ký mật mã mà họ tự sáng chế ra, các mẩu tin thời tiết thiết yếu nhất đã được chuyển giao cho nhau mà không gây ra điều tai hại. Với cách làm như vậy thì cuộc tập kích có thể được xuất phát nếu điều kiện thời tiết cho phép.

    Nhưng thời tiết vẫn không chịu hợp tác với Manor. Khi ông ta nhận được những tin tức cần thiết thì lại nghe tin là trận bão Patsy đang chuyển gió to, mây thấp, mưa và ánh sáng không đủ soi rõ suốt cả vùng hướng bắc miền Nam Việt Nam và luôn cả vùng lòng chảo của Bắc Việt Nam, và hướng nam của vịnh Bắc Bộ. Dự đoán sẽ xảy ra mưa vào ngày thứ bảy 21 tháng 11. Vào ngày chủ nhật, một đợt không khí lạnh với mây thấp có thể sẽ chuyển về vùng sông Hồng: thời tiết rất xấu sẽ kéo dài ít nhất là 4 ngày.

    Chỉ còn có một khả năng rất mong manh là hy vọng có được tầng áp khí cao bao phủ trên vùng trời Hà Nội. Theo dự đoán thời tiết thì có một vài dấu hiệu cho thấy tầng áp khí cao này đang được tập trung lại: tại miền nam Trung Quốc thời tiết ở đó vẫn còn trong sáng, và đang bắt đầu chuyển vào vùng Bắc Việt Nam. Như vậy Manor hy vọng sẽ có một khoảng thời tiết thuận lợi, cho dù rất mong manh và ngắn ngủi chỉ một vài giờ chứ không phải suốt cả ngày và như vậy


    điều kiện sẽ xảy ra sớm hơn thời điểm đã dự định cho cuộc tập kích.

    Điều rõ ràng là nếu để đến ngày thứ bảy 21 tháng 11 thì cuộc tập kích sẽ bị cơn bão Patsy hủy bỏ. Manor cũng biết thêm là trong vòng 48 giờ nữa toán phản ứng nhanh 77 sẽ gặp phải cơn bão đó. Biển đã bắt đầu động mạnh. Vì lẽ đó Manor chỉ còn có hai sự chọn lựa: hoặc là cho hoãn cuộc tập kích lại ít nhất từ 5 đến 7 ngày nữa với hy vọng là thời tiết sẽ được khả quan hơn và ánh sáng cũng vừa đủ cho hoạt động, hoặc là cho xuất phát cuộc tập kích sớm hơn một ngày tức vào ngày 20 tháng 11 trong một điều kiện thời tiết rất mong manh trên đường đến khu vực mục tiêu. Vào lúc 4 giờ 11 chiều thứ năm 19 tháng 11, Manor thông báo cho Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương là cuộc tập kích có thể sẽ bị hoãn lại vì lý do thời tiết. Nhưng đến sáng hôm sau 20 tháng 11 ông ta lại suy nghĩ nên cho xuất phát công tác ngay vào tối hôm đó thì có lẽ là quyết định tốt hơn. Manor vội vàng gửi công điện cho đô đốc Bardshar vào lúc 10 giờ 11 phút buổi sáng để thông báo cho biết là cuộc tập kích sẽ được xuất phát sớm hơn.

    Manor lại ra lệnh cho một chuyến bay đặc biệt quan sát thời tiết dọc theo biên giới Lào và Bắc Việt Nam. Chuyến bay RF-4 này đã đáp xuống Takhli vào xế chiều ngày hôm ấy và cho biết là thời tiết tốt. Tầng áp khí cao đang mong đợi đã chuyển về vùng trời Hà Nội. Thời tiết trên chặng đường bay vào mục tiêu được dự đoán là sẽ có mây rải rác trên độ cao từ 5000 đến 8000 bộ, không có gió chuyển động mạnh và ánh sáng tốt. Trong vùng sông Hồng sẽ có vài đám mây, ánh sáng tốt và gió thổi nhẹ theo hướng Tây Bắc. Đến 3 giờ 56 phút chiều, Manor gửi công điện cho Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương và Trung tâm chỉ huy quân sự quốc gia ở Lầu Năm Góc để thông báo cho biết quyết định xuất phát công tác của ông ta. Cuộc tập kích sẽ được thi hành sớm hơn 24 giờ so với thời điểm đã định. Ba mươi phút sau đô đốc Bardshar cũng nhận được một công điện tương tự. Ngay sau khi ra lệnh cho xuất phát công tác, Manor lập tức bay về Bộ chỉ huy của ông ta ở núi Sơn Trà. Quyết định này của ông ta đã tỏ ra là một quyết định đúng. Đến tối thứ bảy 21 tháng 11, thì trận bão Patsy chỉ còn cách Bắc Việt Nam 100 dặm. Nếu đợi đến ngày này mới xuất phát thì các chuyến bay đánh lạc hướng của hải quân không thể thực hiện được và ngay cả cuộc tập kích cũng sẽ bị chặn lại bởi các trận gió to mây nhiều và ánh sáng không đủ thấy trong suốt cả vùng lòng chảo của Bắc Việt Nam. Thời tiết xấu này sẽ kéo dài suốt cả tuần sau nữa. Chỉ có đêm 20, rạng ngày 21 tháng 11 là thời điểm duy nhất trong suốt cả mấy tuần lễ còn lại để cho cuộc tập kích có thể thực hiện được. Tướng Dwight D., Eisenhower cũng đã phải đương đầu với một quyết định tương tự vào ngày 5-6-1944 một ngày trước ngày D-Day. Năm 1970 khi Manor quyết định việc này thì ông ta không hề nghĩ đến việc đổ bộ ở Normandy. Tuy nhiên, sau khi đã vật lộn với mọi việc rắc rối về thủ tục hành chính và hệ thống truyền tin, ông ta cũng có thể ban hành một lệnh đúng thời điểm và sát sao với mọi điều kiện thời tiết cho phép.

    Căn cứ không quân Hoàng gia Thái Udorn

    Tất cả toán của Simons dùng điểm tâm vào 6 giờ sáng ngày thứ năm 19 tháng 11. Sau đó, vào lúc 9 giờ thì họ được cấp phát đạn dược và các loại chất nổ. Sau bữa ăn trưa nhẹ, viên chỉ huy công tác tìm kiếm và giải thoát của không quân tại địa phương bắt đầu thuyết trình cho tất cả các toán về đại cương công tác này trong vòng 1 giờ. Ông ta chỉ cho họ cách sử dụng máy truyền tin gọi cấp cứu, các loại dấu hiệu để gọi máy bay đến giải thoát, và cuối cùng kết luận: “Đấy là tổng quát về công tác tìm kiếm và giải thoát tại vùng đất này”. Ông ta không cần nói cho họ biết là trong trường hợp nếu công tác này bị thất bại thì họ có thể dùng loại đạn hỏa châu nhỏ bằng cây bút có đầu nhọn để giết chết kẻ thù nào đến gần hoặc là để tự sát.


    Vào buổi chiều, cả ba toán xung kích đều ra bãi tập. Mỗi toán tập 45 phút, dưới sự kiểm soát của Dick Meadows, để thử lại các loại vũ khí. Tất cả mọi người cùng vũ khí đều được chở ra bãi tập bằng xe bịt kín. Cuộc bắn tập này không gay gắt lắm mà chỉ có mục đích để cho mỗi người kiểm soát lại vũ khí riêng của mình, và điều chỉnh chắc chắn tâm bắn chính xác. Trở về lại doanh trại, mọi người vội vàng lo lau chùi vũ khí (vũ khí không được tháo rời ra mà chỉ được thông nòng bằng vải và chất tẩy). Xong việc này thì họ bắt đầu tháo các bao đựng chất nổ để kiểm soát lại lần cuối.

    Tối hôm ấy không có chiếu phim sau bữa ăn. Trong thời gian còn lại trước khi ngủ, viên trưởng trạm CIA là George Morton từ Udorn đến để thuyết trình 1 giờ về các kỹ thuật tẩu thoát và vượt ngục. Ông ta là chuyên viên về các hoạt động điệp báo nhưng chỉ nói về hoạt động ở Lào chứ không phải ở Bắc Việt Nam. Hầu hết bài thuyết trình của ông ta đều tập trung vào việc chỉ dẫn các dấu hiệu cho máy bay trinh sát biết trường hợp cần được giải thoát hoặc cấp cứu. Sau cùng, Morton trao cho mỗi người một bản đồ nhỏ bằng nhựa ghi rõ các con đường tẩu thoát và cách thức vượt ngục, cùng với một tấm vải nhỏ như khăn mặt của phụ nữ. Đấy là một tấm lụa nhỏ có in bản đồ ở một mặt và mặt bên kia có gắn một địa bàn tí xíu nơi góc khăn; mặt phía bên bản đồ còn ghi những câu theo cách phát âm tiếng Lào và tiếng Việt. Ví dụ như: “Hướng bắc ở đâu?” “Tôi cần nước uống.” “Có thể tìm hộ tôi một bác sĩ được không?” “Tôi là người Mỹ”. Đến 9 giờ tối mọi người phải tắt đèn lên giường ngủ.

    Vào ngày thứ sáu 20 tháng 11 thì thời gian có vẻ gấp rút hơn. Sau bữa ăn sáng, mọi người được cấp phát các dụng cụ hồng ngoại tuyến dùng cho ban đêm, mỗi người phải tự kiểm soát lại vật dụng và xếp vào bao đeo sau lưng. Sau bữa cơm trưa, sớm hơn thường lệ, bác sĩ Cataldo làm cho mọi người ngạc nhiên khi bắt buộc mỗi người phải uống các viên thuốc ngủ. Đích thân ông ta đứng kiểm soát từng người để biết chắc là đã uống xong, kể cả Simons cũng vậy. Khi Manor ban hành lệnh cho xuất phát công tác vào lúc 3 giờ 56 phút chiều hôm ấy thì Simons và mọi người đang say ngủ. Đến 5 giờ chiều họ được đánh thức dậy để ăn tối. Cataldo khuyên mọi người nên ăn thật nhiều vì lẽ họ sẽ lên đường sau 5 giờ nữa đây có thể là bữa cơm cuối cùng trong vòng 12 giờ đồng hồ sắp tới.

    Đến 6 giờ thì Simons và Sydnor giải thích mọi việc lần cuối cùng. Buổi họp này kéo dài 45 phút. Simons nói trước, khoảng 3 phút. Ông ta vào ngay vấn đề: “Chúng ta sẽ đi giải cứu 70 tù binh Mỹ, mà cũng có thể nhiều hơn tại một trại tù tên là Sơn Tây. Đây là một việc làm mà các tù binh Mỹ có quyền đòi hỏi và mong mỏi các đồng đội của họ thực hiện cho được. Mục tiêu ở cách Hà Nội 23 dặm về hướng tây”.

    Sau khi Simons dứt lời, bầu không khí hoàn toàn im lặng trong khoảng một vài giây đồng hồ. Simons nhớ lại là: “Im lặng đến nỗi chúng ta có thể nghe được chiếc kim rơi xuống đất. Tôi muốn nói rõ là: rất im lặng. Hoàn toàn im lặng”.

    Một vài người huýt sáo khe khẽ. Nhưng ngay sau đó thì bất thình lình mọi người đều vùng đứng dậy và vỗ tay vang dội. Sau này có vài báo cáo ghi lại sự việc có vẻ hơi mâu thuẫn. Có báo cáo nói là mọi người vui mừng reo vang lên. Nhưng Simons nhớ lại là không có tiếng reo vang nào cả. Chỉ có tiếng vỗ tay như pháo. Nhưng dù sao thì phản ứng của mọi người đều đồng thanh chứng tỏ cho ông ta biết là họ đã sẵn sàng. Simons nhớ lại: “Họ đã làm cho tôi sung sướng quá.


    Họ muốn thi hành công tác đó, việc này đã rõ ràng như vậy và lạy Chúa, tôi nghĩ là họ được quyền muốn làm việc đó”.

    Simons còn một điều nữa muốn nói với mọi người: “Các anh không được để cho bất cứ việc gì làm xáo trộn công tác này. Nhiệm vụ của chúng ta là đi cứu tù binh chứ không phải đi bắt tù binh. Nếu chúng ta bị sa vào bẫy, nếu sự việc xảy ra là kẻ địch đã biết chúng ta đến, thì đừng có ai mơ tưởng việc thoát ra khỏi Bắc Việt Nam ngoại trừ trường hợp nếu các anh mọc được cánh để bay ra. Chúng ta sẽ ở cách xa đất Lào 100 dặm, đây là một phần đất ở trên thế giới này mà nếu có ai nghĩ đến rút chạy thì là điều sai lầm. Nếu có việc tiết lộ tin tức đã xảy ra thì chúng ta sẽ biết ngay sau khi chiếc trực thăng thứ hai hoặc thứ ba đáp xuống đấy là lúc mà kẻ địch sẽ nghiền nát chúng ta. Nếu có chuyện ấy xảy ra, tôi muốn toàn thể lực lượng này phải siết chặt lại với nhau. Chúng ta sẽ tháo lui về hướng sông Cồn và, lạy Chúa, cứ để cho chúng nó tiến quân trên đồng trống. Chúng nó sẽ phải trả một giá đắt cho mỗi bước tiến quân qua đoạn đường chó đẻ đó”.

    Simons trao lời lại cho Sydnor nói tiếp còn ông ta thì bước xuống phía sau phòng họp. Mọi người lại đứng dậy một lần nữa và đồng loạt vỗ tay. Khi rời hội trường, ông ta nghe một binh sĩ nói: “Lạy Chúa, nếu công tác này được xuất phát mà không có mặt tôi thì thật là khổ tâm lắm”. Sau này Simons có nói lại với Blackburn đấy là lần đầu tiên trong đời ông ta đã trào nước mắt.

    Sau khi tất cả lính của Simons đã sẵn sàng đeo bao bì lên lưng và đã gửi lại tất cả những vật dụng cá nhân như ảnh gia đình, thư từ, tiền bạc, mọi thứ mà họ cần gửi lại cho thân nhân. Mọi người được xe bịt kín đưa đến một nhà kho lớn nhất trong căn cứ. Ở đấy một máy bay vận tải 4 máy loại C-130 đã chờ sẵn. Mọi người kiểm soát lại lần cuối vật dụng trang bị, việc kiểm soát này kéo dài 1 giờ 45 phút. Mỗi khẩu súng, mỗi băng đạn đều được mở ra và kiểm soát lại. Chỉ có 56 người mà mang theo 111 loại vũ khí khác nhau thì thật giống như mang theo cả một kho vũ khí đạn dược. Tất cả có 2 súng trường tự động M-76 (với 1.200 viên đạn), 48 súng trường xung kích CAR-15 (với 18.437 viên đạn), 51 súng lục loại nòng 45 ly (với 1.162 viên đạn), 4 súng phóng lựu M-79 (với 219 lựu đạn), 4 khẩu đại liên M-60 (với 4.300 viên đạn) và 2 khẩu súng săn bắn đạn ria loại nòng 12 ly (với 100 viên đạn). Ngoài ra họ còn mang theo 15 mìn định hướng, 11 loại chất nổ đặc biệt và 213 lựu đạn. Cuối cùng mỗi người còn mang theo một con dao dài 6 inch cột chặt vào bắp chân.

    Sau đó lại đến phần kiểm soát kỹ lưỡng các dụng cụ dùng để giải cứu tù binh: 11 rìu, 12 cái kéo cắt dây kẽm, 11 kéo cắt chốt cửa, 7 cuộn dây thừng, 2 đèn thổi, 2 cưa máy, 5 thanh sắt dài (xà beng), 17 mã tấu, 34 đèn thợ mỏ, 6 đôi còng tay, 1 cái thang cao 14 bộ, 2 búa, 4 bình chữa cháy, 6 đèn rọi, 6 dụng cụ để nhìn ban đêm, 1 bộ búa và đinh, 5 ống loa, 9 đèn bấm hồng ngoại tuyến, 6 đèn cầm tay, 14 đèn bấm, và 2 máy chụp ảnh.

    Sau cùng các tiểu đội trưởng cẩn thận kiểm soát lại từng vật dụng cá nhân của từng người một: kính đeo mắt ban đêm, máy truyền tin cấp cứu AN-PRC 90, đạn hoả châu, đèn bấm, túi cứu sinh, đèn cầm tay, găng tay, địa bàn, và nút bịt lỗ tai. Vào khoảng 10 giờ đêm mọi người lên máy bay. Việc làm cuối cùng ở trên máy bay là một người tự ngụy trang mặt mình bằng cách bôi phấn đen và đeo phù hiệu cùng quân hàm lên vai áo. Giờ đây mọi sự che giấu không còn cần thiết nữa.


    Chiếc C-130 lăn bánh ra đường bay và cất cánh lúc 10 giờ 32 phút, giờ Đông Nam Á, tức là 10 giờ 32 phút vào sáng thứ sáu tại Nhà Trắng. Từ núi Sơn Trà, Manor báo hiệu cho Trung tâm chỉ huy Lầu Năm Góc biết tin vào lúc 1 giờ 45 phút. Các toán quân của Simons đã rời trạm hậu cứ Takhli để lên đường đến Udorn.

    Khi đến Udorn, mọi người vội vàng chuyển sang 3 trong 5 chiếc trực thăng đang đậu chờ tại sân bay dưới sự canh gác an ninh nghiêm ngặt. Bên cạnh các trực thăng này có 2 chiếc máy bay tải thương C-141 đậu sẵn đấy để chờ đưa tù binh về lại quê nhà. Trong im lặng, Simons và lính của ông ta kiểm soát lại các bao đựng đồ tiếp liệu y tế đã được để sẵn trên trực thăng. Có 2 bao tất cả, mỗi bao nặng 680 pound. Đồ tiếp liệu y tế gồm có 150 thùng đựng nước uống, 100 hộp thức ăn đặc biệt, các loại chăn mền đặc biệt để giữ ấm cho tù binh và một đống thùng đựng hộp thức ăn trẻ em của bác sĩ Cataldo mang theo. Ngoài ra còn có các nút bịt tai dành riêng cho từng tù binh một để khỏi bị tiếng động cơ trực thăng làm điếc sau hàng bao nhiêu năm sống trong im lặng tại phòng giam.

    Đến 11 giờ 25 phút đêm, một công điện khác được Manor gửi đi từ núi Sơn Trà cho biết: chiếc thực thăng HH-53 cuối cùng đã rời căn cứ xuất phát Udorn với tất cả các toán xung kích vào lúc 11 giờ 18 phút, do máy bay vận tải C-130 dẫn đầu. Nhưng trong khi tất cả trực thăng bay lên và bắt đầu hình thành đội hình thì có một máy bay không rõ xuất xứ đã bay ngang qua làm cho đội hình trực thăng phải bay tản ra. Tuy nhiên sau đó thì các trực thăng vội vàng bay tập trung lại và trên chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo thứ nhất” thì Simons bắt đầu ngủ dưỡng sức.

    Đúng 3 giờ bay nữa ông ta sẽ đổ bộ xuống Sơn Tây. Simons dặn dò với binh sĩ đánh thức ông ta dậy khi còn cách mục tiêu khoảng 20 phút.


    Một trong các máy bay suýt nữa không bay theo kịp. Đấy là chiếc C-130 Combat Talon có nhiệm vụ hướng dẫn toán xung kích sau khi các trực thăng đã được tái tiếp nhiên liệu. Chiếc này không thể khởi động được máy số 3 bên phải. Các chuyên viên cơ giới đã không tìm ra được nguyên nhân. Manor vẫn ra lệnh cho chiếc máy bay này cứ cất cánh dù chỉ hoạt động 3 máy mà thôi. Nhưng khi máy bay chuẩn bị cất cánh thì viên phi công là thiếu tá Irl L., Franklin cố gắng mở máy thử một lần nữa; không hiểu tại sao lần này thì lại được và bị chậm trễ mất 23 phút. Vào khoảng 4 phút sau nửa đêm, một chiếc Combat Talon khác và các chiếc A-1 cất cánh từ phi trường Nakhon Phanom để bay đi bắt gặp đoàn trực thăng và Franklin tại Lào. Cuộc tập kích mở màn.

    Trạm Yankee

    Vào lúc 6 giờ 25 phút sáng thứ năm 19 tháng 11 một công điện mang mật mã đặc biệt và ưu tiên tối cao đã được chuyển giao cho đô đốc Bardshar trên tàu sân bay Oriskany đang đậu tại vịnh Bắc Bộ. Đây cũng chính là thời gian các toán lính của Simons đang kiểm soát lần cuối mọi trang bị cá nhân. Công điện mật mã này do Manor gửi đến với nội dung: “NCA đã chấp thuận”. Có


    nghĩa là cuộc tập kích đã được phép xuất phát; bây giờ chỉ còn chờ đợi thời điểm lên đường mà thôi. Bardshar lo sắp đặt mọi việc để thi hành các chuyến bay đánh lạc hướng của hải quân. Mặc dù thời tiết do trận bão Patsy đang được tập trung quanh vùng, nhưng các tàu sân bay của ông ta chỉ chòng chành nhẹ trên mặt biển sắp động. Hai trong những chiếc tàu sân bay này sẽ có nhiệm vụ thi hành các cuộc tuần tra ban đêm trước khi di chuyển. Bardshar suy nghĩ ông ta có thể cho các chuyến bay xuất phát vì lẽ các phi hành đoàn sẽ thích thú được thoát ra khỏi các tàu sân bay đang bập bềnh trên sóng nước. Tuy nhiên khi họ quay trở lại với thời tiết xấu này thì sẽ là điều vất vả.

    Bardshar còn có một việc rắc rối khác nữa. Các phi hành đoàn của ông ta đang chuẩn bị những chuyến hành quân không lực to lớn nhất và tập trung lực lượng hùng hậu nhất của hải quân chưa từng xảy ra tại Bắc Việt Nam từ trước đến nay, nhưng lại không được phép thả bom. Bardshar không thể nào hiểu nổi tại sao lại cho phi hành đoàn bay vào vùng trời đầy hệ thống phòng không của Bắc Việt Nam mà không được phép mang theo bom. Làm sao giải thích cho họ hiểu được lý do đây? Ông ta đành im lặng.

    Vì lẽ đó khi các viên chỉ huy tàu sân bay và các phi đoàn trưởng nhận được bản thuyết trình đầu tiên, họ đọc qua và tự thấy có lẽ đây là một lệnh hành quân kỳ quái nhất từ trước đến nay được ban ra cho lực lượng oanh kích của hải quân. Họ sẽ bay qua vùng trời Hải Phòng trong bóng đêm tăm tối, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Họ chỉ có thể nói lại cho phi hành đoàn về mục đích của công tác này như sau:


    Trong một ngày rất gần đây, một cuộc hành quân đặc biệt sẽ do toán công tác hỗn hợp cấp thời điều động. Toán phản ứng nhanh 77 có nhiệm vụ phải yểm trợ công tác đặc biệt này bằng cách tạo ra nhiều chuyến bay đánh lạc hướng kẻ địch để giúp cho công tác hoàn thành mỹ mãn. Vì lý do an ninh và bảo mật, cho nên không ai được phép tiết lộ mục đích và thời điểm xuất phát công tác… Nếu có ai thắc mắc điều gì liên quan đến cuộc hành quân đặc biệt này, phải trực tiếp gặp tôi (Bardshar tự ký dưới lệnh này), hoặc qua hệ thống công văn nếu có thể được.

    Bardshar không cho phép lệnh này được chuyển qua hệ thống công điện mà có máy bay riêng mang lệnh đến cho từng tàu sân bay và các vị chỉ huy được chuyển lời là họ sẽ xuất phát một cuộc chiến tranh với đạn giả. Trong lệnh của Bardshar còn có ghi chú thêm: “Vì lý do chính trị cho nên chỉ được phép mang theo hoả châu để thay thế đạn không đối đất. Trong điều kiện này, mục đích của chúng ta là cố gắng làm sao tạo ra được càng nhiều sự hỗn loạn cho hệ thống phòng thủ và chỉ huy của Bắc Việt Nam càng tốt”.

    Kể từ ngày 31-10-1968, đây là lần đầu tiên từ 2 năm qua mới có lại những chuyến bay oanh tạc của hải quân trên vùng Bắc Việt Nam. Tuy nhiên trong thời gian qua các tàu sân bay vẫn túc trực tại vịnh Bắc Bộ để sẵn sàng xuất phát các chuyến bay oanh tạc trong bất cứ thời điểm nào. Bây giờ thì các phi hành đoàn lại được phép bay vào Bắc Việt Nam nhưng với những chiếc máy bay


    dùng để thả hỏa châu trên một vùng trời có hệ thống phòng không dữ dội nhất trên thế giới này mà không ai được biết vì sao. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam đây là giai đoạn kỳ quái lạ lùng nhất.

    Hạm trưởng Douglas F. Mow, chỉ huy phân đoàn 19 của không lực chiến đấu trên tàu sân bay Oriskany, hạm trưởng J. E. McKnight, chỉ huy phi đoàn chiến đấu số 2 trên tàu sân bay Ranger và hạm trưởng G.H.Palmer, chỉ huy phi đoàn chiến đấu số 21 trên tàu sân bay Hancock, đều nhận được lệnh hành quân. Cả ba vị chỉ huy trưởng tàu sân bay là đại tá hải quân Frank S. Haak, đại tá J.L. Coleman và đại tá T.C. Johnson đều có mặt tại đấy khi lệnh này được chuyển đến.

    Trong kế hoạch chi tiết mà tư lệnh P. D. Hoskins đã soạn thảo gần mười ngày trước đây đã nói rõ cho họ biết: sẽ sử dụng chiếc máy bay nào trên tàu sân bay nào; khi nào sẽ xuất phát, tập hợp đội hình ra sao; dùng hệ thống truyền tin như thế nào, các dấu hiệu báo nguy sẽ được sử dụng ra sao các loại máy bay sẽ bay quanh vòng nào và sẽ được tiếp nhận thêm nhiên liệu bằng cách nào các đường bay sẽ được định hướng ra sao, và đã nói rõ một cách chính xác khi nào và tại đâu ở vùng Hải Phòng để các phi hành đoàn tiến công oanh tạc, nhưng chỉ được oanh tạc bằng trái pháo mà thôi. Một trong những vị chỉ huy phi đoàn chế giễu rằng: “Chúng ta đã bay trên vùng trời Bắc Việt hơn 300.000 lần rồi và bây giờ thì chúng ta lại được lệnh bay để thả hỏa châu cho dân chúng xem vui mắt”.

    Tuy nhiên lệnh hành quân của Bardshar không phải hoàn toàn mang đến điều xấu. Trong đó có câu ghi chú: “Mọi sự cố gắng tìm kiếm và giải thoát phi hành đoàn khi gặp tai nạn trên vùng đất Bắc Việt Nam đều được cho phép thi hành”. Trong trường hợp có người nào bị bắn rơi, bốn chiếc máy bay cường kích A-7 sẽ được phép sử dụng đạn hỏa tiễn rocket 20 ly để yểm trợ cho việc tìm kiếm và giải thoát này. Nhưng Bardshar phải nhắc lại các phi hành đoàn một lần nữa: “Các máy bay oanh tạc không được phép dùng đạn đối đất mà chỉ được mang theo hỏa châu thôi, chỉ có các máy bay cường kích dùng cho việc tiếp cứu mới được mang theo súng đạn hỏa tiễn”. Tuy nhiên vào phút cuối thì Bardshar cũng có thể nhân nhượng đôi điều: một vài chiếc máy bay sẽ được phép mang theo các loại hỏa tiễn phát nhiễu “Shrike” để ngăn ngừa sự phát hiện do hệ thống phòng không SAM và ra đa cùng các tổ súng chống máy bay của Bắc Việt Nam.

    Lệnh hành quân của Bardshar kết thúc với một vài điều chỉ dẫn đặc biệt để bảo mật việc xuất phát các chuyến bay hải quân này như sau:

    Khi những người nhận và mở phong bì đựng lệnh hành quân này ra, mới được phép tiết lộ những phần nào cần cho việc hoàn tất công tác được giao phó. Việc tiết lộ này chỉ dành riêng cho những bộ phận nào được biết và sẽ thi hành ngay vài phút cuối để giảm bớt mọi sơ hở tai hại. Khi lệnh hành quân này được mở ra tất cả thư tín cá nhân và kể cả việc thuyên chuyển nhân viên phải được tạm đình hoãn không kể trường hợp khẩn cấp, cho đến khi nào công tác chấm dứt hoặc bị huỷ bỏ.

    Ngày D và giờ H sẽ là… (ngày và giờ chính xác sẽ được điền vào khi Bardshar nhận được


    công điện cho lệnh xuất phát của Manor gửi đến). Ngày và giờ nói trên sẽ không được chuyển bằng hệ thống công điện…

    5. Mọi lời tuyên bố công khai liên quan đến công tác này đều bị cấm tuyệt đối, ngay cả thời gian sau khi hoàn thành công tác, không kể có phép đặc biệt của chỉ huy trưởng toán phản ứng nhanh 77… Ngoài ra, các cơ quan báo chí và các cuộc viếng thăm các đơn vị có nhiệm vụ thi hành công tác này cần phải được cố gắng từ chối đến mức tối đa, không kể trường hợp báo chí và cuộc viếng thăm này sẽ không gây ra dư luận không cần thiết. Mọi quyết định liên hệ đến các việc trên đều phải trình báo trước cho chỉ huy trưởng toán phản ứng nhanh 77 biết…

    8. Sau khi chấm dứt cuộc hành quân, lệnh này phải được hủy bỏ, phải gửi ngay công điện về cho người ký lệnh xác nhận rõ là việc huỷ bỏ đã được thi hành.

    Trưa ngày hôm sau 20 tháng 11, lúc 11 giờ 10 theo giờ vịnh Bắc Bộ, Bardshar nhận được một công điện nữa của Manor, có nội dung là chuẩn bị xuất phát. Đến 4 giờ 56 phút chiều, tiếp theo một công điện nữa cho lệnh thi hành. Cả hai vị tư lệnh Boot Hill và Hoskins lập tức bay đến từng tàu sân bay để đích thân thuyết trình công tác cho các phi đoàn trưởng của toán phản ứng nhanh 77 nghe. Họ giải thích là ngày D sẽ là ngày mai: các chuyến bay đầu tiên sẽ xuất phát đúng 2 giờ 23 phút sáng, theo giờ vịnh Bắc Bộ (tức là 1 giờ 23 phút tại Sơn Tây). Mặc dù cả hai vị này không nói rõ về mục tiêu công tác, nhưng Hill có nói úp mở rằng một khi mục tiêu này được loan báo ra thì chắc chắn mọi người sẽ vô cùng hài lòng. Hill bảo các chỉ huy trưởng ra lệnh cho các toán: vũ khí mang theo một vài hoả tiễn Shrike, một vài đạn loại 20 ly, và tất cả hỏa châu trên các tàu sân bay Oriskany, Ranger và Hancock. Cuộc oanh tạc vào ban đêm lớn nhất chưa từng xảy ra tại Bắc Việt Nam sẽ được xuất phát đúng 55 phút trước thời điểm Simons và các toán tập kích đổ bộ xuống trại tù Sơn Tây. Các trực thăng của Simons sẽ chấm dứt việc tiếp thêm nhiên liệu trên vùng trời Lào đúng 4 phút sau khi chiếc máy bay cường kích A-7 đầu tiên rời khỏi sàn tàu sân bay.

    Một vài phút sau, hai giờ sáng ngày 21 tháng 11, có một viên trung uý hải quân vừa mới được nghỉ phép về quê cưới vợ, leo lên chiếc tàu sân bay Ranger nặng 78.000 tấn với chiều dài đường bay là 1039 bộ. Viên trung úy này đi vòng quanh chiếc máy bay cường kích A-7 của anh ta để kiểm soát lại mọi thứ, và nhận thấy đúng như lời vừa được thuyết trình là các bệ gắn bom dưới thân máy bay đã được thay bằng bệ phóng hỏa châu. Anh ta quyết định giải ngũ khỏi đơn vị không lực hải quân ngay sau khi thời hạn phục vụ tại miền tây Thái Bình Dương của ông ta chấm dứt. Viên sĩ quan phi hành trẻ này biết rằng cha của mình là vị đô đốc hải quân sẽ không bao giờ tưởng tượng được việc làm của con trai mình. Vì rằng bay vào vùng cảng Hải Phòng trong đêm tối mà mang theo chỉ có hỏa châu mà thôi.

    Trong khi các toán chuyên viên trên sân tàu Oriskany nhìn theo những luồng khói phát ra sau đuôi các chiếc máy bay cường kích A-7 và F-8 bay trong bóng đêm hướng về cảng Hải Phòng,


    thì Bardshar bước xuống hầm tàu. Ông ta nhíu mày, vì đang lo hai việc: không biết là các cuộc oanh tạc đánh lạc hướng này có tạo ra đủ sự hỗn loạn để ngăn ngừa hệ thống phòng không của địch hướng về các chiếc trực thăng hay không; và không biết các chiến phản lực MIG của Bắc Việt Nam có bay lên để bắn vào các máy bay của toán phản ứng nhanh 77 không? Trong phòng kín của Trung tâm hành quân, ông ta nhét vào tai hai ống nghe. Một ống dùng để nghe các lời đối thoại giữa phi hành đoàn oanh tạc với nhau và giữa họ với bộ chỉ huy tàu sân bay. Một ống khác dùng để nghe lời phiên dịch mọi cuộc điện đàm báo động của hệ thống phòng không Bắc Việt Nam. Như vậy ông ta có thể biết được từng giây đồng hồ về tất cả các chỉ thị mà đài kiểm soát phòng không của Bắc Việt Nam chuyển cho các phản lực MIG của họ. Hệ thống phòng không Bắc Việt Nam có vẻ phản ứng chậm, vì lẽ trong suốt thời gian từ 30 đến 35 phút, ông ta không nghe thấy gì qua ống nghe.

    Nhưng đột nhiên đến 2 giờ 17 phút, theo giờ Sơn Tây, đúng 1 phút trước khi các trực thăng của Simons đổ bộ xuống Sơn Tây, thì ống nghe này có tiếng nói vang lên. Qua lời phiên dịch, Bardshar nghe tiếng một viên phi công MIG của Bắc Việt Nam la hoảng lên yêu cầu đài kiểm soát tại phi trường Phúc Yên: “Cho tôi một lệnh bay, cho tôi một lệnh bay”. Viên phi công này muốn biết hướng bay và vùng chiến đấu ở tại đâu. Đài kiểm soát chỉ thị cho đương sự đợi lệnh. Trong giây phút đó Bardshar tỏ vẻ lo ngại. Một trong những đường bay tại phi trường Phúc Yên có hướng cho máy bay bay thẳng qua trại Sơn Tây, chỉ có 22 dặm từ hướng tây nam bây giờ có ít nhất là một chiếc MIG đang nóng lòng sẵn sàng bay lên trong khi cuộc tập kích sắp bắt đầu.

    Nhưng đài kiểm soát Phúc Yên vẫn giữ im lặng trong khi viên phi công vẫn cố la hoảng yêu cầu: “Cho tôi lệnh bay, cho tôi lệnh bay”.


    Bốn phút dài trôi qua. Sau cùng, đến 2 giờ 21 phút, giờ Sơn Tây. Bardshar nghe tiếng đài kiểm soát Phúc Yên nói với viên phi công MIG: “Không có việc gì cả, chấm dứt tất cả rồi”.

    Bardshar cảm thấy nhẹ nhõm. Cuộc oanh tạc đánh lạc hướng của hải quân đã có hiệu lực. Như vậy thì lực lượng của Simons có thể đổ bộ và thoát ra khỏi Sơn Tây an toàn, không có sự can thiệp của hệ thống phòng không địch. Nhưng có một điều ông ta đã không biết. Simons đã làm cho cuộc rối loạn của Bắc Việt Nam tăng thêm bằng cách đánh phá nhầm doanh trại.





    Sơn Tây

    Khi bay gần đến Sơn Tây, Donohue cho chiếc trực thăng HH-53 mang ngụy danh: “Quả táo thứ 3” quẹo ngoặt lại ra khỏi đội hình. Chiếc trực thăng này do ông ta lái chỉ là một trong số 105 chiếc khác đã xuất phát từ năm căn cứ không quân tại Thái Lan và từ ba tàu sân bay tại vịnh Bắc Bộ để tập trung vào mục tiêu công tác trong một chiến dịch dữ dội nhất vào ban đêm tại chiến trường Đông Nam Á.


    Donohue và các chiếc trực thăng tiến công bay phía sau đang hạ thấp xuống một cách vội vàng qua những đám mây bay rải rác ở độ cao 2000 bộ trên vòm trời sông Hồng. Khi hạ thấp xuống còn độ 500 bộ cách mặt đất, Donohue thấy rõ các điểm định hướng đúng như bản đồ ghi rõ đấy là sông Đà cách mục tiêu 10 dặm về hướng tây, hồ nhỏ cách đó 7 dặm, và sau cùng là sông Cồn với nhánh sông quanh gấp về hướng bắc khi còn cách 2 dặm ở phía nam Sơn Tây. Donohue cho trực thăng bay chậm với tốc lực 80 Knot trong khi đó thì chiếc Combat Talon C-130 bay vụt qua và tách rời khỏi đội hình trực thăng. Hai chiếc trực thăng còn lại, mang ngụy danh “Quả táo thứ tư” và “Quả táo thứ năm” vụt bay cao lên 1500 bộ để thi hành nhiệm vụ như máy bay thả hỏa châu trù bị trong trường hợp hỏa châu và pháo sáng do chiếc C-130 thả xuống bị tịt ngòi hoặc bị lệch xa vị trí.

    Các phi hành đoàn của những chiếc Combat Talon đã phối hợp thời gian một cách hoàn hảo trên suốt chặng đường bay dài 337,7 dặm từ Udorn đến. Franklin đã đuổi bắt kịp sau khi bị chậm 23 phút bằng cách bỏ bớt những đường bay quanh co đã được ấn định trước. Sau suốt 3 giờ và 23 phút bay quanh quẹo, khi cao khi thấp qua vùng trời Lào và vùng sông Hồng, tất cả các máy bay đã đến mục tiêu đúng 1 phút trước giờ ấn định trong kế hoạch. Vấn đề thời điểm là điều quan trọng. Các lính gác tại Sơn Tây cứ mỗi giờ hoặc nửa giờ thì đổi phiên gác một lần, vì lẽ đó các toán tập kích muốn đổ bộ ngay vào khoảng giữa phiên đổi gác. Nếu tính đúng được như vậy thì những anh vừa mới gác xong đang lo đi ngủ và những lính gác mới đổi phiên đang lo sắp đặt mọi việc trước khi canh gác.

    Donohue bẻ tay lái 270 độ ngoặt gấp chiếc trực thăng đang gầm gừ và hạ thấp xuống với tốc độ 70 bộ. Đấy là hai động tác quan trọng nhất mà ông ta phải cố thực hiện cho đúng phương cách trong giờ phút cuối cùng này, sau khi đã thực tập trong suốt 2 tháng rưỡi, với 40 lần bay ban đêm và 15 lần bay tập dượt như là thực thụ. Sau này Donohue nhớ lại là trước mặt ông ta ánh sáng đèn Hà Nội trông thật đẹp. Và thình lình ở cách xa ngoài vùng ánh sáng đó, các máy bay của hải quân đã đốt sáng khung trời cảng Hải Phòng với hỏa châu như là ngày hội 4 tháng 7 (lễ độc lập Hoa Kỳ).

    Donohue đang ở cách Sơn Tây hai dặm.

    Bấy giờ là 2 giờ 18 phút sáng thứ bảy 21 tháng 11, giờ Hà Nội. Năm giây đồng hồ quan trọng nhất của cuộc đời Donohue đang đến, sau 16 năm và 6300 giờ bay trực thăng.

    Ông ta là người đầu tiên bay đến trại tù Sơn Tây. Chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo thứ ba” bay sát ngọn cây với tốc lực dưới hai hải lý, sẽ bay xuyên qua khoảng giữa 2 vọng gác ở vách tường hướng tây trong doanh trại Sơn Tây. Hai khẩu súng Gatling giống như 2 khẩu đại bác, mỗi khẩu được gắn vào phía bên hông của trực thăng sẽ nhả đạn và bắn ra những đường đạn có làn


    ánh sáng với số lượng khoảng 4000 viên một phút đế làm đổ sụp các chòi gác và doanh trại lính gác ở phía ngoài cửa chính nơi hướng đông. Donohue không được phép bắn vào chòi gác tại cửa chính này, vì lẽ cơ quan DIA đã cho ông ta biết trước là có thể dưới chòi gác đó có một chỗ chật hẹp dùng để giam cách ly tù nhân bị kỷ luật. Nếu bắn ngã chòi gác này thì có thể giết hại tù binh là những người mà họ đang cố gắng giải cứu cho được.

    Khi vị trí trại tù hiện ra trước mắt thì bầu trời trên vùng Sơn Tây bỗng chợt loé sáng lên. Chiếc máy bay bắn hỏa châu C-130 đã thi hành nhiệm vụ một cách hoàn hảo và đúng thời điểm. Donohue và phi hành đoàn có thể sẽ bị mờ mắt trong một vài phút nếu họ nhìn thẳng vào các đốm lửa hỏa châu sáng rực ấy.

    Donohue có thể nhìn thấy các loại đạn hỏa châu nổ tung lên cách trại Sơn Tây về phía đông và phía nam 2 dặm, tựa hồ như đang có một cuộc chiến lớn bùng nổ trên mặt đất.

    Bỗng nhiên, ngọn đèn vàng báo hiệu khẩn cấp nơi máy truyền tin của Donohue nhấp nháy: “Truyền tin, truyền tin”. Viên phi công phụ của Donohue là đại uý Tom Waldron sửng sốt chỉ vào chỗ đèn báo hiệu truyền tin. Donohue bấm vào chốt truyền tin và chỉ thị cho phi hành đoàn “Ngừng lại ngừng lại”, có nghĩa là chưa được phép khai hỏa. Theo hệ thống truyền tin thông thường thì mỗi lần, thấy có đèn báo hiệu nhấp nháy như vậy là có nghĩa phải đáp xuống khẩn cấp, ngay cả trên mặt nước và phải thông báo lại chỉ thị đó cho bất cứ chiếc máy bay nào đang bay trong vùng phụ cận. Vấn đề trục trặc kỹ thuật truyền tin trên thực thăng không phải là chuyện đùa: đã có bao nhiêu trường hợp truyền tin bị hỏng đem đến kết quả tai hại mà phi công không đủ thời gian để đáp xuống cho kịp. Tuy nhiên lần này thì Donohue bình tĩnh nói với viên phi công phụ: “Mặc nó”. Ông ta quyết định không thông báo cho các máy bay khác biết về trường hợp khẩn cấp này vì e ngại sẽ tạo ra rối loạn và lo âu cho các bạn đồng đội.

    Trong những giây đồng hồ cuối cùng khi sà xuống doanh trại Sơn Tây thì một trường hợp căng thẳng khác lại xảy đến suýt sai mục tiêu. Trong khi đang cố gắng hướng cho máy bay về đúng mục tiêu, giữa ánh sáng nhấp nháy liên tục của đèn báo hiệu truyền tin và giữa những tiếng nổ của đạn hỏa châu từ chiếc máy bay C-130 bắn ra, Donohue và Waldron quên lưu ý việc gió xoay chiều và thiếu các định hướng chính xác trên mặt đất. Chiếc trực thăng của họ bị gió thổi tạt về phía nam khoảng 200 yard cách xa vị trí mục tiêu đã định. Donohue thấy một cơ sở trông giống như doanh trại Sơn Tây nằm ở hướng nam và cũng cách đó khoảng 200 yard. Khi nhận định ra đấy không phải là mục tiêu của mình, Donohue quay vòng trở lại vì không thấy có con sông ở ngoài vòng rào, lập tức đổi hướng bay về phía bắc 400 yard. Bây giờ thì ông ta thấy ngay các chòi gác trên vách tường hướng tây của trại tù Sơn Tây, nhưng các cây cối trong doanh trại lại có vẻ cao lớn hơn ông ta tưởng: Mọi người đã quên là các loại cây cao từ 40 đến 50 bộ được chụp ảnh vào tháng 6 vừa qua bây giờ đã cao vọt lên qua các trận mưa mùa hè trước ngày cuộc tập kích mở màn.


    Donohue kéo ngay cần lái tổng hợp để cho các cánh quạt quay nhanh thêm, hạ bớt tốc lực và hạ thấp trực thăng xuống, rồi bình tĩnh ra lệnh cho phi hành đoàn: “Đúng 10 giây nữa, sẽ nổ súng”. Nói xong, ông ta lướt nhẹ chiếc trực thăng sát ngọn cây trong doanh trại, đồng thời bấm vào nấc truyền tin, hô to: “Chuẩn bị bắn”.

    Donohue đang bận lo lái nên không thấy được cảnh tượng cả một vọng gác hướng tây bắc bị sụp đổ xuống ngay trong nháy mắt, các cột trụ 4x4 inch bị bắn nát như cám. Vọng gác hướng Tây Nam và doanh trại lính gác cũng bị sụp đổ tan tành. Các xạ thủ của Donohue là trung sĩ James Rogers và Angus Sowell thét lên trong máy truyền tin: “Trúng rồi, trúng rồi, đổ nát rồi”. Donohue tăng tốc lực quay mũi trực thăng về hướng bắc và bay cao lên, tìm một cánh đồng ruộng nhỏ ở hướng đông bên hồ. Tại đây ông ta đáp xuống và ngồi chờ, chỉ cách mục tiêu có một dặm rưỡi về hướng tây. Ông ta chỉ còn có việc ngồi chờ cho đến khi nào lính của Simons và các tù binh được giải thoát ra khỏi trại giam. Donohue và Waldron mở tăng thêm âm lượng các máy truyền tin. Trong suốt 27 phút còn lại, cả hai người phải dò tìm tất cả các làn sóng truyền tin để theo dõi hành động của Simons và các toán tập kích trong doanh trại Sơn Tây. Sau suốt 3 giờ yên lặng bây giờ thì tất cả máy truyền tin đồng loạt vang lên. Trong buồng lái trực thăng vang lên đủ loại âm thanh hỗn tạp từ các làn sóng FM, UHF, VHF phát ra. Donohue cố gắng dò nghe tất cả.

    Chiếc trực thăng đổ nhào xuống ngay trong doanh trại Sơn Tây dữ dội quá, dữ dội hơn là Dick Meadows đã tưởng, trong khi đó ông ta cố nằm sát người xuống sàn máy bay trên một chiếc đệm để khỏi bị bật ngửa lên. Meadows không biết rõ sự việc xảy ra như thế nào nhưng viên phi công H.Kalen suýt nữa không điều khiển chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo thứ nhất”: vào giây phút cuối, khi bay sát ngọn cây và bị vướng vào dây phơi quần áo mắc qua sân trại, như là sân bóng chuyền. Viên phi công phụ của Kalen là Herb Zehnder còn nhớ rõ có một cây cao tới 150 bộ. Cây này bị cắt phăng ra như một cọng cỏ. Thân cây, cành lá tung toé khắp nơi. Một tiếng ầm vang lên rung động, cánh quạt trực thăng bị hỏng và cả thân trực thăng đổ nhào xuống. Trong khi cánh quạt còn quay tiếp những vòng cuối và chặt đứt một thân cây to gần đấy. Cả chiếc trực thăng lồng lộn dữ dội và nghiêng về bên phải từ 30 đến 40 độ, rồi đổ ào xuống đất.

    Sự va chạm quá nặng làm cho một bình chữa cháy bị tung ra và đập vào chân viên kỹ sư cơ khí của Kalen là Leroy Wright làm cho anh ta vỡ cổ chân. Trong khi đó thì trung uý George Petrie một sĩ quan mũ nồi xanh 31 tuổi, tóc vàng, cũng bị hất tung ra khỏi trực thăng. Mặc dù anh ta không phải là người đầu tiên được phép nhảy ra. Sau này anh ta có giải thích là “sự va chạm ấy đã ném tôi ra khỏi máy bay”.

    Dick Meadows vùng ngay dậy và chạy thoát ra cửa sau đuôi trực thăng, tay bấm vào loa phóng thanh. Ngay trong thời điểm đó, chiếc loa này còn quan trọng hơn bất cứ loại vũ khí nào mà ông ta được trang bị. Khi chạy thoát ra khỏi trực thăng vào khoảng 15 yard thì Meadows quỳ xuống, bám vào chốt loa và hít hơi lấy sức. Ông ta bắt đầu phát thanh với giọng bình tĩnh:

    “Chúng tôi là người Mỹ, xin các anh cúi xuống. Chúng tôi là người Mỹ. Đây là một cuộc giải cứu. Chúng tôi đến đây để cứu các anh ra khỏi chỗ này. Yêu cầu tất cả cúi xuống, nằm xuống sàn nhà. Chúng tôi sẽ vào phòng giam của các anh trong vài phút nữa”.

    Tiếng nói của ông ta vang vọng khắp nơi trong doanh trại.


    Nhưng không có tiếng trả lời.

    13 người còn lại trong toán xung kích của Meadows chia nhau chạy đến các cửa phòng giam và cổng trại chính. Trong khi tiếng động cơ của chiếc trực thăng HH-3 tắt ngấm thì trại tù Sơn Tây lại vang lên những tràng súng tự động. Meadows vẫn ngồi quỳ một chân và phát thanh thêm một lần nữa: “Chúng tôi là người Mỹ. Chúng tôi đến đây để cứu các anh”. Trong khi đó thì chuyên viên truyền tin của ông ta báo cho Simons biết qua làn sóng chỉ huy: “Kế hoạch, đây là thằng bé mặt xanh: Chúng tôi đã vào đến nơi rồi”.

    Ba phút đã trôi qua, một tiếng nổ ầm từ phía bức tường hướng nam đã quật ngã Meadows xuống đất nhưng ông ta yên tâm khi nhìn thấy một lỗ trống thật to nơi vách tường. Như vậy, có nghĩa là toán yểm trợ của Simons và toán chỉ huy của Sydnor đã đổ bộ an toàn xuống vòng ngoài doanh trại và đã phá đổ vách tường. Lỗ trống nơi vách tường này dùng để đưa tù binh thoát ra ngoài cho nhanh chóng. Lúc đó Meadows thấy một toán người chạy băng qua lỗ trống và vội vàng đặt mình trong tư thế chiến đấu ở ngay trong doanh trại.

    Nhưng Meadows đã nhầm. Toán lính này không phải người của Simons mà tất cả đều là người của Sydnor.

    Simons đã đổ bộ nhầm doanh trại. Cả ông ta và 21 người lính. Lực lượng lớn nhất trong cuộc tập kích Sơn Tây này đã đổ bộ xuống cách xa mục tiêu 400 mét về hướng nam, tại một vị trí mà các chuyên viên tình báo đã có ghi dấu trên bản đồ là “trường trung học”.


    Thật là mỉa mai vì cách ba ngày trước đó, các chuyên viên tình báo đã căn dặn Simons và các phi công trực thăng đừng có bị nhầm lẫn vị trí mục tiêu với trường trung học này. Cả hai nơi đều to bằng nhau. Con kênh đào ở hướng bắc trường trung học có thể bị nhầm lẫn với sông Cồn khi con sông này quẹo về hướng đông đúng ngay lúc chảy về hướng bắc của Sơn Tây. Nếu như có gió nhẹ thổi từ đồng bằng sông Hồng lên thì đội hình trực thăng có thể bị thổi bay lạc về hướng nam độ một vài trăm yard trên đường bay gần đến doanh trại Sơn Tây. Donohue đã bị thổi tạt về hướng nam với chiếc trực thăng HH-53 của ông ta và luôn cả H.Kalen cũng bị bay tạt về hướng đó, nhưng cả hai đều kịp thời thay đổi lại đường bay để hướng về đúng vị trí mục tiêu. Donohue muốn dùng máy truyền tin để gọi các chiếc trực thăng bay sau đề phòng việc có thể bị nhầm lẫn này, nhưng ông ta quyết định giữ im lặng. Vì không muốn gây tiếng động trong mỗi giây phút bất ngờ này. Trong khi đó ở phía sau, Warner Britton đã bị gió thổi lạc hướng và vì lẽ đang cố chăm chú tìm chỗ đáp xuống phía ngoài doanh trại hướng nam nên không thấy Kalen thay đổi đường bay vào giây phút cuối.

    Rối như tơ vò

    Phòng họp báo của Lầu Năm Góc

    Manor và Simons chỉ ngủ được vài giờ trước khi được hộ tống đến văn phòng của Laird, tại phòng 3E 880 ở Lầu Năm Góc. Moorer đã ở đấy và chào đón hai


    người rất nồng nhiệt. Laird xin lỗi đã phải gọi họ về gấp rút như vậy vì chương trình có một vài thay đổi. Ông ta giải thích kỹ việc này trong bữa điểm tâm.

    Laird hướng dẫn hai người sang phòng ăn riêng, ở đấy người phát ngôn của Lầu Năm Góc là Daniel Henkin đã có mặt. Cả năm người ngồi vào bàn rộng đặt ngay giữa phòng. Đây là một phòng rộng đủ chứa 120 người dành vào việc tổ chức các buổi tiệc liên hoan. Đúng ra thì phòng này thường được dùng cho các buổi tiệc trao giải thưởng hoặc tiệc mừng một nhân vật nào đó được Tổng thống bổ nhiệm vào Lầu Năm Góc. Nhìn qua cửa sổ, bên kia là dòng sông Potomac, người ta thấy rõ đài kỷ niệm Thomas Jefferson, tượng đài Washington và toà Nhà Trắng.

    Trong khi Laird giải thích những việc gì đã xảy ra thì các chiêu đãi viên người Philippines mặc đồng phục màu xanh đang rót mời nước cam tươi và cà phê. Laird cho biết, Nhà Trắng đã điện thoại cho ông ta ngay sau khi biết được tin trại tù Sơn Tây trống rỗng và các toán lính tập kích đã trở về an toàn. Laird được lệnh mời hai vị chỉ huy cuộc tập kích về ngay Washington để Tổng thống đích thân trao huân chương cho họ. Ngoài hai vị chỉ huy, Tổng thống cũng muốn tặng thưởng huân chương cho hai binh sĩ khác nữa. Nhà Trắng nhấn mạnh là một trong hai binh sĩ này phải là người da đen.

    Manor và Simons được yêu cầu cho biết tên hai binh sĩ ấy đúng theo các điều khoản đã được văn phòng Tổng thống ấn định (văn phòng này ở số 1600 đại lộ Pennsylvania) nhưng hai vị sĩ quan chỉ huy này có vẻ không hào hứng cho lắm khi nghe tin này. Cả hai đều nghĩ rằng tất cả những ai đã đổ bộ xuống trại tù Sơn Tây đều phải được đối xử bình đẳng. Laird và Moorer thông cảm ý nghĩ này nhưng đã giải thích là không thể làm gì hơn được. Mayer đã được lệnh soạn thảo gấp các bản tuyên dương công trạng. Manor và Simons cứ việc chọn lựa hai binh sĩ trước rồi sẽ xem xét lại các bản tuyên dương sau. Nhu cầu tranh thủ dư luận quần chúng của Nhà Trắng đã thắng được những quan niệm về lẽ công bằng của Manor và Simons.

    Lễ trao gắn huân chương sẽ được tổ chức công khai. Laird nói thêm: Như vậy, có nghĩa là Lầu Năm Góc sẽ phải tiết lộ thêm nhiều chi tiết về cuộc tập kích Sơn Tây mà trước đây đã phải che giấu. Kể từ lúc Nhà Trắng ban hành chỉ thị này thì chương trình tuyên bố công khai có một chiều hướng mới: Dù ở trong trường hợp nào cũng không được tiết lộ là công tác này đã thất bại.

    Laird và Henkin đều nghĩ rằng việc này không phải là chuyện dễ dàng. Trong một cuộc lễ công khai với sự có mặt của nhiều người như vậy thì không biết cuộc tập kích có thể được giữ bí mật trong một thời gian dài hay không? Hoặc họ có cách nào che đậy được những phần quan trọng? Từ đây cho đến lúc Nhà Trắng trao gắn huân chương không biết là Lầu Năm Góc có nên tuyên bố những điều gì? Nên tuyên bố những chi tiết nào tối đa nhất? Nên tuyên bố


    những phần nào gọi là tối thiểu nhất? Mặc dù Laird không nói rõ ra những ý của ông ta muốn hỏi mọi người xem thử làm cách nào để nói cho báo chí biết là Lầu Năm Góc đã ra lệnh cho 56 người đổ bộ ngay xuống vùng Bắc Việt Nam để rốt cuộc chỉ tìm thấy được một trại tù trống rỗng?

    Simons nhớ lại đấy là một buổi họp lạ lùng. Mọi người đang ngồi ở vị trí thuộc Trung tâm quyền lực quân sự tối cao của Hoa Kỳ mà lại phải lo âu quá đáng về một vài lời tuyên bố với báo chí. Vừa phải suy nghĩ vừa phải lật qua lật lại những miếng trứng rán và thịt mặn trong bữa điểm tâm.

    Cuối cùng, Laird hỏi Simons xem ông ta thấy cần làm như thế nào? Đến lúc này thì Simons cũng có ý định muốn đề nghị với Laird một vài điều phải làm, cho dù ông ta có được hỏi ý kiến hay không. Ông ta nói với Laird nên tổ chức buổi họp báo “ngay bây giờ”. Theo quan niệm của Simons thì mọi người nên chuẩn bị sẵn sàng đón đỡ những cú đấm về câu chuyện tập kích này theo kiểu viết riêng biệt của báo chí hoặc theo đúng như lời tuyên bố của Lầu Năm Góc. Ông ta nói thêm: “Đây là một công tác hoàn toàn hợp lý, đúng theo luật định. Tù binh là người Mỹ. Vậy thì người Mỹ, theo truyền thống phải cố gắng làm một việc gì để cứu người Mỹ. Vậy thì chúng ta còn phải sợ gì nữa?”.

    Simons không nhớ rõ là những người khác trong buổi họp có đồng ý với ông ta hay không, nhưng Bộ trưởng Laird đã đồng ý, như vậy là đủ rồi. Ông ta nói: “Tôi không cần biết những người khác có đồng ý với tôi hay không, việc đó chẳng cần”. Ông ta cũng không nhớ rõ là Laird đã đồng tình như thế nào, tuy nhiên cuộc họp báo được tổ chức năm phút ngay sau đó.


    Cuộc tập kích Sơn Tây đã được soạn thảo và thi hành với sự bí mật tuyệt đối. Bây giờ lại đến màn cuối cùng phải tiết lộ ra một cách công khai trước dư luận quần chúng. Cả năm người có mặt tại buổi họp với Laird đang cố gắng chú tâm tìm cách nào để trình bày cuộc tập kích này cho thích hợp nhất. Không có cuộc thảo luận nào về chuyện thành hay bại, chuyện sai hay đúng. Sau này khi được hỏi ông ta có nói cho Laird biết là mình đã đổ bộ nhầm doanh trại hay không thì Simons trả lời: “Không, không”. Đấy không phải là vấn đề được đem ra thảo luận trong buổi họp, vì đấy là chi tiết chiến thuật. Tuy nhiên Manor và Simons đều có cảm tưởng là Laird và Moorer đã biết về sự sai lầm. Manor đã trình bày rõ việc này trong báo cáo sơ bộ sau công tác gửi về Trung tâm chỉ huy Lầu Năm Góc ngay trước khi ông ta và Simons rời căn cứ Udorn. Có điều là họ không biết chuyện bức công điện đã bị thất lạc. Washington chỉ nhận được một tuần lễ sau ngày tập kích chấm dứt và chính nhà báo Jack Anderson đã tóm được một phần bức công điện ấy trước khi đến tay Laird.





    Có một huy chương được để dành lại không trao gắn. Đấy là huy chương quân vụ bội tinh dành cho một trung sĩ bậc nhất thuộc đại đội A, Phân đoàn 7, lực lượng đặc biệt. Một vài ngày trước khi cuộc tập kích được thi hành thì trung sĩ này vẫn còn ở trong toán xung kích của Simons. Nhưng “Blue” Max đã nhận được tin riêng cho biết đương sự có nhiều vấn đề rắc rối về gia đình. Và mặc dù là một binh sĩ dũng cảm, xuất sắc, nhưng đương sự đã bắt đầu phát sinh nhiều cảm nghĩ nghi ngờ trầm trọng về cục diện chiến tranh Việt Nam. Simons liền thuyên chuyển đương sự ra khỏi toán và đưa vào làm việc với toán yểm trợ gồm 36 người. Đương sự tỏ vẻ vô cùng bất mãn vì chỉ mong muốn có một điều duy nhất là được đi theo toán xung kích. Sau khi lực lượng xung kích rời Thái Lan thì “Blue” Max được tin tên trung sĩ ấy đã có ý định đào ngũ. Tuy nhiên đương sự vẫn làm việc chăm chỉ, cho nên sau khi xong công tác thì Simons có đề nghị cấp cho một huy chương quân vụ bội tinh. Vài ngày sau đó thì đương sự đào ngũ thật. Hắn đi Đan Mạch, rồi đến Thụy Điển và trở thành một người phản chiến. Vì lẽ đó E.Mayer đã giữ chiếc huy chương lại không cấp phát cho y. Một vài tuần lễ sau tên trung sĩ này đã đến trình diện tại phòng tùy viên quân sự Hoa Kỳ ở Thụy Điển và xin được phép quay về Mỹ để nhận án về tội đào ngũ. Nhưng may mắn cho y là quân đội không đưa ra xét xử trước tòa án quân sự mà cho đương sự giải ngũ.

    Một trong những phần thưởng quan trọng khác cũng đã được thực hiện tại một buổi lễ không chính thức trong một tiệc trà thuộc vùng phụ cận Virginia.


    Một vài giờ sau khi toán tập kích trở lại Udorn, một hạ sĩ quan của Simons đã lẻn ra khỏi căn cứ và tìm đến một hiệu may nhỏ thường có binh sĩ Mỹ lui tới ở ngay bên cạnh cổng chính. Anh ta hỏi chủ hiệu may liệu có thể thêu được 100 huy hiệu đeo vai trong vòng ba tiếng đồng hồ được không? Anh ta đưa cho chủ hiệu may xem một hình vẽ mẫu. Huy hiệu này hình tròn đường kính độ 2 inh-sơ. Nền vải đen có hình một cây nấm rơm màu trắng với hai con mắt liếc nhìn ở ngay dưới ô nấm. Phía dưới có một khung nhỏ thêu mấy chữ KITD/FOHS bằng chỉ đen trên nền trắng.

    Đấy là buổi xế chiều ngày 21 tháng 11 viên hạ sĩ quan này vẫn còn mệt phờ, cặp mắt đỏ vì thiếu ngủ anh ta vừa mới ở Sơn Tây về sau gần 8 giờ công tác. Việc lẻn ra ngoài căn cứ này cũng có thể bị đưa ra tòa án quân sự nhưng anh ta vẫn đánh liều. Đấy là một sự vi phạm an ninh vì anh ta đã rời phòng thẩm vấn tình báo trong doanh trại để đi ra ngoài và tìm cách đặt thêm các huy hiệu này. Thời gian quả là một vấn đề không rộng rãi lắm. Thay thế việc nghỉ tại Udorn một vài ngày thì cả toán tập kích lại được tin họ sẽ phải lên một chiếc máy bay tải thương C-141 dành riêng để chở tù binh. Ngay sau bữa ăn tối tất cả sẽ rời Thái Lan bay thẳng về Fort Bragg và Eglin. Vì lẽ đó viên hạ sĩ quan này tự quyết định sẽ không đi về nếu chưa thuê may được các huy hiệu.


    Người chủ hiệu may hỏi lại một trong những thợ may đang làm việc tại một phòng chật hẹp phía trong và quay trở ra báo cho biết có thể nhận hàng được nhưng với giá 2 đô-la Mỹ một chiếc. Viên hạ sĩ quan hỏi người chủ hiệu may có thể làm cho xong trước 5 giờ chiều được không?

    Khi tất cả những người tham dự cuộc tập kích Sơn Tây trở về nhà và có thể nói cho gia đình biết rõ trong mấy tháng qua họ đã đi đâu và làm gì. Có một vài người tổ chức tiệc trà liên hoan. Sau khi đệ trình báo cáo sau hành động, gửi thư cảm ơn cho các nơi đã giúp đỡ, Simons đã đề nghị ân thưởng huy chương cho những người có công, các nhân viên thuộc văn phòng kế hoạch người có công, các nhân viên thuộc văn phòng kế hoạch và yểm trợ cũng bắt đầu được nghỉ xả hơi. Vào thượng tuần tháng 12, trung tá không quân Benjamin Krajlev mời Blackburn đến dự tiệc tại nhà riêng ở gần Virginia.

    Trung tá Krajlev là một trong những chuyên viên kế hoạch hành động quan trọng của Manor. Trong tiệc trà, Krajlev yêu cầu mọi người im lặng và quay sang phía Blackburn nói: “Thưa thiếu tướng, anh em đã có ý thực hiện một loại huy hiệu riêng cho cả toán. Chúng tôi cũng mong muốn thiếu tướng nên đeo một chiếc. Thiếu tướng xứng đáng đeo huy hiệu này lắm”. Nói xong ông ta trao cho Blackburn huy hiệu màu đen hình tròn. Blackburn nhìn vào cặp mắt chế giễu đang ló nhìn phía dưới cây nấm rơm, ông ta cười và hỏi: “Những chữ KITD/FOHS này nghĩa là gì?”.

    Trung tá Krajlev bình thản trả lời: “Thưa thiếu tướng, ý nghĩa đó dành riêng cho bọn chúng tôi: ẩn mình trong bóng tối và chỉ ăn phân ngựa mà thôi”.

    Sau khi chết

    Dù dư luận quần chúng như thế nào đi nữa thì Lầu Năm Góc cũng đã bị lay chuyển bởi các phản ứng đối với cuộc tập kích Sơn Tây. Trước khi Laird bay đi Fort Bragg để gắn huy chương cho toán tập kích thì báo cáo sau hành động của Manor từ Thái Lan gửi về đến nay mới tới nơi gần một tuần lễ sau khi chấm dứt công tác. Một phần báo cáo này may mắn thay, đấy là phần ít quan trọng nhất lọt vào tay của nhà báo Jack Anderson. Trước đây Laird đã bực bội về hệ thống truyền tin bị hư hỏng qua nhiều giai đoạn hành động trước cuộc tập kích, bây giờ Laird đã bực lại càng cảm thấy khó chịu hơn nữa khi nhận được bản báo cáo quá muộn và khi biết được một phần tin tức đã lọt vào tay Anderson. Ông ta và Moorer quyết định đã đến lúc cần phải chỉnh đốn lại hệ thống truyền tin quân đội Mỹ trên khắp thế giới.

    Một sự chỉnh đốn khác nữa cũng cần phải thực hiện. Phần nhiều các lời chỉ trích, chê bai cuộc tập kích đều hướng về các cơ quan tình báo đã yểm trợ cho công tác này. Mặc dù Laird đã mạnh dạn tuyên bố rằng các toán tập kích được cung cấp nguồn tình báo có hiệu lực nhất, mặc dù các giới chức trong các cơ quan tình báo đã cố gắng tránh né không ai chịu lĩnh trách nhiệm về mình hoặc cố ẩn mình sau bức tường yên lặng thì báo chí và dư luận quần


    chúng vẫn thấy rõ một điểm: một công tác quân sự đầy thiện chí đã bị sơ xuất tình báo làm thất bại ngay từ phút đầu. Cảm nghĩ này cũng không quên nhằm vào Lầu Năm Góc và tòa Nhà Trắng. Sau này một viên chức cao cấp thuộc Hội đồng An ninh quốc gia có phát biểu ý kiến: “Sơn Tây là cọng rơm cuối cùng”. Trong thời điểm này Hội đồng an ninh quốc gia đã nhìn thấy cuộc tập kích là một sự thất bại hơn nữa để bắt buộc phải bắt tay nhanh chóng cải tổ sâu rộng hệ thống tình báo, việc này cần được thực hiện một năm sau.

    Tuy nhiên trong khi chờ đợi, Lầu Năm Góc đã chỉ thị cho điều tra để xác định nguyên nhân đưa đến sự thất bại của cuộc tập kích có phải là do tình báo kém hiệu lực hay là do vấn đề sơ xuất an ninh. Cuộc điều tra này đã đem đến nhiều dữ kiện có ý nghĩa đặc biệt về phản ứng của kẻ địch đối với cuộc tập kích Sơn Tây.

    Hai tháng sau cuộc tập kích, Sully Fontaine đang hưởng tuần trăng mật thì một vị “cố vấn” ở tòa đại sứ Mỹ đã đi lùng gặp và yêu cầu ông ta bay đi ngay Hong Kong trên chuyến bay sớm nhất. Tại đây sẽ có người gặp với đầy đủ chỉ thị khác Fontaine đã có ý định nghỉ xả hơi một tuần với người vợ mới cưới tại Bangkok, một trong những thành phố mà ông ta thích nhất. Nhưng sau 28 năm lăn lộn trong ngành tình báo, ông ta đã quá quen với việc nhận được lệnh bất thường, tại một thời điểm bất thường như thế này.

    Fontaine là một chuyên viên tình báo hoạt động mật của quân đội giàu kinh nghiệm. Ông ta 44 tuổi người Bỉ gốc Pháp, nói thông thạo bốn ngoại ngữ. Ông ta tham gia quân đội Hoàng gia Anh vào năm 1948, tốt nghiệp trường huấn luyện biệt kích và nhảy dù, và đã từng nhảy dù xuống châu Âu để hoạt động với cơ quan phản gián Mỹ, và các tổ chức kháng chiến của Hà Lan, Bỉ, Pháp. Ông ta được thưởng chiến công bội tinh với cành dương liễu của cả nước Bỉ và nước Pháp. Sau chiến tranh, ông ta học khoa triết tại trường quân sự Bỉ, rồi được kéo vào quân đội Hoa Kỳ để làm sĩ quan huấn luyện trong khi chiến cuộc Triều Tiên đang vào hồi kết thúc. Tại đó, ông ta chỉ huy Đội danh dự của Liên hợp quốc, một đội có danh tiếng gồm một đơn vị 99 người Mỹ cộng thêm những toán quân tinh nhuệ đặc biệt của bảy quốc gia khác. Fontaine có được một lực lượng quốc tế gìn giữ hòa bình của riêng mình. Nhưng ông ta lại sớm quay về với công việc “bí mật”, chỉ huy một trong các đội huấn luyện lực lượng đặc biệt đầu tiên của quân đội ở Triều Tiên.

    Trong ba năm sau, những nhiệm vụ của Fontaine thay đổi bất thường giữa quân báo và công tác của lực lượng đặc biệt. Năm 1959 ông ta được gửi đến toán thứ 10 của lực lượng đặc biệt tại Đức. Ông ta đã tổ chức những “sứ mệnh đặc biệt” ở châu Phi và Trung Đông. Vào năm 1963, ông ta được gửi đi Việt Nam để tổ chức một trại lực lượng đặc biệt ở giữa vùng sông Mê Công qua Campuchia, và giúp huấn luyện các đơn vị người Nam Việt Nam và

    Campuchia. Ông ta làm việc đó rất có kết quả và kết thúc nhiệm vụ ở nhóm Hoạt động đặc biệt của Don Blackburn. Blackburn giao cho ông ta tổ chức mạng lưới điệp viên, tuyển bộ những người trên cao nguyên và giám sát những hoạt động đặc biệt ở Campuchia và Lào.

    Sau ba chuyến đi công tác ở Việt Nam Fontaine được giao phó công việc tình báo hình sự ở châu Âu. Một trong những nhiệm vụ của ông ta là phục vụ dưới danh nghĩa sĩ quan liên lạc quân sự Mỹ với tổ chức Cảnh sát quốc tế. Hai năm sau đó, ông ta trở lại Đông Nam Á, điều tra các tổ chức quốc tế về trọng tội ở khắp Viễn Đông. Ông ta được nghỉ phép sau một


    chuyến công tác dưới danh nghĩa là chỉ huy phó trong tổ chức điều tra hình sự của tất cả quân đội tại miền Tây Hoa Kỳ. Ông ta có ý định sẽ làm cho vợ quen với đời sống ở San Francisco khi mà tuần trăng mật của họ kết thúc.

    Fontaine và vợ lập tức bay đi Hong Kong. Ở đấy, một “cố vấn” khác của tòa đại sứ đã đón máy bay của ông ta và trao cho ông một phong thư. Thế là việc nghỉ phép của ông ta bị cắt bỏ, đồng thời được lệnh bay đi Washington.

    Tại Washington, Fontaine được đưa đến Lầu Năm Góc và cuối cùng đi đến “một nơi như là một cái hòm” ông ta kể lại: Tại đấy trong một văn phòng chật hẹp ngoài cửa có mấy chữ: “chỉ đặc biệt mới được vào”. Đến đây ông ta được biết: “chúng tôi vừa được lệnh điều tra một tiết lộ về vụ tập kích Sơn Tây. Ông là người được uỷ thác nhiệm vụ đó”. Đây không phải là một cuộc điều tra như thường lệ. Sự vụ lệnh của ông do đại tướng B.Palmer quyền tham mưu trưởng lục quân ký, “theo chỉ thị của Bộ trưởng Quốc phòng”.

    Fontaine chỉ biết vụ tập kích trại tù Sơn Tây qua những gì ông ta đọc. Trong hai ngày, ông ta xem xét các hồ sơ về Sơn Tây: những dự thảo báo cáo sau hành động, những đánh giá về phần tình báo, những hồ sơ về an ninh, “tất cả những gì có dính líu vào”. Ông ta kết luận rằng việc điều tra về một tiết lộ bí mật có thể xảy ra là một việc khôi hài. Với những người chuyên nghiệp như Simons và Blackburn đứng đằng sau cuộc tập kích, thì không thể có sự tiết lộ gì. Hơn nữa, ông ta biết rằng, nếu có sự tiết lộ bí mật thì Simons và những người của ông này sẽ bị nghiền nát như tương sau vài giây đổ bộ xuống Bắc Việt Nam. Simons đã mang trở về tất cả số người của ông thật sự là không ai chạm đến. Fontaine đã từng phục vụ cho Simons “người quân nhân vĩ đại nhất mà tôi chưa từng gặp”.


    Nhưng cuộc gặp gỡ giữa Fontaine và Lầu Năm Góc có vẻ “sắt đá” lắm: “Không, chúng tôi có sơ hở. Như anh đã biết, không có một ai lúc họ đến. Ở đâu đây trước khi thi hành cuộc tập kích, có kẻ nào đã biết. Chúng tôi có cảm nghĩ là tình báo nước ngoài đã biết về cuộc tập kích, họ đã báo cho Bắc Việt Nam và vì thế mà trại tù trống rỗng”.

    Đối với Fontaine thì toàn thể cuộc điều tra này có vẻ như là một tình trạng hỗn độn giữa những cơ quan tình báo khác nhau đang cố đẩy trách nhiệm của chính mình cho kẻ khác. Nhưng ông ta cũng chọn một toán người điều tra. Gửi một người trong nhóm đến căn cứ Fort Bragg và một người khác đến căn cứ không quân Eglin, trong khi ông ta bay trở lại Đông Nam Á không có vợ đi cùng.

    Qua các nguồn tin khác, Fontaine biết chắc rằng không có một sơ hở nào về cuộc tập kích, qua các đường dây tình báo thân hữu. Các cuộc tiếp xúc với đồng nghiệp người Anh đã cho ông ta biết rõ một quan niệm về phương thức làm việc. Lúc nào Fontaine cũng nghĩ rằng: “Nếu muốn biết việc gì sắp xảy ra trong tuần tới tại Washington, thì đừng đi Washington mà nên đến London”. Và một trong các đồng nghiệp người Anh của ông ta, lúc bấy giờ là Trưởng ngành quân báo của Anh tại Bắc Mỹ, đã tỏ ra khâm phục nói rằng: “Chính chúng tôi cũng bị sửng sốt. Đây là lần đầu tiên mà các tên to mồm ở phía các anh đã không mở miệng nói điều gì cả”.


    Mặc dù Fontaine là một chuyên viên thuộc loại cừ nhưng ông ta cũng không thể khám phá ra việc sơ hở trong đường dây an ninh đối với cuộc tập kích. Chuyện này xảy ra tại Hawaii, tại đấy chỉ có ba sĩ quan biết trước được việc hành quân này. Người thứ nhất là đô đốc John McCain, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương. Người thứ hai là Đại tướng Charles A., Corcoran, Tham mưu trưởng thuộc Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. Và người thứ ba là một sĩ quan không quân, kém hai vị trên bảy bậc, tên là Andrew Porth, mặc dù tên này không được phép biết về chuyện tập kích. Nói theo giọng chuyên nghiệp của ngành quân báo thì viên sĩ quan này chỉ là một nhân viên phòng nhì, và những điều gì anh ta biết đều do suy luận cá nhân mà ra.

    Porth là một đại uý tình báo trẻ tuổi thuộc ngành “vượt ngục và trốn thoát” của binh chủng không quân ở Thái Bình Dương, làm việc tại căn cứ không quân Hickam. Viên sĩ quan cao 5 bộ 11 inch, tóc vàng gợn sóng này là người phụ trách việc quản lý tài liệu cũng như kế hoạch có liên quan đến tù binh, đồng thời cũng phụ trách cả việc thẩm vấn các tù binh đã được trao trả. Anh ta yêu cầu mỗi không đoàn chiến đấu thuộc Bộ tư lệnh không quân Thái Bình Dương đều phải có một bản đồ đặc biệt riêng về vùng Bắc Việt Nam có kèm theo hình ảnh chỉ rõ các khu vực có trại tù binh. Tất cả mọi việc liên lạc về vấn đề tù binh ví dụ như công điện, hình ảnh trinh sát, các tài liệu phân tích tình báo, đều phải đi qua văn phòng làm việc của anh ta. Anh ta làm việc chặt chẽ với toán thám báo kỹ thuật 548, toán đã soạn thảo ra các tài liệu về tình hình tù binh bị giam giữ tại Bắc Việt. Tập tài liệu này được xem như một cuốn Thánh kinh đối với những ai muốn biết về tin tức tình báo tù binh trong đó có hình ảnh của mỗi tù binh hoặc mỗi binh sĩ bị mất tích, và lời khai của những nhân chứng quan trọng về họ. Tập tài liệu này đã được sử dụng rộng rãi trong việc thẩm vấn những bộ đội đào ngũ hoặc bị bắt giữ của Việt cộng hoặc của Bắc Việt. Văn phòng của Porth nói đúng ra là một căn hầm làm việc chung với các chuyên viên thám báo có nhiệm vụ kiểm soát các tài liệu thuộc về không lực đối với các công tác tình báo.

    Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1970, Porth bắt đầu lưu ý đến các công văn trước đây đã được đánh dấu “mật” thì bây giờ tăng lên là “tối mật”. Còn những công văn “tối mật” thì lại tăng lên “tuyệt mật”. Trường hợp này được đặc biệt sử dụng trong các hệ thống công văn thuộc về công tác thám báo tại Bắc Việt Nam. Một sự kiện nữa là các tấm ảnh trước đây thường được chuyển đến văn phòng anh ta thì nay không còn chuyển tiếp nữa. Như vậy chứng tỏ là anh ta thuộc loại nhân viên không cần thiết được biết đến những việc này. Anh ta có cảm nghĩ là có chuyện gì khác thường đang xảy ra. Tuy nhiên, vì lý do thiết lập kế hoạch Sơn Tây cần phải có nhiều tin tức phản gián, cho nên anh ta vẫn thấy được một vài dữ kiện có liên quan đến công tác trinh sát của không lực.

    Ngoài ra cũng còn một vài dấu hiệu khác chứng tỏ là có một việc đặc biệt nào đó đang xảy ra. Porth thường nhận được những cú điện thoại từ các văn phòng đã bị “gạt ra ngoài lề” gọi đến để tò mò hỏi xem việc gì đang xảy ra. Trong toàn vùng Thái Bình Dương, các phương tiện và nhân sự như là máy bay các loại, thiết bị truyền tin đặc biệt, các chuyên viên đang được điều động di chuyển chỗ này sang chỗ nọ. Thời gian trôi qua và càng ngày các sĩ quan không quân tại Thái Bình Dương càng cảm thấy khó làm việc. Họ không thể điều hành được phần công việc trong cuộc chiến tranh này một cách hữu hiệu vì lẽ tất cả các phương tiện dưới quyền kiểm soát của họ trước đây đã bị chuyển đi nơi khác mà không có lời giải thích


    để phục vụ cho những công tác mà họ không được quyền biết đến.

    Vào ngày thứ tư 11 tháng 11, chín ngày trước cuộc tập kích Sơn Tây, một thiếu tá quân y thuộc Tổng y viện Thái Bình Dương đã gọi điện thoại cho Porth với vẻ hoang mang. Ông ta hỏi Porth biết gì về việc một chiếc máy bay tải thương loại C-141 đã bị chuyển ra khỏi hệ thống dành riêng cho chiến trường Việt Nam và được đặt vào hệ thống trực khẩn cấp tại căn cứ không quân Clark ở Philippines. Đây là chiếc máy bay tải thương đặc biệt dùng để chở khoảng 55 thương binh với đầy đủ giương nệm. Vị sĩ quan quân y này nói thêm cho Porth biết là chiếc máy bay này được lệnh chờ xuất phát vào bất cứ giờ phút nào. Ông ta không thể hiểu việc gì đã xảy ra, chỉ có thể nghĩ là chiếc máy bay này sẽ được dùng cho công tác tải thương thông thường. Cuộc chiến vẫn còn đang xảy ra dữ dội tại miền Nam Việt Nam đã có 312 quân nhân Mỹ tử thương và 1940 bị thương vào tháng mười năm 1970.

    Porth trả lời là anh ta không có khái niệm nào cả. Nhưng rồi con số 55 đã làm cho anh ta suy nghĩ một chiếc máy bay tải thương đặc biệt để chở 55 thương binh. Như vậy là có nghĩa gì? Đấy chính là con số tù binh mà Porth đã đọc được trong tài liệu mới nhất của DIA, con số tù binh còn đang bị giam giữ tại Sơn Tây. Anh ta kiểm soát lại các tài liệu tình báo về các đường bay trinh sát mà các hình ảnh đã chụp nhưng không còn được quyền xem nữa. Các đường bay này rõ ràng là hướng về Sơn Tây. Đột nhiên Porth có cảm nghĩ một cuộc tập kích tại Sơn Tây sắp xảy ra.

    Mặc dầu biết đấy là một loại công tác mà anh ta không được phép biết, đấy là câu chuyện mà không nên thảo luận với ai cả. Nhưng ý nghĩ này vẫn còn ám ảnh anh ta. Ngày thứ hai tuần sau, 16 tháng 11, anh ta tự lập một bản thuyết trình tình báo riêng cho mình đấy là một bản sơ đồ có thể dùng để gắn các hình ảnh và bản đồ để trình bày diễn tiến công tác. Sau đó các tấm ảnh được tháo ra ngay, bỏ vào phong bì, và cho vào tủ hồ sơ khóa lại trong căn phòng mật kín. Qua bản thuyết trình tự lập này, các dấu hiệu tình báo lại càng chứng tỏ cho anh ta biết một cuộc tập kích tại Sơn Tây thật là điều rõ ràng. Porth đã thu xếp bản thuyết trình và cất giữ riêng, nhưng vào ngày thứ tư thì anh ta có căn dặn viên sĩ quan trực tại Trung tâm tình báo phải gọi cho anh ta biết ngay nếu có tin tức gì mới về tù binh bất cứ là tin tức gì qua hệ thống phát thanh, công điện, báo chí ngoại quốc v.v…

    Hai ngày sau, vào tối 26 tháng 11, Porth nhận lệnh bất ngờ đến trình diện tại văn phòng chỉ huy Bộ tư lệnh không quân Thái Bình Dương. Tại đấy anh ta thấy có một đám người đông. Một việc gì đó đang xảy ra tại Bắc Việt Nam. Mọi người có vẻ bị dao động hệ thống phòng thủ của không quân đang hoạt động tối đa, hệ thống tên lửa được bắn ra như những tràng pháo dài, hệ thống truyền tin được sử dụng đến cao độ mà từ bao năm qua tại Bộ tư lệnh Thái Bình Dương chưa hề xảy ra và không một ai biết rõ vì sao.

    Porth quan sát vị thủ trưởng của mình là đại tá Pat E., Goforth, phó giám đốc tình báo thuộc Bộ tư lệnh không quân Thái Bình Dương đang đứng nhìn tất cả mọi sự xáo trộn này. Vị phó tư lệnh Thái Bình Dương là đại tướng John P., Lavelle cũng có mặt trong đám đông. Mọi người vây xung quanh và cố gắng giải thích cho Lavelle biết những sự kiện mà Bắc Việt Nam đang thực hiện nhưng không một ai có thể giải thích được tại sao phía địch lại làm như vậy. Trong lúc ấy thì Porth quay trở về văn phòng, lấy bản thuyết trình ra khỏi hầm kín,


    sắp xếp lại, dùng một tấm vải bọc quanh và đem đến Bộ tư lệnh. Anh ta đến gần vị giám đốc trực phòng là đại tá Walter Stevens và báo cáo: “Thưa đại tá, tôi nghĩ là tôi có thể biết được việc gì đang xảy ra”.

    Bấy giờ là vào khoảng 9 giờ 30 tối. Chưa có ai có thể giải thích cho vị phó tư lệnh Thái Bình Dương biết được việc gì đang xảy ra ầm ĩ tại Bắc Việt Nam. Cuối cùng có người báo cáo với Lavelle là tên đại uý Porth có thể biết được một vài việc gì đó. Porth mở tấm vải bọc bản thuyết trình ra và nói: “Tôi tin chắc đây là một cuộc tập kích ở Sơn Tây. Cho phép tôi trình bày tại sao tôi lại nghĩ như vậy”.

    Lavelle nghe sơ qua vài lời thuyết trình rồi nhìn vào đôi mắt của Porth, và nói thẳng thừng: “Mẹ kiếp, tôi nghĩ là đại uý đã điên rồi?”.

    Porth vội vàng rút lui ra khỏi đám đông. Anh ta chỉ còn nhớ lại một phản ứng về vị chỉ huy cao cấp mới gặp: “Thật lạ quá! Tướng Lavelle chưa bao giờ chửi thề cả”.

    Lavelle về lại văn phòng dùng điện thoại đỏ, đấy là đường dây thượng khẩn liên lạc thẳng với Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương và yêu cầu được nói chuyện với đô đốc McCain. Lavelle được cho biết McCain đang ở trong phòng hành quân và không ai được phép quấy rầy ông ta. Lavelle yêu cầu được nói chuyện với tướng Corcoran, nhưng Corcoran hiện ở trong phòng với McCain và cũng không ai được phép quấy rầy. Lavelle yêu cầu một sĩ quan tùy viên đem một phiếu trình nhỏ vào phòng cho hai vị ấy. Trên phiếu trình này ông ta giải thích về sự lo lắng liên quan đến một chuyện gì lớn lao đang xảy ra tại Bắc Việt Nam. Một vài giây sau thì có tiếng một vị phó đô đốc nói ở đầu dây: “Các vị tư lệnh đã biết rõ mọi việc rồi. Dù có xảy ra việc gì đi nữa thì tình hình cũng đã được kiểm soát an toàn. Yêu cầu Lavelle chỉ thị cho mọi người yên tâm, đừng thắc mắc và đừng bàn tán, suy luận”.

    Ba ngày sau, 23 tháng 11, Lavelle nghe Bộ trưởng Quốc phòng Laird họp báo tại Lầu Năm Góc về một cuộc tập kích giải thoát tù binh tại một trại tù gọi là Sơn Tây. Một trong những điều lạ lùng của hệ thống truyền tin quân sự mà ít ai ngờ tới là sự việc các buổi họp báo hàng ngày tại Lầu Năm Góc đều được các Bộ tư lệnh lớn trên thế giới bắt được rõ ràng như cuộc họp báo đang xảy ra trước mắt. Một số ít nhà báo tại Lầu Năm Góc cũng không thể ngờ được những câu hỏi gay gắt của họ về cuộc chiến Việt Nam, thường được nhiều người nghe qua đường dây trực tiếp, từ Teheran cho đến Sài Gòn đều bắt được.

    Ngày hôm đó khi đang làm việc dưới căn hầm thì Porth nhận được lệnh đến trình diện vị phó tư lệnh. Khi anh ta bước vào văn phòng thì Lavelle vẫn còn đang nghe buổi họp báo của Laird. Lavelle nói: “Đại uý ngồi xuống đây. Tôi nghĩ là anh cũng thích nghe buổi họp báo này với tôi”. Trong suốt cả quá trình thực hiện chiến dịch Sơn Tây đây là một cử chỉ thân thiện nhất mặc dù không nói rõ ra. Khi buổi họp báo chấm dứt, Lavelle hỏi Porth: “Có chắc là anh không được biết trước việc gì đã xảy ra không?”. Porth trả lời: “Thưa đại tướng, tôi không được biết trước, tôi chỉ đoán thôi”.

    Suốt cả 5 năm qua, Blackburn và Mayer không hay biết gì về câu chuyện của Porth. Một trong hai người đã phản đối cho rằng câu chuyện ấy không thể nào xảy ra được, vì không


    thể nào có sự sơ hở về vấn đề an ninh bảo mật suốt trong quá trình kế hoạch tập kích và cho dù có sơ hở đi nữa thì cũng không ai có thể khám phá ra được sớm như vậy: có thể một việc gì bất ổn nào đó sẽ xảy ra sau cuộc tập kích mà thôi. Cũng trong thời gian 5 năm trôi qua Mayer vẫn không tin là Fontaine đã thực sự điều tra về mọi việc sơ hở đối với vấn đề an ninh quanh vụ Sơn Tây ông ta chưa nghe ai nói về việc này cả, vì nếu có thì chính ông ta là người đã bị hỏi trước tiên.

    Mayer cũng nghĩ rằng Fontaine có lẽ cũng bị tức tối không kém khi có một nhà báo tiết lộ là Simons đã đổ bộ nhầm doanh trại.

    Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp đã dành nhiều thời gian trong suốt năm đó để hoạch định một phương án hành động ngay sau khi cuộc tập kích Sơn Tây chấm dứt. Vì lẽ quá lo lắng, gần như là tuyệt vọng trong việc giải quyết vấn đề tù binh. Lầu Năm Góc đã sẵn sàng đề nghị việc tái diễn một cuộc tập kích như ở Sơn Tây, nhưng trên một địa bàn rộng lớn và có nhiều rắc rối hơn. Đầu năm 1972 các vị tư lệnh trong Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp đã họp mặt để xét lại kế hoạch này. Moorer nghĩ đấy là một kế hoạch tốt cho nên đã mời Laird đến tham dự buổi họp thứ nhì vào đầu tháng 5.

    Trong thời gian này chỉ còn 62.600 lính Mỹ ở tại Việt Nam, nhưng con số tù binh đã tăng lên 525 và 1150 bị mất tích tại Đông Nam Á, tổng thống Nixon đã thăm Trung Quốc và Bắc Việt Nam đã tiến công dữ dội miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ giáng trả lại bằng cách thả mìn cảng Hải Phòng. Các cuộc thả bom tại miền Bắc lại được thực hiện. Tuy nhiên Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục từ chối thảo luận vấn đề tù binh. Hoa Kỳ ở trong tình trạng thất vọng và các vị tư lệnh hỗn hợp đã sẵn sàng lưu tâm đến bất cứ kế hoạch nào có thể đem được tù binh về nước.


    Đề nghị mà các chuyên viên kế hoạch trong Bộ Tổng Tham mưu hỗn hợp trình lên cho giới lãnh đạo đầu não đã chứng tỏ tình hình liên quan đến tù binh đã trở nên tuyệt vọng và cũng đồng thời chứng tỏ chính phủ Hoa Kỳ thiết tha đến các tù binh này. Đề nghị này đưa ra kế hoạch tổ chức một cuộc tập kích quy mô gồm 2 sư đoàn rưỡi đổ bộ vào Bắc Việt Nam, như là một cuộc xâm chiếm gồm 57.500 lính để cứu khoảng 500 tù binh Mỹ. Cuộc đại tập kích này phối hợp nhảy dù, xe lội nước và các đơn vị cơ động không quân để ồ ạt bao vây Hà Nội bằng quân đội Mỹ, ngăn chặn mọi ngả đường của Bắc Việt Nam. Các toán biệt kích nhỏ sẽ chiếm trại tù Hỏa Lò, và những trại tù khác như ở Sở Thú, là những nơi được biết có tù binh bị giam giữ. Để che giấu việc điều động các đơn vị nhảy dù trong khu vực sát Hà Nội, một kế hoạch ngụy trang được đưa ra làm giống như có các cuộc thao dượt hỗn hợp đang được tổ chức tại vùng Tây Thái Bình Dương, trong đó sư đoàn nhảy dù 82 sẽ tham dự lần đầu tiên. Sau khi tập dượt tại một hòn đảo nào đó trên đường đi tham dự cuộc thao dượt, sư đoàn 82 sẽ bất ngờ nhảy ngay xuống những điểm chốt quanh vùng ngoại ô Hà Nội. Trong khi đó các toán biệt kích sẽ nhảy dù xuống các trại tù ngay trong vòng thành Thủ đô. Kế hoạch được soạn thảo tỉ mỉ một lần nữa các chuyên viên kế hoạch Sơn Tây cũng có tham dự hoạch định việc này tỉ mỉ cho đến mức các sơ đồ chi tiết đặt ống cống tại trại tù Hỏa Lò cũng đã nhờ được các chuyên viên họa đồ và kỹ sư Pháp, người đã đặt các ống cống này hàng bao năm trước đây thuật lại.


    Một cuộc đại tập kích như vậy sẽ là một “trò chơi” ngoài sức tưởng tượng, có thể coi như là một canh bạc. Các chuyên viên kế hoạch biết trước sẽ có nhiều binh sĩ tập kích chết hơn là số tù binh được cứu thoát, và họ cũng không biết rõ được từng địa điểm một có giam giữ tù binh. Cơ quan DIA chỉ có thể xác định được 9 địa điểm trong số 13 trại tù mà Bắc Việt Nam đã từng sử dụng hoặc đang sử dụng kế hoạch cũng có dự kiến chỉ giải thoát được số tù binh tại các trại tù đã được xác định mà thôi. Họ suy luận rằng sau cuộc đại tập kích này Hà Nội sẽ trao trả những tù binh nào còn sót lại mà các toán tập kích đã không thể tìm ra địa điểm để giải cứu được.

    Các toán biệt kích này sẽ được hoạt động tự do hơn là các toán biệt kích trước đây của Simons. Nhiệm vụ của họ không những chỉ lo việc cứu càng nhiều tù binh càng tốt mà lại còn cố lo bắt cóc được viên chức cao cấp nào của Bắc Việt Nam cấp bậc càng cao thì càng quý và áp giải những người bị bắt cóc này ra khỏi Việt Nam. Sau đó Bắc Việt Nam sẽ được mời thảo luận việc trao đổi giữa các tù binh còn sót lại với những người cao cấp bị bắt cóc và như vậy thì canh bạc sẽ đảo ngược.

    Mặc dù kế hoạch này đã được triển khai đến điểm một sư đoàn lính thủy đánh bộ sẵn sàng xuống tàu và các lực lượng khác sẵn sàng lên đường, nhưng cuối cùng lệnh xuất phát tối hậu đã không được ban ra. Một trong những chuyên viên kế hoạch sau này có nói là theo quan điểm của ông ta thì một cuộc tập kích như vậy sẽ chấm dứt ngay cuộc chiến. Ông ta nói thêm: “Cái nước quỷ quái này thật sự đã tuyệt vọng. Đấy là điều gần như chúng ta bắt buộc phải làm. Nếu chiến dịch quy mô này được xuất phát thì cuộc chiến sẽ chấm dứt trong vòng hai tuần lễ.


    Nhưng cuộc chiến còn kéo dài thêm 11 tháng nữa mới chấm dứt. Hằng bao năm sau CIA mới cho biết là họ không biết gì về kế hoạch đề nghị bao vây Hà Nội với 3 sư đoàn rưỡi. Trí nhớ của cơ quan CIA tỏ ra quá kém vì chính họ cũng đã từng nói không biết gì về cuộc tập kích đã xảy ra tại Sơn Tây. Hồ sơ lưu trữ tài liệu của họ có vẻ không đầy đủ. Một vị phó giám đốc CIA có giải thích: “Không có tài liệu gì nhiều về chuyện Sơn Tây được viết ra trên giấy”. Một vài tài liệu lưu trữ quan trọng tại Lầu Năm Góc dường như cũng bị thất lạc, các tủ hồ sơ đã được “tinh giản” lại vào năm 1973. Trí nhớ của một vài người đã tham dự việc thiết lập kế hoạch cuộc tập kích có khi còn tỏ ra sáng suốt hoặc có khi lại quá e dè không muốn tiết lộ điều gì. So sánh với thời gian vào năm 1970 thì ngày hôm nay có nhiều chuyện liên hệ với cuộc tập kích Sơn Tây mới được hé mở ra cho nhiều người biết. Tuy nhiên nhiều điều thắc mắc vẫn còn tồn tại.

    Trái với dư luận lúc bấy giờ, việc tình báo yểm trợ cho cuộc tập kích đã tỏ ra có hiệu quả cao. Nhưng có phải vì kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch đã bị giới hạn trong việc không cần phải chém giết nhiều không? Nếu cuộc tập kích được xuất phát ngay sau khi Lầu Năm Góc phát hiện có tù binh Mỹ ở Sơn Tây thì liệu rằng số tù binh này có được giải cứu kịp thời không? Phải chăng Lầu Năm Góc đã quên một trong những phương châm hành động ưa thích nhất của tướng George Patton: “một kế hoạch tốt được thực hiện một cách dữ dội ngay lập tức còn hay hơn là một kế hoạch hoàn hảo sẽ được thực hiện trong tuần tới?”. Hoặc phải chăng Lầu Năm Góc đã có lý khi cần phải đặt ra một kế hoạch không những chỉ tốt mà lại còn phải hoàn hảo để cho Simons và các toán lính của ông ta có thể nhảy vào và ra khỏi Bắc


    Việt Nam an toàn, nếu không cứu được tù binh nào cả?

    Tuy nhiên nếu hệ thống tình báo yểm trợ cuộc tập kích là một hệ thống có hiệu lực thì tại sao họ phải đợi đến phút chót mới khám phá ra được việc tù binh đã bị di chuyển đi chỗ khác trước đó bốn tháng rưỡi vì một trận lụt? Hoặc phải chăng họ đã biết trước điều đó nhưng không nói cho các chuyên viên kế hoạch tập kích được biết họ cũng không nói cho những người đã sẵn sàng hi sinh tính mạng để thi hành kế hoạch đó.

    Một nhân viên cao cấp của giới tình báo sau này có xác nhận là tin tức tù binh bị di chuyển đã được biết trước cuộc tập kích, nhưng chỉ có một số ít người biết được chuyện này thôi. Ông ta đã nói thẳng trong một cuộc thẩm vấn có ghi âm: “Vào tháng bảy năm 1970 có một trận bão dữ dội tại Bắc Việt Nam. Con sông chảy qua Sơn Tây bị ngập lụt, khi còn cách vòng rào trại tù độ hai bộ thì nước ngừng dâng cao. Nhà cầm quyền Bắc Việt tỏ vẻ lo âu cho nên đã sơ tán tù binh ra khỏi Sơn Tây”.

    Khi được hỏi ông ta biết việc này trước hay sau khi xuất phát cuộc tập kích, thì ông ta trả lời ngay: “được biết trước vào tháng bảy. Nhưng đến tháng chín thì có một số người lại được đưa về đó. Tôi muốn nói rõ là “một số người” nhưng chúng tôi không biết chắc là ai. Đây là phần chính của câu chuyện. Tôi không biết là nguồn tin này có được nhiều người biết đến không, nhưng có điều chắc chắn là tù binh đã bị sơ tán vì mưa và bão lụt vào tháng bảy”.


    Không biết các trận lụt vào tháng bảy có phải do chiến dịch “Popeye” gây ra hay không? Các chiến dịch mưa nhân tạo này được thực hiện tại Bắc Việt Nam vào năm 1967 và 1968,

    sau đó lại chuyển sang Lào từ 1969 tới 1972 đã giữ kín nhiều điều bí mật về cuộc chiến Việt Nam. Trong một cuộc điều trần tối mật tại Uỷ ban đối ngoại Thượng viện vào tháng 3 năm 1974, các nhân chứng đã tuyên bố rằng các nguồn tin liên quan đến chương trình chiến dịch này là quá quan trọng và bí mật đến nỗi các cố vấn thân cận nhất của Tổng thống cũng không được phép biết. Một nhân chứng thuộc binh chủng không quân đã giải thích rằng tài liệu liên hệ tới “Popeye” được bảo mật ở mức độ cao nhất vì ngay cả các tin tức về chiến dịch cũng không được tiết lộ cho Uỷ ban An ninh quốc gia biết. Uỷ ban này có một bộ phận liên lạc với các cơ quan được thành lập năm 1972 nhưng chính bộ phận này cũng không được biết gì về chiến dịch “Popeye” trong khi cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn, và mỉa mai thay nhiệm vụ chính của bộ phận này lại là để tìm hiểu việc sử dụng các hoạt động có liên quan đến thời tiết và địa lý như là một loại vũ khí chiến tranh. Một nhân chứng khác nữa là vị phụ tá cho thứ trưởng quốc phòng đặc trách công việc Đông Nam Á và Thái Bình Dương, người mà lực lượng phản ứng nhanh của Lầu Năm Góc tại Việt Nam phải trình báo mọi việc đã thú nhận rằng: “Lần đầu tiên tôi biết đến chiến dịch này là do đọc một bài báo của Jack Anderson”. Nhưng ông ta không phải là nhân vật quốc phòng cao cấp duy nhất đã bị che giấu. Ngay chính cả Bộ trưởng Quốc phòng Laird cũng đã nói với Uỷ ban đối ngoại Quốc hội vào năm 1972 rằng: “Chúng ta chưa hề thực hiện một chiến dịch nào vào loại như vậy tại Bắc Việt Nam”. Hai năm sau, vào năm 1974 ông ta đã phải viết cho thượng nghị sĩ Fullbright biết là ông ta vừa mới được báo cáo về các hoạt động như vậy đã thực hiện.

    Không giải thích lý do vì sao một nhân vật dân sự cao cấp số một tại Lầu Năm Góc như ông ta mà lại bị che giấu việc đó. Trong bức thư Laird chỉ bày tỏ sự đáng tiếc là các nguồn tin liên hệ đã không được thông báo cho ông ta biết trước.


    Không biết có phải vì lý do bảo mật tuyệt đối trong các cơ quan về chiến dịch “Popeye” hay không được biết về các tù binh đã được di chuyển đi nơi khác lúc nào, tại sao? Carver ở cơ quan CIA không tìm thấy được việc liên hệ nào giữa trận lụt và việc di chuyển tù binh đối với chiến dịch “Popeye”. Ông ta nhớ lại mặc dù sự ghi nhớ này là sai lầm. Có một vài công tác “Popeye” đã được thực hiện trên vùng trời phía tây Sơn Tây vào mùa hè năm đó và ông ta có nói: “Tôi nghĩ rằng các anh đã bị các trận mưa ấy làm ướt hết cho nên cứ thắc mắc mãi về điều đó”. Nhưng vào năm 1976 thì Carver thú nhận là lúc bấy giờ ông ta thậm chí không nghĩ đến chuyện nối liền các sự việc xảy ra với nhau. Một chuyên viên tình báo cao cấp khác sau này lại xác nhận là cơ quan của ông ta đã biết rõ việc tù binh bị di chuyển vào tháng 7 hoặc đầu tháng 8. Được hỏi là các chuyên viên kế hoạch tập kích có được thông báo cho biết trước về việc này không thì ông ta đáp: “Có chứ, có chứ! Nhưng chỉ báo cho cấp trên của Manor biết mà thôi”. Các vị Tư lệnh Tham mưu hỗn hợp có được báo cáo về việc này không? Ông ta đáp lại: “Điều này hơi khó trả lời. Có lẽ quý vị ấy đã không được thông báo”.

    Bằng chứng hiển nhiên là không có một người nào trong nhóm kế hoạch Sơn Tây được thông báo về việc này. Chính Blackburn sau này có nói: “Tôi sẽ xử lý ngay tên nào đã biết tù binh bị sơ tán, hoặc đã nghĩ đến chuyện đó mà lại không cho tôi biết”. Mặc dù cơ quan DIA có trong tay đầy đủ hình ảnh rõ ràng về trận lụt khi nó đang xảy ra nhưng Mayer vẫn cứ khăng khăng cho rằng không ai biết việc tù binh bị di chuyển, mãi đến tháng 11 mới được hay tin ấy. Mayer nói: “Tôi sẽ sẵn sàng trực điện gọi ngay kẻ nào đã phát biểu điều đó nó là một tên nói dối”. Moorer cũng chối là ông ta không hề hay biết gì về tin tức ấy. Mãi cho đến buổi tối trước ngày cuộc tập kích Sơn Tây được xuất phát thì các chuyên viên kế hoạch mới được biết tin tù binh đã di chuyển, qua nguồn tin ở trong bao thuốc lá của Nguyễn Văn Hoàng. Nhưng lúc ấy mọi người vẫn tin tưởng rằng đã có một số người nào khác được chuyển về lại Sơn Tây.

    Số lượng và chất lượng của các nguồn tin tình báo cung cấp cho nhóm kế hoạch Sơn Tây quả thực là đáng khen. Nếu không thì Simons và lính của ông ta đã không thể đổ bộ vào và thoát ra khỏi Sơn Tây an toàn, cho dù có cứu được hay không cứu được tù binh. Nhưng nhìn ở khía cạnh khác thì việc lập kế hoạch, việc thi hành và giai đoạn sau cuộc tập kích cần phải được xem xét lại dưới ánh sáng các nguồn tin mà họ đã “không” được thông báo. Đợi cho đến phút chót họ mới biết được số tù binh mà họ hy vọng giải cứu đã bị di chuyển. Đợi cho đến phút chót Blackburn mới biết được việc CIA có gài một điệp viên vào vùng phụ cận Sơn Tây, và hoạt động của điệp viên này có thể gây nguy hại cho việc bảo toàn an ninh của cuộc tập kích. Chỉ có Moorer và Donald Bennett ở cơ quan DIA được biết trước mà thôi.

    Còn Blackburn thì được biết do một sự tình cờ sau này. Mãi cho đến sau khi cuộc tập kích đã chấm dứt, các chuyên viên kế hoạch mới hiểu được nguyên nhân nào đã khiến Lầu Năm Góc và Nhà Trắng có ý định tiến hành những cuộc oanh kích rầm rộ trên vòm trời Bắc Việt Nam vào cùng một thời điểm với cuộc tập kích Sơn Tây.

    Nhưng dù sao thì Blackburn và các chuyên viên kế hoạch Sơn Tây khác cũng đã biết nhiều tin tức hơn là Manor, người chỉ huy toàn diện cuộc tập kích và Simons người thực hiện cuộc tập kích. Tại sao Manor và Simons lại không được báo cho biết trước là trại tù có thể bị bỏ


    trống? Trong một cuộc hành quân mà mỗi phút mỗi giây đồng hồ đều phải được tính đến có lẽ các chuyên viên kế hoạch đã nghĩ đến việc nếu tuyên bố sẽ tiến công một trại tù bỏ trống thì điều này gây nên ảnh hưởng tâm lí trái ngược cho các toán tập kích. Dù với lý lẽ nào đi nữa, dù các toán tập kích đã không được biết trước, dù tin tình báo cho biết tù binh đã bị di chuyến, nhưng với nguồn tin sau cùng là đã có một nhóm khác mới dọn về Sơn Tây, thì cuộc tập kích vẫn nên được xuất phát như đã ấn định.

    Tại sao vậy? Tại sao một cuộc tập kích trước đây đã được đánh giá là có tới 95% thành công mà nay chỉ còn có từ 10 hoặc 20 hoặc cao hơn nữa là 50% may mắn mà vẫn được thi hành? Vị phó tham mưu trưởng lục quân là Palmer đã nhấn mạnh cho biết là các vị tư lệnh hỗn hợp, trước cuộc tập kích, chưa bao giờ được ai báo cáo cho biết việc chỉ có 50 hay trên 50% may mắn thành công. Còn Carver ở cơ quan CIA vị giám đốc của cơ quan này đã tuyên bố không được hỏi ý kiến gì về cuộc tập kích thì nói là vào phút chót các đường dây liên lạc bị trắc trở. Điều này có thể khiến chúng ta nghĩ rằng trại tù đã bị bỏ trống. Ông ta còn nói thêm: “Có một suy luận cho thấy là tù binh đã di chuyển đi nơi khác”. Vào phút chót đã xảy ra một cuộc tranh luận qua đường dây điện thoại giữa Carver và Laird về việc quyết định có nên thi hành cuộc tập kích hay không?

    Nhưng Mayer sau này nhớ lại là theo sự hiểu biết của ông ta thì việc trại tù bị bỏ trống là một bằng chứng hiển nhiên và nếu không phải là do Donald Blackburn phụ trách kế hoạch này thì công tác đã được đình hoãn lại. Để tự bênh vực, Blackburn lại cho rằng không có bằng chứng nào hiển nhiên cả. Ông ta nói: “Nếu tôi được biết trước là có bằng chứng hiển nhiên như vậy thì tôi đã huỷ bỏ ngay kế hoạch”. Tuy nhiên ông ta vẫn trung thực bày tỏ thêm: “Thực ra thì tôi không muốn biết tới bằng chứng đó. Tôi vẫn muốn thi hành. Tôi tìm đủ mọi cách để có thể giữ cho công tác được tồn tại. Tôi vẫn muốn chứng tỏ là chúng ta có thể xâm nhập vào đó và quấy phá bọn địch một vố chơi. Lẽ tất nhiên tôi vẫn muốn tìm thấy tù binh; nhưng tôi không muốn biết sự thật, tôi vẫn cố bám víu vào bất cứ một bằng chứng mong manh nào để thi hành cho được công tác. Việc này còn quan trọng hơn, to lớn hơn là việc giải thoát tù binh. Vẫn còn quá nhiều người không có một khái niệm nào để hiểu cho thấu mục đích của sự việc hoặc những gì chúng ta có thể thực hiện được”.

    Như vậy thì cuộc tập kích Sơn Tây đã thực hiện được điều gì? Vài người thân cận của Blackburn sau này cho biết rằng nó đã chứng tỏ điều duy nhất là khó huỷ bỏ một chiến dịch một khi đã có các chuyên viên kế hoạch quân sự nhúng tay vào, và nhất là một khi các vị tư lệnh hỗn hợp và Lầu Năm Góc đã đứng sau lưng để hỗ trợ. Đấy là sức nặng của nền hành chính quân sự. Sự nhiệt tâm và hăng hái của Blackburn, khả năng có một số người khác đã được đưa về lại Sơn Tây, sự tuyệt vọng của tù binh tại Bắc Việt Nam tất cả những điều đó chắc chắn đã gây ảnh hưởng tới quyết định cuối cùng của Laird cho thi hành công tác vào phút chót. Cũng như các nhóm cố vấn, cũng như chính Tổng thống, ông ta muốn thử liều một chuyến xem.

    Có điều mỉa mai là cũng chính Lầu Năm Góc đã may mắn thoát khỏi một sự thất bại trong khi thiết lập kế hoạch và được tin trại tù Ấp Lò đã bị bỏ trống. Nhưng nguồn tin về việc Sơn Tây bị bỏ trống lại được đưa đến vào phút chót, cộng thêm với hai báo cáo nhận được trong 10 ngày cho biết 5% tù binh đã bị chết trong các trại tù ở Bắc Việt Nam. Vì lẽ đó các nhân


    vật quyết định chỉ còn có một thời gian ngắn để đấu tranh tư tưởng giữa việc hoặc là bãi bỏ công tác để tránh thất bại hoặc là vẫn liều lĩnh cho thi hành.

    Việc liều lĩnh như vậy có đáng giá không? Các binh sĩ tập kích Sơn Tây đã thất bại trong việc giải cứu tù binh. Sự thất bại của cuộc tập kích đã đưa Lầu Năm Góc và Nhà Trắng vào việc phải đương đầu thêm với các dư luận chỉ trích về việc giải quyết cuộc chiến Việt Nam.

    H T


    Nguyên bản tiếng Anh: The Raid

    Nhà xuất bản: Harper - Row Publishers Tác giả: Benjamin F.Schemmer

    Người dịch: Lê Trọng Bình - Lâm Hải Hồ

    Không có nhận xét nào